Xu Hướng 6/2023 # Kinh Nghiệm Để Dạy Tốt Môn Tin Học Lớp 3 : Phòng Gd&Amp;Đt Mỹ Lộc # Top 7 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Kinh Nghiệm Để Dạy Tốt Môn Tin Học Lớp 3 : Phòng Gd&Amp;Đt Mỹ Lộc # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Kinh Nghiệm Để Dạy Tốt Môn Tin Học Lớp 3 : Phòng Gd&Amp;Đt Mỹ Lộc được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Kinh nghiệm để dạy tốt môn Tin học lớp 3

Kinh nghiệm để dạy tốt môn Tin học lớp 3

Cơ sở lý luận:

+ Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TTg ngày 9/12/2000 về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung chương trình là tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng CNTT vào dạy và học.

+ Thông tư số 14/2002/TT-BGD&ĐT ngày 1/4/2002 về việc hướng dẫn quán triệt chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông.

+ Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường.

+ Trong nhiệm vụ năm học gần đây Bộ trưởng giáo dục đào tạo nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT từ nay đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông của ngành.

Cơ sở thực tiễn:

* Tác dụng của CNTT trong dạy học ở bậc tiểu học:

Qua quá thực tế giảng dạy môn tin học khối 3, 4, 5 tại trường Tiểu học Mỹ Phúc tôi thấy rằng môn tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về CNTT như: Một số bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ thường dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính, …

Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại như:

+ Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải.

+ Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin.

+ Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động xã hội hiện đại.

+ Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính các sản phẩm Tin học.

+ Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng CNTT trong học tập.

+ Có ý thức tìm hiểu CNTT trong các hoạt động xã hội.

* Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm như:

+ Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn học Tập Làm Văn để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. ứng dụng soạn thảo văn bản để soạn thảo giải những bài toán đã học ở bậc Tiểu học.

+ Phần mềm vẽ: Học sinh ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học được từ môn mỹ thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà thẩm mĩ.

+ Trong chương trình Tin học ở bậc tiểu học được phân bố xen kẽ giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau những giờ học căng thẳng ở lớp …

Đó là lý do tôi chọn đề tài một số biện pháp để dạy tốt tin học lớp 3.

* Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chuyên đề ở trường Tiểu học Mỹ Phúc:

Thuận lợi:

* Nhà trường:

– Tuy môn Tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 3, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học.

* Giáo viên:

Giáo viên được đào tạo những kiến thức cơ bản về tin học để đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc tiểu học.

* Học sinh:

Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.

Khó khăn:

* Nhà trường:

Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 2 – 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.

Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh ở nhà có máy vi tính.

* Giáo viên:

Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hiện nay Bộ giáo dục và đào tạo.

 Hơn nữa khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được.

* Học sinh:

Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trọn nên phần lớn học sinh chưa mua sách giáo khoa để học, các em chỉ được học những kiến thức thông qua bài giảng của giáo viên dạy trên lớp.

Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế, nên việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính chậm chạp.

Thực trạng:

          Trước khi thực hiện chuyên đề, tôi đã khảo sát khối lớp 3 thông qua giờ dạy lý thuyết, dạy thực hành, thông qua kiểm tra bài cũ. Khi tổng hợp kết quả thu được:

Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề

Số Hs Tỷ lệ

Thao tác nhanh, đúng 20/80 25%

Thao tác đúng 30/80 38%

Thao tác chậm 25/80 31%

Chưa biết thao tác 5/80 6%

Mục đích nghiên cứu:

          – Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chuyên đề.

          – Đề ra một số biện pháp và việc dạy tin học trong bậc tiểu học.

Đối tượng nghiên cứu:

          – Môn tin học lớp 3.

          – Học sinh khối lớp 3 trường Tiểu học Mỹ Phúc.

Phương pháp nghiên cứu:

          – Phỏng vấn học sinh khối 3.

– Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới).

– Sử dụng bảng biểu đối chiếu.

– Thăm lớp, dự giờ.

– Kiểm tra chất lượng sau giờ học.

6.2. Các giải pháp thực hiện

Giáo viên có kế hoạch bài dạy, xây dựng ý tưởng, thiết kế bài dạy phù hợp:

– Ngay từ bài học đầu tiên trong chương trình học Tin học, giáo viên phải xác định rõ cho học sinh nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho học sinh quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết.

Ví dụ: Bài làm quen với máy tính (lớp 3).

Khi giáo viên giới thiệu bộ phận con chuột, giáo viên phải mô tả con chuột, có mấy loại con chuột, trên thân con chuột có những phím nào, chức năng của các phím đó, tay đặt lên con chuột đó như thế nào.

– Học sinh quan sát con chuột, quan sát thao tác của cô giáo khi sử dụng chuột trong quá trình học tập.

Giáo viên biết kết hợp giữa giờ lý thuyết và thực hành sao cho phù hợp, không nên xem nhẹ giờ dạy lý thuyết thì mới thực hành tốt được cũng như khi học sinh thực hành tốt thì sẽ hiểu sâu hơn về lý thuyết.

Ví dụ: Khi học bài thông tin được lưu trong máy tính như thế nào (khối 4). Giáo viên dạy phần lưu văn bản, mở văn bản. Khi học lý thuyết học sinh mới chỉ hiểu là lưu văn bản vào trong máy là để văn bản đó không bị mất đi, có thể mở ra được. Nhưng đến khi thực hành học sinh mới thực sự hiểu rằng khi lưu văn bản đó luôn luôn được lưu trữ và tồn tại trong máy, có thể mở ra bất cứ lúc nào để chỉnh, xem và chỉnh sửa.

– Giáo viên nên tận dụng những phương tiện sẵn có của môn tin học áp dụng vào trong giảng dạy lý thuyết để học sinh dễ quan sát và nhận biết, giúp cho buổi học thực hành của hiệu quả hơn.

Qua đợt khảo sát đầu năm học học với học sinh khối 3 (lớp 3B và lớp 3C) dạy bài các thao tác với tệp tin văn bản. Lớp 3B dạy có sử dụng đồ dùng trực quan bằng mát tính, thao tác trên máy tính. Còn lớp 3C dạy sử dụng đồ dùng trực quan bằng hộp thoại miêu tả hình ảnh trong máy tính.

Khi tổng hợp kết quả thu được:

Mức độ thao tác

Lớp 3B Lớp 3C

Số HS Tỉ lệ Số HS Tỉ lệ

Thao tác nhanh 20/40 50% 10/40 25%

Thao tác chậm 15/40 38% 20/40 50%

Chưa biết thao tác 5/40 12% 10/40 25%

Khi dạy thực hành, giáo viên giao bài tập cho học sinh một cách cụ thể, rõ ràng và kết hợp cả những kiến thức của bài học trước, hướng dẫn theo từng nhóm trước khi học sinh làm để học sinh quan sát và làm bài tập.

Ví dụ: Dạy bài vẽ đường thẳng, giáo viên giao bài tập thực hành, sau đó hướng dẫn (theo nhóm) trực tiếp trên máy cho học sinh dễ quan sát thao tác của cô và lời nói của cô. trong khi thực hành, nếu em học sinh nào chưa thực hành được, giáo viên lại hướng dẫn cho em đó hoặc bắt tay em đó và hướng dẫn các thao tác.

    Hệ thống các bài tập thực hành, các bài tập phù hợp với nội dung của bài giảng, liên hệ với một số môn học khác trong chương trình học của các em. Các bài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp, ngoài ra giáo viên cũng phải kết hợp những bài đã học trước để học sinh ôn lại và vận dụng vẽ một cách có hệ thống.

    Ngoài vẽ đường cong một chiều ra học sinh còn phải sử dụng công cụ vẽ đường thẳng, màu vẽ đã học ở bài trước để vẽ và màu nền trang trí cho các hoa văn của hình con cá trên. Từ hình con cá các em sẽ liên tưởng đến bài học trang trí hình những hình lá, hình quả táo, hình cái chén (Môn mỹ thuật lớp 3) và sáng tạo vẽ một số hình thuyền buồm đã học ở môn Mỹ thuật 3.

      Trong giờ thực hành giáo viên nên tạo sự tranh đua giữa các nhóm bằng cách phân công các nhóm làm bài thực hành, sau đó các nhóm nhận xét, chấm điểm (dưới sự chỉ dẫn của giáo viên) của nhau để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình thực hành.

      Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học.

      Sưu tầm một số trò chơi có ích để rèn luyện về cách sử dụng chuột (Blocks), luyện ngón khi sử dụng bàn phím (Mario), phần mềm luyện tư duy, tính toán, nhanh nhạy, giải trí (Dots, Soukoban).

      Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản thân đáp ứng được những yêu cầu đổi mới, cập nhật thông tin một cách đầy đủ, chính xác.

      Bên cạnh tìm hiểu kiến thức về Tin học, giáo viên cũng phải tìm hiểu các kiến thức khác như văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, tiếng anh để tự nâng cao nhận thức của bản thân.

      Giáo án minh hoạ

      Vẽ đường cong

      Mục tiêu bài học:

                – Học sinh biết mở phần mềm Paint.

      – Học sinh biết sử dụng công cụ Đường cong  để vẽ đường cong. Từ đó vận dụng để vẽ và trang trí một số hình con cá, cái chén, thuyền buồm, hình lá, quả táo…

                – Liên hệ những hình đã học trong môn Mĩ thuật để vẽ, trang trí hình vẽ sao cho thẩm mĩ và hài hoà.

      Đồ dùng:

      Giáo viên: Đồ dùng dạy học công nghệ, tại phòng tin học.

      Học sinh: Bút, vở.

      các hoạt động dạy và học:

      Giáo viên Học sinh

      1. Kiểm tra bài cũ: (2 – 3’)- Em hãy nêu cách xoá một vùng trên hình?- Em hãy nêu cách di chuyển hình?2. Giảng bài mới:Vẽ đường cong

      1. Vẽ đường cong: (5 – 6’)

      H: – ở bài học trước muốn vẽ một đoạn thẳng ta sử dụng nút công cụ nào?

      – Khi vẽ các hình có đường cong thì em sử dụng công cụ nào?

      µ Giáo viên làm mẫu.

      + B1: Chọn công cụ Đường cong  .

      + B2: Chọn màu vẽ, nét vẽ.

      + B3: Kéo thả chuột từ điểm đầu tới điểm cuối của đường cong. Một đoạn thẳng được tạo ra.

      + B4: Đưa con trỏ chuột lên đoạn thẳng. Nhấn và kéo nút trái chuột để uốn cong đoạn thẳng, tới khi vừa ý thì thả nút chuột và nháy chuột lần nữa.

      H: – Em hãy nêu lại các bước vẽ đường cong?

      – Em hãy vẽ đường cong màu đỏ, nét vẽ đậm?

      H: Em hãy vẽ hình con cá có màu nền là mầu vàng?

      2. Sự khác nhau của cách vẽ đường cong và đường thẳng (4 – 5’)

      H: – Bước 1 khác nhau chọn công cụ gì?

      H: – Bước 4 khác nhau khi vẽ như thế nào?

      µ Giáo viên vẽ mẫu hình sau:

      + B1: Chọn công cụ đường cong và công cụ đường thẳng .

      + B2: Chọn màu xanh, màu tím, nét vẽ đậm.

      + B3: Dùng đường thẳng vẽ cái thuyền và cột của buồm thuyền.

      + B4: Dùng công cụ đường cong để vẽ cột buồm của thuyền.

      3. Luyện tập (20 – 21’)

      – Quan sát màn hình:

      H: – Trong hình trên, hình nào là đường cong?

      – Chia nhóm thực hành?

      – Quan sát màn hình.

      H: – Hình trên được trang trí bởi hình gì và những nét vẽ gì?

      * Giáo viên làm mẫu học sinh quan sát.

      – Chia nhóm thực hành.

      4. Củng cố, dặn dò: (2 – 3’)

      – Nêu lại các bước vẽ đường cong?

      – Khi vẽ xong đường cong thì thả nút chuột và làm gì nữa?

      – 2 – 3 HS trả lời. 

      – Sử nút công cụ vẽ đoạn thẳng.

      – HS quan sát một số hình mẫu.

      – HS quan sát.

      – HS trả lời (4 bước).

      – HS: Bước 1: + Vẽ đường thẳng thì chọn công cụ đường thẳng .

      + Vẽ đường cong thì chọn công cụ đường cong .

      – HS: Bước 4: Đường cong phải nhấn giữ và kéo nút trái chuột để uốn cong đoạn thẳng.

      – Hs quan sát.

      – Đường viền lá, gân lá.

      – Lần lượt từng nhóm lên thực hành.

      – Từng nhóm nhận xét bài làm của nhau, GV nhận xét, cho điểm.

      – HS quan sát.

      – Trang trí bởi đường cong.

      – HS quan sát.

      – Đại diện các nhóm nhận xét bài làm của nhau.

      – Giáo viên nhận xét, cho điểm.

      – 4 bước.

      – Nháy chuột lần nữa.

      * Dự kiến sai lầm học sinh hay mắc phải:

      – Học sinh vẽ đường cong được rồi nhưng khi thả nút chuột lại quên không nháy chuột một lần nữa.

                                                           Kết luận

      Kết quả

      Qua quá trình áp dụng vào giảng dạy tin học khối 3, so sánh với bảng tổng hợp trước đó đã thu được kết quả như sau:

      Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề Sau khi thực hiện chuyên đề

      Tỷ lệ tăng, giảm

      Số Hs Tỷ lệ Số Hs Tỷ lệ

      Thao tác nhanh, đúng 20/80 25% 30/80 38% Tăng: 13%

      Thao tác đúng 30/80 38% 40/80 50% Tăng: 12%

      Thao tác chậm 35/80 31% 10/80 12% Giảm: 19%

      Chưa biết thao tác 5/80 6% 0/80 0% Giảm: 6%

        Một số bài học kinh nghiệm

        Tìm tòi sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài.

        Yêu nghề, mến trẻ, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ…

        Thăm lớp dự giờ, hội thảo phương pháp giảng dạy các bộ môn khác.

        Tích cực tham mưu với nhà trường để tăng cường nâng cấp máy tính, trang thiết bị dạy học.

        Thực hiện tốt các quy định của ngành đề ra.

          Đề xuất kiến nghị

          Trong mỗi công việc nói chung và trong công tác giảng dạy tin học nói riêng, việc tự rút kinh nghiệm và khắc phục các khó khăn bằng các hình thức trợ giúp khác là rất cần thiết đối với bản thân người làm công tác đó, nhằm giúp hạn chế tối đa việc lặp đi lặp lại để giải thích mà vẫn không rõ ràng và hết được ý nghĩa nhất là trong công tác giảng dạy thì việc lặp đi lặp lại sẽ gây nhàm chán cho giáo viên, cho học sinh, học tập sẽ mệt mỏi và hiệu quả rất hạn chế, mỗi lần vấp phải tôi đều ghi chép để lần sau tìm cách khắc phục, tất cả chỉ mong muốn làm sao cho chính bản thân được thoải mái trong việc giảng dạy đồng thời học sinh tiếp thu kiến thức được nhanh chóng và tốt hơn.

          Xin chân thành cảm ơn!

          Sáng Kiến Một Số Biện Pháp Giúp Giáo Viên Dạy Tốt Môn Tin Học Lớp 3

          CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

          Độc lập – Tự do – Hạnh phúcMÔ TẢ SÁNG KIẾNMã số………………………………………….1. Tên đề tài: “Một số biện pháp giúp giáo viên dạy tốt môn Tin học lớp3″.2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: môn Tin học tiểu học.3. Mô tả bản chất của sáng kiến3.1. Tình trạng giải pháp đã biết– Đất nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới. Đảng và Nhà nước ta luôn coitrọng mục tiêu giáo dục và đặt lên hàng đầu. Vì thế việc sử dụng Công nghệ thôngtin ngày càng được nâng lên, cho nên việc giảng dạy môn tin học cho thế hệ trẻ,thế hệ tương lai mai sau trong trường tiểu học là rất quan trọng không thể thiếuđược. Đồng thời xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay đang đặt ra cho giáo viêntiểu học là đòi hỏi phải làm sao để dạy tốt các môn học trong đó có môn Tin họcnói chung đặt biệt là học học sinh lớp 3 nói riêng, các em mới bắt đầu làm quen vớimôn học này;– Đây là một môn học mới, khó học, có nhiều khái niệm trừu tượng, ngônngữ tiếng Anh. Học sinh khó hiểu, khó hình dung nên học tin học rất dễ chán nản,tiết học dễ nhàm chán. Một thực tế hiện nay là cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ

          cho việc dạy và học tin học còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tiết học thực hành ít có hiệuquả, giờ thực hành không khỏi còn nhiều lộn xộn, xảy ra tình trạng học sinh dànhmáy, hai ba học sinh ngồi cùng máy, thậm chí có những học sinh nhúc nhát bị bạndành máy nên rất ít khi được thực hành. Như vậy, để khắc phục được hạn chế nêutrên, trước hết người giáo viên phải có một phương pháp dạy học thật tốt, mộtphương pháp tổ chức giờ thực hành sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. Phươngpháp dạy học của giáo viên có vai trò rất quan trọng, nó sẽ là công cụ giúp học sinhhứng thú học tập hơn. Hơn nữa, nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập của đất nước hiện

          nay thì việc vận dụng các phương pháp dạy học tiến bộ, tích cực trong tất cả cácmôn học nói chung cũng như giảng dạy môn tin học nói riêng là rất cần thiết.Từ các lý do trên, cho thấy môn tin học là rất quan trọng đối với học sinhtiểu học. Bởi lẽ trong thời gian qua, bản thân cũng đã tìm tồi, nghiên cứu rất nhiềubiện pháp để dạy tốt môn tin học ở tiểu học nói chung và khối lớp 3 nói riêng.Trong quá trình thực hiện các giải pháp đó đã thể hiện được những ưu điểm và hạnchế sau:* Ưu điểm của giải pháp cũMôn Tin học là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để họcsinh có thể học bắt đầu từ khối lớp 3, lắp đặt đầy đủ về cơ sở vật chất cho môn họcnhư phòng máy tính, trang thiết bị đảm bảo phục vụ cho việc dạy và học tại trường.Giáo viên được đào tạo những kiến thức cơ bản về tin học để đáp ứng yêu cầu choviệc giảng dạy môn Tin học trong bậc tiểu học. Được sự chỉ đạo, hướng dẫn kịpthời của Phòng giáo dục và đào tạo về chuẩn kiến thức kĩ năng, phân phối chươngtrình. Được sự quan tâm giúp đỡ trực tiếp từ Ban giám hiệu nhà trường và cácđồng nghiệp về chuyên môn cũng như quá trình dạy học. Từ đó, bản thân từngbước thể hiện tốt vai trai trò trách nhiệm của mình, giúp học sinh mạnh dạn hơnkhi tiếp cận với máy tính. Bước đầu hình thành cho các em năng lực tổ chức và xửlý thông tin, đồng thời làm quen với các thuật ngữ đặc thù của môn tin học, khámphá các hoạt động trong lĩnh vực Công nghệ thông tin. Có ý thức và thái độ đúngkhi sử dụng máy tính cho việc học tập các môn học và hơn nữa tạo ra được nhiềusản phẩm tin học. Làm nền tảng để các em biết ứng dụng Công nghệ thông tinnhằm phục vụ lợi ích của bản thân theo hướng tích cực.* Hạn chế của giải pháp cũ– Giáo viên dạy môn Tin học không phải được đào tạo chuyên môn về sưphạm Tiểu học nên bước đầu cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc giảng dạy chocác em. Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫncòn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 2 – 3 em ngồicùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một

          khắc phục được những sự cố kịp thời, đem lại hiệu quả lớn trong quá trình nângcao chất lượng giờ thực hành.Thứ hai: Giáo dục ý thức học tập cho học sinh khi vào phòng máy;Trong các giờ học đầu tiên, giáo viên nên khái quát đặc trưng bộ môn cùngvới mục tiêu cần đạt được khi học môn học này. Đồng thời, giới thiệu tầm quantrọng của ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập và làm việc sau này. Liệt kê,ví dụ dẫn chứng cụ thể về giá trị những sản phẩm tin học trong thực tế. Quy địnhnội quy phòng máy đối với chế độ học tập, làm việc cũng như sự đặc biệt cần thiếtcủa công cụ học tập là máy tính. Từ đó, giáo dục các em cách bảo quản, cách sửdụng, sử dụng hiệu quả và an toàn về điện. Tạo cho học sinh luôn ý thức được máytính nhằm để phục vụ học tập, làm việc là chủ yếu, không nên lạm dụng vào việcchơi games. Thường xuyên nhắc nhở các em giữ gìn máy tính cẩn thận, sắp xếp cótrật tự các bộ phận đúng nơi quy định khi thực hành xong. Tóm lại, giáo viên nêntạo điều kiện để học sinh gần gũi hơn với máy tính, xem máy tính thật sự là ngườibạn thân, cùng học, cùng chơi và có ý thức tự giác giữ gìn nó như máy tính củachính mình.Thứ ba: Sắp xếp nội dung, phương pháp học tập cho từng phần học, ápdụng bài tập vào giờ học hiệu quả và phù hợp;– Giáo viên có kế hoạch dạy học, xây dựng ý tưởng, thiết kế bài dạy phù hợpvới lứa tuổi học sinh lớp 3, phải hết sức trực quan sinh động nhằm tại cho các emsự hiếu kì. Ngay từ bài học đầu tiên trong chương trình học Tin học, giáo viên phảixác định rõ cho học sinh nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của cácbộ phận đó bằng cách cho học sinh quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết bằngvật thật;Ví dụ: Bài “Làm quen với máy tính” (lớp 3);+ Khi giáo viên giới thiệu bộ phận con chuột, giáo viên phải mô tả conchuột, có mấy loại con chuột, trên thân con chuột có những phím nào, chức năngcủa các phím đó, tay đặt lên con chuột đó như thế nào;

          + Học sinh quan sát con chuột, quan sát thao tác của giáo viên khi sử dụngchuột trong quá trình học tập;– Giáo viên biết kết hợp giữa giờ lý thuyết và thực hành sao cho phù hợp,không nên xem nhẹ giờ dạy lý thuyết thì mới thực hành tốt được cũng như khi họcsinh thực hành tốt thì sẽ hiểu sâu hơn về lý thuyết. Bên cạnh, cũng nên tận dụngnhững phương tiện sẵn có của môn tin học (phần mềm Netop School, máy chiếu,…) áp dụng vào trong giảng dạy lý thuyết để học sinh dễ quan sát và nhận biếtgiúp cho buổi học đạt hiệu quả hơn. Khi dạy thực hành, giáo viên giao bài tập chohọc sinh một cách cụ thể, rõ ràng và kết hợp cả những kiến thức của bài học trước,hướng dẫn theo từng nhóm trước khi học sinh làm để học sinh quan sát và làm bàitập;Ví dụ: Dạy bài “Vẽ đường thẳng”, giáo viên giao bài tập thực hành, sau đóhướng dẫn (theo nhóm) trực tiếp trên máy cho học sinh dễ quan sát và tiếp thu tốtthao tác cùng lời giảng của giáo viên. Trong khi thực hành, nếu em học sinh nàochưa làm được, giáo viên hướng dẫn cho em đó nắm được các bước thực hànhtrong bài. Tuy nhiên, cũng nên tạo mọi điều kiện để các em phát huy khả năng tìmtòi sáng tạo của mình (kéo thả chuột trái được đường thẳng với màu là màu vẽ,ngược lại kéo thả bằng chuột phải là màu nền…);– Hệ thống các bài tập thực hành, các bài tập phù hợp với nội dung của bàigiảng, liên hệ với một số môn học khác trong chương trình học của các em. Cácbài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp, ngoài ra giáo viêncũng phải kết hợp những bài đã học trước để học sinh ôn lại và vận dụng vẽ mộtcách có hệ thống;Ví dụ: Trong một bài thực hành vẽ hình con cá:

          Ở hình trên, ngoài vẽ đường cong một chiều ra học sinh còn phải sử dụngcông cụ vẽ đường thẳng, màu vẽ đã học ở bài trước để vẽ và màu nền trang trí chocác hoa văn của hình con cá trên. Từ hình con cá trên các em sẽ liên tưởng đến bàihọc trang trí hình những hình lá, hình quả táo và các hình khác (Môn mỹ thuật lớp3) và sáng tạo vẽ một số hình thuyền buồm đã học ở môn Mỹ thuật 3…;– Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cậpmạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quátrình dạy và học. Đưa các trò chơi dạng trắc nghiệm vào trong giờ học như: Tròchơi chiếc nón kỳ diệu, trò chơi đoán ô chữ, trò chơi rung chuông vàng,…Ví dụ: Ở tiết “Ôn tập gõ phím” ta có thể đưa vào bằng trò chơi rung chuôngvàng giúp các em vừa chơi vừa ôn lại kiến thức cũ;Ở bài “Bàn phím máy tính”: để giúp các em làm quen với bàn phím, giáoviên cho học sinh nêu tên tất cả các phím và cho chơi các trò chơi có nội dung vềbàn phím. Trong đó có trò chơi Pi-a-no (phần mềm Pianito) hay có thể hướng dẫncác em mở phần mềm soạn thảo để gõ họ tên hoặc tên trường mình đang học đểtránh sự nhàm chán với một trò chơi và cũng để giới thiệu được một lần phần mềmsoạn thảo sau này các em sẽ học. Làm được như thế, học sinh vừa nắm được têncác phím vừa làm quen một lần với phần mềm soạn thảo và còn gây được sự hiếukì hứng thú học tập của các em.– Đối với học sinh khối 3, giáo viên nên cho các em học trực tiếp trongphòng máy để các em được tiếp xúc với máy tính thường xuyên, được học các kiếnthức ngay trên máy tính của mình, học lý thuyết đi đôi với thực hành ngay tại tiếtdạy để các em thấy và nhớ các biểu tượng, các nút, các lệnh, các thao tác trên máytính. Thực hiện theo phương châm mắt thấy, tay nghe, tay làm. Khi dạy học với nộidung thực hành, giáo viên không thể áp đặt, bắt buộc học sinh thực hành một cáchthụ động theo ý muốn của mình mà giáo viên phải có phương pháp để phát huytính tích cực, sang tạo của các em. Thường xuyên khuyến khích, khen thưởng, biểudương để học sinh tự giác thực hành tích cực nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thànhkỹ năng, kỹ xảo cho mình;

          – Để học sinh thực hành tốt và không lung túng, giáo viên nên đoán trướccác lỗi có thể xảy ra mà lưu ý khi thực hành áp dụng. Giáo viên cũng nên làm mẫucác lỗi, yêu cầu học sinh nêu ý kiến và cách xử lí về những khó khăn của bản thângặp phải, rút kinh nghiệm chung sau đó hướng dẫn cách sửa để các em quan sáttrực tiếp. Đồng thời, thường xuyên nhắc lại nhiều lần các lỗi đó khi quan sát họcsinh trong giờ thực hành và bao quát lớp, sửa lỗi kịp thời cho từng em;Ví dụ: Bài “Vẽ đường cong”, Học sinh vẽ được đường thẳng nhưng chưavừa ý nên chỉnh sửa đường thẳng đó rồi mới uốn cong kết quả không được. Vẽđường cong được rồi nhưng khi thả nút chuột lại quên không nháy chuột vào côngcụ một lần nữa khi vẽ đường cong thứ hai, chưa biết cách uốn cong lần hai.Thường xuyên thả ngón tay giữ chuột khi chưa hoàn thành đường cong, chưa đặtđược con trỏ đúng vị trí thích hợp để uốn cong theo mẫu,…– Giáo viên phải nhận thức được phương pháp dạy học lý thuyết gắn liền vớithực hành là không thể thiếu khi dạy bất kỳ một nội dung tin học nào. Đây là mộtphương pháp dạy học chủ đạo, trong quá trình dạy học Tin ở tiểu học. Bởi vì: họcsinh tiểu học là lứa tuổi mà tâm lý chưa phát triển ổn định, khả năng diễn đạt chưasâu, nếu học lý thuyết chung chung học sinh rất mau quên. Kiến thức tin học là nộidung rất mới mẻ, xa lạ và có nhiều khái niệm rất trừu tượng đối với nhiều học sinh.Hơn nữa kiến thức tin học đòi hỏi nhiều kỹ năng sử dụng máy tính nhanh chóng vàchính xác. Vì vậy, dạy học lý thuyết gắn với thực hành, là điều kiện rất quan trọngđể học sinh tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng tiếp thu tri thức mới, hình thànhkĩ năng, kĩ xảo cho mình. Tri thức tin học không đòi hỏi khả năng trình bài lýthuyết xuông mà đòi hỏi học sinh phải có kỹ năng thực hành giỏi, dần dần sử dụngmáy tính thành thạo.Thứ tư: Tạo sự tranh đua giữa các nhóm trong giờ thực hành;– Trong giờ thực hành giáo viên nên tạo sự tranh đua giữa các nhóm bằngcách phân công các nhóm làm bài thực hành, sau đó các nhóm nhận xét (dưới sựchỉ dẫn của giáo viên) bài thực hành của nhau để tạo được sự hào hứng học tập vàsáng tạo trong quá trình thực hành đồng thời khơi nguồn thi đua làm việc giữa các

          em. Tất cả các em đều hăng háy tranh đua nhau hoàn thành bài tập của giáo viênđưa ra một cách nhiệt tình mà không thấy sự mệt mỏi hay nhàm chán;Ví dụ: bài thực hành “Tô màu bằng màu nền” (Hình. 66a SGK lớp 3 tr 61).

          Hình a

          Hình b

          Ở hình (a) hai chú gà chưa được tô màu, học sinh phải vận dụng kiến thứcđã học để tô màu bằng màu nền như hình (b). Ngoài kiến thức tô màu học sinhphải vận dụng cách sử dụng chuột để thao tác tô màu sao cho thật nhanh. Với sựtranh đua giữa nhóm với nhau các em sẽ cố gắng hoàn thành bài tập thật nhanh đểtiếp tục làm bài tập kế tiếp mà không gây sự nhàm chán và mệt mỏi khi các emthực hành.– Trong quá trình thực hành nên tạo cho các em sự tranh đua hoàn thành sớmbài tập của giáo viên giao một cách nhanh chóng và chính xác. Giáo viên nhận xét,khen ngợi cụ thể kết quả bài thực hành của các em như: hoàn thành nhanh, hoànthành chính xác, trình bày đẹp… Để khích lệ các em cố gắng hơn và cũng kịp thờiđộng viên các em thực hành chậm phấn đấu để được khen như bạn. Chúng ta cóthể sử dụng phần mềm quản lý phòng máy (Netop school) trình chiếu kết quả củacác nhóm hoàn thành tốt để cả lớp quan sát đồng thời nhận xét nhầm khích lệ tinhthần các em. Đồng thời quản lý được bài làm của các em, hướng dẫn và sửa chữa,rút kinh nghiệm chung cho cả lớp ngay trong giờ học thực hành;– Phân chia đối tượng học sinh, sắp xếp các em yếu, trung bình, khá và giỏingồi đan xen nhau để phát huy tối đa hiệu quả “Đôi bạn cùng tiến” trong cả giờ lýthuyết lẫn thực hành. Đây là cách học từ bạn hiệu quả nhất, bởi trong một tiết thựchành giáo viên không thể chỉ dẫn cụ thể hết cho từng em, nhất là ở các lớp cónhiểu học sinh yếu. Giáo viên nên chú ý đến thời gian thay đổi lượt thực hành của

          Nắm vững kiến thức – thao tác nhanh

          18/95

          19,0

          Giỏi

          Nắm vững kiến thức – thao tác chậm

          39/95

          41,0

          Khá

          Nắm được kiến thức – thao tác cần gợi ý

          35/95

          36,8

          TB

          Chưa nắm kiến thức – chưa biết thao tác

          3/95

          3,2

          Yếu

          Lý thuyết và thực hành

          * Năm học 2014 – 2015: Sau một năm áp dụng và tường bước có điều chỉnh,tôi tiếp tục làm cuộc khảo sát cuối năm đối với khối 3 với 97 em, kết quả như sau:

          Lý thuyết và thực hành

          TL%

          Nắm vững kiến thức – thao tác nhanh

          29/97

          29,9

          Nắm vững kiến thức – thao tác chậm

          44/97

          45,4

          Nắm được kiến thức – thao tác cần gợi ý

          24/97

          24,7

          Chưa nắm kiến thức – chưa biết thao tác

          0

          0

          * Năm học 2015 – 2016: Cuối học kì I (năm học 2015-2016), tôi tiếp tụclàm cuộc khảo sát đối với học sinh khối lớp 3 với 95 em, kết quả như sau:

          Lý thuyết và thực hành

          TL%

          Nắm vững kiến thức – thao tác nhanh

          40/95

          42,1

          Nắm vững kiến thức – thao tác chậm

          44/95

          46,3

          Nắm được kiến thức – thao tác cần gợi ý

          11/95

          11,6

          Chưa nắm kiến thức – chưa biết thao tác

          0

          0

          lớp 3 nên các em bắt nhịp tốt cho những năm học sau (lớp 4, 5), kết quả thu đượccũng tăng lên hết sức khả quan với từng khối lớp.

          Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Tin Học Lớp 6 Bằng Dụng Cụ Trực Quan

          Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học nh­ bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm – thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng, .

          Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và ban lãnh đạo nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học nói chung và bộ môn tin học lớp 6 nói riêng việc sử dụng công nghệ thông tin là rất cần thiết.

          Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên. mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế.

          Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp dạy của giáo viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng dạy học. Chính vì cậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và ứng dụng. Trong qóa trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số giải pháp hữu ích góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6.

          tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến. Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của môn học là máy tính. "Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính điện tử". Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay. Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy giáo ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan. 2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học... còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Trường THCS Đông Hương tuy đã có được sự quan tâm hỗ trợ tích cực của các cấp lãnh đạo và phụ huynh học sinh nhưng đến nay vẫn chưa có phòng học bộ môn, phòng máy vi tính đã có số lượng tương đối đầy đủ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do sĩ số đông (30-35 HS/lớp). Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu - Over head) hay đèn chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị. Tin học là một môn học đã được đưa vào giảng dạy tại trường THCS Đông Hương từ năm 2007 đến nay cũng đã là trường đầu tiên trên địa bàn T.P Thanh Hóa nhưng so với các nơi khác cũng có thể nói là đang còn chậm, đặc biệt là các em lớp 6 cũng đã tiếp xúc với bộ môn này từ TH mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu. Qua điều tra những tiết học đầu tiên về cả lý thuyết và thực hành tôi tiến hành tổng hợp và đã thu được kết quả nh­ sau: Lớp Tổng số Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 6A 32 7 21.88 12 37.50 11 34.38 2 6.25 0 0 6B 30 5 16.67 13 43.33 10 33.33 2 6.67 0 0 6C 33 7 21.21 10 30.30 14 42.42 2 6.06 0 0 Cộng 95 19 20.00 35 36.84 35 36.84 6 6.32 0 0 * Về kĩ năng thực hành: Lớp Tổng số Thực hành Tự thao tác sau khi có hướng dẫn Thao tác cần có hướng dẫn thường xuyên Chưa biết thao tác SL % SL % SL % 6A 32 7 21.88 20 62.50 5 15.63 6B 30 3 10.00 20 66.67 7 23.33 6C 33 9 27.27 19 57.58 5 15.15 Cộng 95 19 20.00 59 62.11 17 17.89 Qua kết quả trên thì đa phần các em nắm kiến thức lý thuyết còn yếu, các em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên. Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn suy nghĩa phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lý thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cơ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6 3. Giải pháp. 3.1. Trực quan hoá thông tin dạy học. Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật,... với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan. Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua vệ tinh dựa trên cơ sở máy tính,... dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan. Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh và các vật dụng trực quan làm tăng sự nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục. Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là máy chiếu, tranh ảnh, biểu tượng.... vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao. Trước khi sử dụng dụng cơ trực quan cho một bài học thì trước hết Giáo viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học. Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan. Ví dụ dạy bài : "Máy tính và phần mềm máy tính" cần chuẩn bị những đồ dùng trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tư như: bộ xử lý trung tâm (con chíp), thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu trữ thông tin như USB, đĩa mềm, đĩa CD, chúng tôi hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách chụp bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế HS mới nhớ lâu và thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác. Máy chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với máy chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng máy chiếu thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính. 3.2. Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ hoạ, biểu trưng tranh ảnh. Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho nhiều điều bổ ích. Người thiết kế phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học. a. Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ. Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẻ hoặc câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng. Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng trực quan bằng ngôn ngữ. Ví dụ: Dạy bài "Máy tính và phần mềm máy tính" tôi chiếu sơ đồ cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính. Hay khi dạy bài "Định dạng văn bản", thì đưa lên màn hình các bước thực hiện định dạng Font như sau: Bước 1. Chọn khối văn bản cần định dạng Bước 3. Hộp thoại Font xuất hiện chọn Font + Font: chọn phông chữ + Font Style: kiểu chữ + Size : cở chữ + Font color: màu chữ + Underline Style: đường gạch chân + Underline Color: màu đường gạch chân + Effects: các hiệu ứng + Preview: khung hiển thị ? Nêu các bước để định dạng văn bản phông chữ, kiểu chữ, cỡ chữ bằng menu lệnh (HS chỉ cần quan sát màn hình và nêu được các bước cần định dạng phông chữ) ? Thao tác quan trọng nhất trong định dạng văn bản là gì (HS chọn phần văn bản cần định dạng) b. Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ hoạ. Chẳng hạn khi dạy bài "Làm quen với soạn thảo văn bản" giáo viên cần cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)... nhanh qua các biểu tượng. Giáo viên đưa các biểu tượng Tương tự bài "Chỉnh sửa văn bản" giáo viên đưa các biểu tượng ? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng * Dạy bài "Định dạng văn bản" ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau. Hs nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức lý thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn. * Dạy bài "Trình bày trang văn bản và in" ngoài việc dùng lệnh in, xem văn bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau. c. Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh Thanh công việc (Taskbar) Các biểu tượng của các chương trình (icon) d. Kết hợp các loại hình trực quan. Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ hoạ với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập. Ví dụ: Khi dạy bài "Máy tính và phần mềm máy tính" ta có thể sử dụng kết hợp giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ. Giáo viên yêu cầu: - Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .. * Dạy bài "Làm quen với soạn thảo văn bản", "Định dạng văn bản"... ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan Thanh Menu bar Thanh Tool bar Thanh Formating Thước dọc Thước ngang Thanh cuốn dọc Thanh cuốn ngang Thanh Drawing * Dạy bài "Định dạng văn bản" ta chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ... trên máy tính thì học sinh dễ tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn. 3.3. Xây dựng các kĩ năng, thực hành a. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng. Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những kiến thức vừa học bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng. Ví dụ: Dạy bài "Làm quen với soạn thảo văn bản": Nối các ý của cột A, B, C, D sao cho hợp lý. A B C D Ctrl + O Ctrl + N Ctrl + S Alt + F4 File Open File Save File Exit File New Tạo tập tin văn bản mới Đóng tập tin văn bản Mở văn bản đã có Lưu văn bản * Khi dạy bài "Chỉnh sửa văn bản": Dùng các từ, cụm từ điền vào chỉ trống cho phù hợp. (1) Edit Copy (5) Ctrl + V (8) (2) Edit Cut (6) Ctrl + C (9) (3) Edit Paste (7) Ctrl + X (10) (4) Delete Các bước sao chép khối Bước1. Chọn khối Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới. Các bước chuyển khối Bước1. Chọn khối Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới. Các bước xoá khối Bước1. Chọn khối b. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy Để việc học Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh nắm chắc bài, biết thao tác trên máy tính cần cho học sinh học tại phòng máy, học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính theo từng bước một. Với cách tổ chức học nh­ thế này kết quả cho thấy học sinh nắm chắc bài học, đa số các em đều thực hiện được các thao tác thực hành. 3.4. Giải trí thư giãn Để cho học sinh có hứng thú học tập, tạo kích thích tìm tòi, đồng thời góp phần thư giản cho các em thì trước khi kết thúc tiết học (5-10 phút) tôi thường tổ chức cho các em chơi một số trò chơi như: Mario, Typingtest, Finger Break Out... hay cho học sinh vẽ hình tự do bằng chương trình Paint mà qua các chương trình này học sinh được hình thành các kĩ năng sử dụng chuột và bàn phím, các thao tác với chuột và bàn phím. Với các giải pháp thực hiện nói trên nên năm học 2013-2014 kết quả học tập tại bốn lớp 6A, 6B, 6C trường THCS Đông Hương đã đạt được đáng khả quan. PHẦN KẾT LUẬN 1. Kết quả Qua một thời gian ngắn thực hiện ứng dụng các dụng cụ trực quan vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy: - Việc ứng dụng giúp Giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lý thuyết từ đó HS có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn. - Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực, hào hứng, chú ý hơn và tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt. Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng các mứt nh­ sau. Cụ thể: * Về mức độ tiếp thu lý thuyết: Lớp Tổng số Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 6A 32 9 28.13 12 37.50 11 34.38 0 0.00 0 0 6B 30 8 26.67 13 43.33 8 26.67 1 3.33 0 0 6C 33 7 21.21 12 36.36 13 39.39 1 3.03 0 0 Cộng 95 24 25.26 37 38.95 32 33.68 2 2.11 0 0 Qua kết quả trên thể hiện rõ việc sử cải tiến phương pháp dạy học trong các bài giảng tin học đã có hiệu quả, chất lượng mũi nhọn và đại trà khá vững chắc học sinh đã chủ động trong các thao tác thực hành cụ thể là: So sánh với khảo sát đầu năm + Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lý thuyết tăng 7.36 % + Số em đạt trung bình giảm 3.16 % + Số em chưa hiểu bài, vận dụng yếu giảm 4.21 % * Về kĩ năng thực hành: Lớp Tổng số Thực hành Tự thao tác sau khi có hướng dẫn Thao tác cần có hướng dẫn thường xuyên Chưa biết thao tác SL % SL % SL % 6A 32 13 40.63 19 59.38 0 0.00 6B 30 11 36.67 19 63.33 0 0.00 6C 33 16 48.48 17 51.52 0 0.00 Cộng 95 40 42.11 55 57.89 0 0.00 + Số lượng học sinh tự thao tác sau khi có hướng dẫn tăng 16.84 % + Thao tác cần có hướng dẫn thường xuyên giảm 4.21 % + Số HS chưa biết thao tác đã giảm hết. 2. Bài học kinh nghiệm Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy để nâng cao chất lượng dạy học cần có các điều kiện sau: - Tạo không khí học tập tích cực, giáo viên phải tạo ra mỗi giờ học là một niềm vui, say mê trong học tập của HS. Giáo viên luôn tạo ra những thách thức vừa sức, tổ chức những hoạt động tự lực của học sinh trong từng tiết học. Các thiết bị dạy học rất có ý nghĩa giáo viên phải luôn phát huy hết tác dụng của các thiệt bị dạy học, đặc biệt là dụng cụ trực quan có nh­ vậy mới gây được hứng thú học tập của các em. 3. Kiến nghị, đề xuất Qua quá trình thực hiện giảng dạy bản thân tôi có một số kiến nghị sau: + Hiện nay nhà trường đã trang bị tương đối đầy đủ máy chiếu (projecter) trên các phòng học, nhưng ngay tại phòng máy thì chưa trang bị được nên cũng còn có khó khăn khi hướng dẫn thực hành cho HS. Vì vậy, nhà trường nên trang bị đầy đủ trang thiết bị cho phòng máy. + Tham mưu với các cấp lãnh đạo để xây dựng được các phòng chức năng để phục vụ cho việc dạy học bằng máy chiếu được thuận lợi hơn. + Bảo trì và trang bị thêm máy tính ở phòng thực hành đủ đảm bảo nhu cầu về sĩ số lớp để cho học sinh học và thực hành được thuận lợi. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh hóa, ngày 08 tháng 09 năm 2015 CAM KẾT KHÔNG COPY Người viết Trần Thị Hoa D. PHỤ LỤC - Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp: 6 - NXB Giáo dục - Các bài giảng điện tử ở các trang web: - Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Tin học THCS - NXB Giáo dục - Tài liệu tập huấn Đổi mới phương pháp dạy học môn Tin - NXB Giáo dục - Sách bồi dưỡng Sinh viên cao đẳng sư phạm và giáo viên THCS về đổi mới chương trình và SGK Môn Tin học - NXB Hà Nội - Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và SGK - NXB ĐH Sư phạm - Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS Môn Tin học - NXB giáo dục.

          Skkn Áp Dụng Phương Pháp Dạy Học Trực Quan Để Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Tin Học Lớp 6

          SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

          ĐỀ TÀI: “ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC LỚP 6″

          A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài. Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học như bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm – thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng, ….. Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và ban lãnh đạo nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học nói chung và bộ môn tin học lớp 6 nói riêng việc sử dụng công nghệ thông tin là rất cần thiết Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên… mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế. Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp dạy của giáo viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng dạy học. Chính vì cậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và ứng dụng. Trong qúa trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số giải pháp hữu ích góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6. Bằng những kinh nghiệm rút ra sau nhiều năm giảng dạy ở trường phổ thông tôi đã mạnh dạn viết đề tài ”Áp dụng phương pháp dạy học trực quan để nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học lớp 6” .

          B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học và chúng ta có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức. Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến. Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính

          điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay. Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy giáo ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Trường THCS Lãng Ngâm chưa có phòng học bộ môn, phòng học máy tính chưa đạt chuẩn về cả số lượng lẫn chất lượng. Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu – Over head) hay đèn chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị.

          Tin học là một môn học mới được đưa vào giảng dạy tại trường THCS Lãng Ngâm từ năm 2005 đến nay chậm hơn so với các trường vùng đô thị đặc biệt là các em lớp 6 vừa mới tiếp xúc với bộ môn mới đầu tiên mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Trong giờ thực hành các em phải ngồi theo nhóm: 3 – 4 em/1 máy. Bên cạnh đó do hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn gia đình không có điều kiện để mua máy tính cho con em học, theo thống kê của giáo viên dạy thì mỗi lới chỉ được 3 đến 4 em là gia đình có máy vi tính. Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu. Qua điều tra những tiết học đầu tiên về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu được kết quả như sau: Lớp 6A

          0

          23

          quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên. Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn suy nghĩa phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6 III. GIẢI PHÁP. 1. Trực quan hoá thông tin dạy học. Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật,… với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan. Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua vệ tinh dựa trên cơ sở máy tính,… dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan. Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng sự nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục. Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng…. vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao.

          Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho nhiều điều bổ ích. Người thiết kế

          phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học. a. Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ. Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẽ hoặc câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng. Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng trực quan bằng ngôn ngữ. Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” tôi chiếu sơ đồ cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính.

          cở chữ màu chữ đường gạch chân màu đường gạch chân các hiệu ứng khung hiển thị

          ? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng * Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.

          Hs nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn. * Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.

          Các biểu tượng chương trình

          Thanh công việc

          d. Kết hợp các loại hình trực quan. Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ hoạ với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập. Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng kết hợp giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ.

          Giáo viên yêu cầu: – Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .. * Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Định dạng văn bản”… ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan

          Thanh Menu bar

          Thước ngang Thanh Tool bar

          Thanh Formating

          Thướ c dọc Than h * Dạy bài “Định cuộn dạng văn bản” ta chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh Than thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ… trên máy tính thì học sinh dể tiếp h Draw thu bài và ghi nhớ lâu hơn. ing

          3. Xây dựng các kĩ năng, thực hành a. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng. Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng. Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”: Nối các ý của cột A, B, C, D sao cho hợp lý. A

          B

          C

          Ctrl + O

          File Open

          Ctrl + N

          File Save

          Ctrl + S

          File Exit

          Alt + F4

          File New

          D Tạo tập tin văn bản mới Đóng tập tin văn bản Mở văn bản đã có

          Lưu văn bản * Khi dạy bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho phù hợp. (1) Edit Copy

          (5) Ctrl + V

          (8)

          (2) Edit Cut

          (6) Ctrl + C

          (9)

          (3) Edit Paste (7) Ctrl + X (4) Delete Các bước sao chép khối

          (10)

          Để cho học sinh có hứng thú học tập, tạo kích thích tìm tòi, đồng thời góp phần thư giản cho các em thì trước khi kết thúc tiết học (5-10 phút) tôi thường tổ chức cho các em chơi một số trò chơi như: Solitaire, Spider Solitaire, Freecell… hay cho học sinh vẽ hình tự do bằng chương trình Paint mà qua các chương trình này học sinh được hình thành các kĩ năng sử dụng chuột, các thao tác với chuột. Với các giải pháp thực hiện nói trên nên năm học 2010-2011 hai lớp 6A, 6B trường THCS Lãng Ngâm đã đạt được kết quả đáng khả quan.

          C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

          1. Kết qủa Qua một thời gian ngắn thực hiện ứng dụng các dụng cụ trực quan vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy: – Việc ứng dụng giúp Giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó HS có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn – Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt. Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng các mứt như sau. Cụ thể: * Về mức độ tiếp thu lý thuyết: Tổng số 6A 23 6B 23 Cộng 46 Lớp

          Qua kết quả trên thể hiện rõ việc sử cải tiến phương pháp dạy học trong các bài giảng tin học đã có hiệu quả, chất lượng mũi nhọn và đại trà khá vững chắc học sinh đã chủ động trong các thao tác thực hành cụ thể là: So sánh với khảo sát đầu năm + Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lí thuyết tăng 15.3% + Số em đạt trung bình tăng 13.1 % + Số em chưa hiểu bài, vận dụng yếu giảm 28.3 % + Số lượng học sinh kém không còn * Về kĩ năng thực hành: Lớp Tổng sốThực hành

          Cập nhật thông tin chi tiết về Kinh Nghiệm Để Dạy Tốt Môn Tin Học Lớp 3 : Phòng Gd&Amp;Đt Mỹ Lộc trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!