Bạn đang xem bài viết Hiện Trạng Và Giải Pháp Quản Lý Chất Thải Nhựa Đại Dương Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Để thực hiện việc giảm thiểu chất thải nhựa vào môi trường và duy trì sự quản lý bền vững chất thải nhựa, Việt Nam cần có các chiến lược và hành động về quản lý nhựa thải; đồng thời cần tham khảo cách quản lý và xử lý của các quốc gia trên thế giới để hướng đến tái sử dụng, nhất là tạo ra các sản phẩm thay thế có nguồn gốc sinh học, hoặc có thể phân hủy sinh học.
Gia tăng cả về nguồn thải và lượng
Ở Việt Nam, lượng tiêu thụ sản phẩm nhựa đang tăng lên nhanh chóng. Hiệp hội Nhựa Việt Nam (2019) thống kê lượng sản xuất và tiêu thụ nhựa khoảng 5 triệu tấn năm 2015, trong đó 80% nguyên liệu sản xuất nhựa là nhập khẩu. Lượng nhựa tiêu thụ bình quân đầu người năm 2019 là 41 kg/người, gấp hơn 10 lần so với lượng tiêu thụ 3,8 kg/người vào năm 1990.
Rác thải nhựa dạt vào khu vực bãi biển ở xã đảo Tam Hải (Núi Thành, Quảng Nam). Ảnh: Trần Tĩnh/TTXVN
Hiện các thống kê và nghiên cứu ở Việt Nam vẫn chưa cung cấp các thông tin cụ thể về lượng, loại và thành phần của nhựa thải ra biển, mà chỉ có một số nghiên cứu về chất thải nhựa nói chung ở một số địa phương. Nghiên cứu mới đây của nhóm tác giả Lê Thị Hoàng Oanh, Trần Thị Lan Anh và Nguyễn Thị Phương Loan thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội, cho thấy: Tại Việt Nam, ước tính lượng nhựa thải ra biển khoảng 0,28-0,73 triệu tấn/năm (chiếm 6% tổng lượng nhựa thải ra biển của thế giới), đứng thứ tư trong danh sách các quốc gia có lượng nhựa thải ra biển nhiều nhất. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn, trong đó có nhựa thải là 80-100% tại các đô thị, 40-55% tại các khu vực nông thôn, trong cả nước 81% được xử lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn.
Phân tích các thành phần chất thải đô thị có thể tái chế được ở thành phố Hội An, chất thải nhựa chiếm 8,4-14%. Lượng chất thải nhựa tại các nhà hàng chiếm số phần trăm thấp nhất (8,4%), trong khi tỷ lệ này trong chất thải từ hộ gia đình, khách sạn và đường phố tương đương nhau và xấp xỉ 14%.
Tại thành phố Cần Thơ, lượng chất thải nhựa chiếm tỷ lệ ít hơn so với Hội An, với 6,13%. Cũng tại thành phố này, trong lượng chất thải nhựa, túi nilon mua hàng chiếm tỷ lệ lớn nhất, với 45,72%. Nghiên cứu chất thải nhựa cỡ lớn trên sông Sài Gòn trong năm 2019 cho thấy, nhựa PO mềm và PS-E thường xuyên chiếm tỷ lệ cao nhất. Nhựa thải chiếm 6% trong chất thải rắn đô thị tại Huế và 8% trong chất thải nhựa tại Hà Nội. Lượng chất thải nhựa chiếm khoảng 3,2-8,3% tổng lượng chất thải trên sông Sài Gòn và thấp hơn tỷ lệ chất thải nhựa (16%) trong chất thải rắn đô thị của Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tỷ lệ thu gom nhựa thải có mối liên hệ với tỷ lệ thu gom chất thải rắn. Tỷ lệ thu gom này đạt 80-100% ở các khu vực đô thị và 40-55% tại các khu vực nông thôn, tỷ lệ xử lý đạt tiêu chuẩn quy chuẩn đạt 81%. Trong đó, tỷ lệ chất thải rắn thu gom được xử lý cao nhất ở Đông Nam bộ (99,4%), tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng (88,9%) và mức 57,5% đối với các khu vực Tây Nguyên, 56,4% ở Trung du và miền núi phía Bắc. Các công nghệ áp dụng xử lý chất thải rắn phổ biến là sản xuất phân compost, đốt và chôn lấp.
Phần lớn chất thải rắn tiếp nhận tại các bãi chôn lấp không được phân loại tại nguồn. Một lượng đáng kể chất thải nhựa được tái chế tại các làng nghề Việt Nam, như Trung Văn, Tân Triều, Tiên Dược (Hà Nội) và Minh Khai (Hưng Yên). Tại các làng nghề này, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là các nguồn nước mặt. Không chỉ tái chế nhựa thải lấy từ các nguồn trong nước, các làng nghề này còn nhập khẩu phần lớn nguyên liệu nhựa thải từ nước ngoài.
Một số thành phố ven biển như Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bà Rịa-Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều chất thải nhựa trôi nổi trên biển từ các nguồn chất thải đô thị, sinh hoạt, nông nghiệp, bệnh viện, nuôi trồng thủy sản và giao thông vận tải biển. Chỉ tính riêng tại thành phố Hạ Long, mỗi ngày cơ quan chức năng thu gom khoảng 7 tấn chất thải rắn để đưa vào bờ xử lý. Sau 3 chiến dịch thu gom rác từ năm 2016 đến 2019, tại 4 km của Vịnh Hạ Long đã thu được 4 tấn rác thải, chủ yếu là chất thải nhựa và túi nilon.
Khu vực ven bờ Đầm Nại (Ninh Thuận) vẫn còn tình trạng rác thải tồn đọng. Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN
Tại Cát Bà, trên 50% số lượng phao xốp nuôi trồng hải sản trong tình trạng cũ hỏng, rách vụn, trôi nổi xung quanh khu vực nuôi trồng thủy sản; 4,1% chất thải nhựa từ các nhà hàng và 7,9% chất thải nhựa từ các khách sạn không thể tái chế. Huyện Cát Hải thu vớt lượng 10 m3/ngày rác trôi nổi trên Vịnh, trong đó có 70% là nhựa.
Tại thành phố Đà Nẵng, năm 2019, 8-10% số rác thải rắn được thu gom là túi nilon và chai nhựa. Chính quyền thành phố đã nghiêm cấm người dân, du khách đem thức ăn xuống bãi biển, từ đó hạn chế túi nilon, chai nhựa tràn ra biển. Hầu hết các nguồn thải từ nước mưa đều xả ra biển, sông hoặc ao hồ. Ngoài ra, chất thải do các hoạt động dịch vụ ven bờ biển thải trực tiếp xuống bãi cát và được cuốn ra biển khi thủy triều lên.
Giải pháp hàng đầu là giảm thiểu và tái sử dụng
Theo nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Thị Hoàng Oanh, Trần Thị Lan Anh và Nguyễn Thị Phương Loan thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, những biện pháp tái chế chất thải nhựa được chia thành 4 nhóm là sơ cấp, thứ cấp, tam cấp và tứ cấp. Sơ cấp là xử lý cơ học mảnh nhựa có lịch sử rõ ràng để tạo thành sản phẩm có tính chất tương đương; thứ cấp là xử lý cơ học nhựa đã sử dụng, tạo ra sản phẩm có chất lượng thấp hơn ban đầu; tam cấp thu hồi những thành phần của nhựa và phụ gia; tứ cấp tức là thu hồi năng lượng từ nhựa thải.
Rác thải tồn đọng tại Hòn Sơn (xã đảo Lại Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang). Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN
Quản Lý, Xử Lý Chất Thải Y Tế: Thực Trạng Và Giải Pháp
Mặc dù được xem là nguồn chất thải nguy hại, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiện nay, vấn đề quản lý, xử lý chất thải y tế trên địa bàn tỉnh Đắk Nông vẫn nhiều khó khăn, bất cập. Thực tế đó đang đòi hỏi tỉnh, ngành chức năng cần có những giải pháp cần thiết, nhằm bảo đảm môi trường.
Còn nhiều bất cập
Được xây dựng và đưa vào sử dụng từ năm 2013, đến nay, Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) huyện Tuy Đức vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý chất thải y tế. Hiện nay, bệnh viện vẫn đang sử dụng lò đốt thủ công được xây dựng ngay bên trong khuôn viên và mỗi lần đốt đều sinh ra khói, mùi hôi, ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Ngoài ra, mặc dù bệnh viện đã được xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế, nhưng do một số nguyên nhân về thiết kế, thi công nên hiện hệ thống chưa hoạt động.
Bác sĩ Đỗ Ngọc Ảnh, Giám đốc BVĐK Tuy Đức cho biết: “Vì một số nguyên nhân về thi công nên hiện nay, nước thải y tế không chảy về nhà xử lý mà thấm trực tiếp ra đất. Đơn vị cũng nhiều lần kiến nghị về vấn đề này nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm”.
Lò đốt chất thải y tế của BVĐK huyện Tuy Đức được xây dựng khá thô sơ
Tương tự, vấn đề xử lý chất thải y tế cũng đang là khó khăn chung của các cơ sở y tế trên địa bàn. Trao đổi tại cuộc họp với Sở Y tế mới đây, bác sĩ Huỳnh Thanh Huynh, Giám đốc BVĐK huyện Đắk Glong cũng cho biết: “Hiện nay, bệnh viện cũng đang gặp nhiều khó khăn, bất cập trong công tác xử lý chất thải y tế. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện tiêu chí bảo vệ môi trường cũng như vấn đề quản lý chất lượng bệnh viện”.
Theo thống kê, hiện toàn tỉnh có 8 BVĐK với tổng số hơn 900 giường bệnh. Ngoài ra, các trung tâm y tế huyện, thị xã, trung tâm y tế chuyên khoa, trạm y tế xã, phường và hơn 160 cơ sở hành nghề y tư nhân… đều có nguồn xả thải ra môi trường mỗi ngày.
Qua khảo sát của Sở Y tế, trong năm 2015, trung bình mỗi ngày, tổng khối lượng chất thải rắn phát sinh tại các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh khoảng hơn 1.087 kg. Trong đó, chất thải rắn sinh hoạt khoảng 890 kg và chất thải rắn lây nhiễm khoảng 179 kg, chất thải hóa học khoảng 18 kg.
Hiện nay, các BVĐK trên địa bàn tỉnh đều đang áp dụng mô hình xử lý chất thải rắn y tế tại chỗ. Điều đáng nói, các lò đốt này đã xuống cấp và hư hỏng, khói thải ra gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của cán bộ y tế, bệnh nhân cũng như người dân xung quanh.
Tại các trạm y tế xã, phường, vấn đề xử lý chất thải y tế cũng đang là bài toán nan giải. Theo quy định, các trạm y tế xã phải bảo đảm các điều kiện về môi trường như hệ thống nước thải, hố chôn hợp vệ sinh hoặc lò đốt rác quy mô nhỏ.
Tuy nhiên, hiện nay, 100% các trạm y tế trên địa bàn tỉnh chưa được đầu tư hệ thống xử lý chất thải lỏng. Đối với chất thải rắn, hầu hết các trạm cũng xử lý bằng hình thức đốt. Trong khi đó, rác thải tại các trạm chủ yếu là bơm tiêm, kim tiêm, lọ vắc xin… sử dụng trong những ngày tiêm chủng mở rộng nên việc đốt cũng như xử lý rất khó.
Đối với các cơ sở y tế tư nhân, việc xử lý chất thải y tế cũng phát sinh nhiều bất cập. Thực tế, nhiều phòng khám tư nhân có quy mô nhỏ, nên lượng chất thải nguy hại phát sinh ở từng cơ sở rất khó kiểm soát, khả năng bị trộn lẫn trong rác thải sinh hoạt tương đối cao.
Cùng với đó, hầu hết các cơ sở này đều chưa có hệ thống xử lý nước thải y tế. Tỉnh cũng chưa xây dựng được các khu xử lý chất thải nguy hại tập trung nên các cơ sở này phải ký hợp đồng xử lý chất thải với cơ sở y tế gần nhất.
Hướng đầu tư lâu dài
Theo Sở Y tế, cùng với việc mở rộng mạng lưới chăm sóc sức khỏe nhân dân, lượng chất thải y tế phát sinh ngày càng tăng là điều khó tránh khỏi. Dự kiến, đến năm 2020, các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh sẽ được mở rộng và phát triển lên thành 1.450 giường bệnh, tăng gần 500 giường bệnh so với hiện tại. Vì vậy, dự báo tổng khối lượng chất thải rắn y tế sẽ là 1.690 kg/ngày; trong đó, chất thải rắn y tế lây nhiễm là 277 kg, chất thải hóa học là 28 kg, chất thải sinh hoạt là 1.386 kg. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý, xử lý chất thải y tế hiệu quả, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường?
Tháng 5/2015, Sở Y tế đã ban hành Quyết định số 799/QĐ-SYT về việc thành lập Ban quản lý Dự án “Hỗ trợ xử lý chất thải bệnh viện” trên địa bàn tỉnh. UBND tỉnh cũng đã ban hành Kế hoạch quản lý chất thải tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2015-2020 với mục tiêu: Sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ của ODA; từng bước giảm thiểu ô nhiễm từ chất thải y tế trên địa bàn tỉnh, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Thực hiện kế hoạch này, ngành Y tế đang tiến hành xây dựng, trang bị hệ thống xử lý rác thải y tế cho các BVĐK trên địa bàn. Dự kiến, trong năm 2017, các BVĐK sẽ được trang bị hệ thống hấp ướt AutoClave tiên tiến. Theo đánh giá, công nghệ này có nhiều ưu điểm như: Tự động khử khuẩn bên trong khoang xử lý và biến chất thải sau xử lý thành chất thải thông thường với chi phí giảm đáng kể; giảm thể tích chất thải trên 70%; hệ thống khép kín, hoàn toàn tự động không lây nhiễm chéo; công suất xử lý phù hợp với yêu cầu của từng bệnh viện; không thải gây ô nhiễm thứ cấp; cho phép xử lý chất thải y tế lây nhiễm ngay tại nguồn…
Tại các trạm y tế, ngành cũng đang rà soát và tranh thủ các nguồn kinh phí để xây dựng hệ thống xử lý chất thải y tế. Dự kiến, kinh phí đầu tư để hoàn chỉnh hệ thống xử lý chất thải y tế và hố chôn hợp vệ sinh cho 1 trạm y tế khoảng 80 triệu đồng.
Bác sĩ Trần Văn Hùng, Phó Giám đốc Sở Y tế cho biết: “Cùng với việc đầu tư cơ sở vật chất, ngành sẽ tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các cơ sở y tế thực hiện tốt quy chế quản lý rác thải y tế. Việc tập huấn, hướng dẫn cho cán bộ, nhân viên y tế về công tác phân loại rác, thu gom và xử lý đúng cách cũng sẽ được chú trọng. Riêng đối với các cơ sở y tế tư nhân, về lâu dài, tỉnh cũng cần đầu tư các khu xử lý chất thải tập trung để tạo điều kiện thuận lợi trong việc chấp hành đúng các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường”.
Bài, ảnh: Vũ Trang
Đảm Bảo Chất Lượng Giáo Dục Đại Học Ở Việt Nam, Thực Trạng Và Giải Pháp
ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌCỞ VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁPLÊ HOÀNG VŨBan ISO – Trường ĐH Công nghiệp thực phẩm Tp.HCM
QUALITY ASSURANCE OF HIGHER EDUCATION IN VIET
NAM, THE STATE AND SOLUTIONSABSTRACTEntering the twenty-first century, humanity faces many opportunities to grow andalso faces many threats and challenges. Education in Vietnam is no exception to that ruleobjectively. Especially since Vietnam became an official member of the World TradeOrganization ( WTO ) in 2007, the pressure placed on the general economy and the greatereducation. Because the quality of education as factors that determine the quality of humanresources to develop all aspects of a comprehensive water from cultural, social, economic,national security,… Today, the quality of education higher education is always the topconcern of the whole society on the importance of telling the country’s development in thetrend of internationalization and globalization, how to ensure the quality of education is isthe subject of interest and promoting. However, the quality assurance of higher educationis not currently and has not paid adequate attention to the system, mostly limited to theform of quality control. Therefore, promoting activities and provide appropriate solutionsis essential.
1. Đặt vấn đềGiáo dục đại học trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang đứng trướcmột bài toán hóc búa là giải quyết mâu thuẫn giữa việc vừa gia tăng kiến thức, vừa phảinâng cao chất lượng đào tạo phù hợp với yêu cầu xã hội đang biến đổi từng ngày. Xuhướng mới cần cắt giảm thời gian đào tạo, đồng thời tạo điều kiện để người học được họctheo học chế tín chỉ, học liên thông, học đồng thời nhiều ngành, nhiều cấp học, nhiều bằng,bậc học,… theo yêu cầu xã hội, hội nhập quốc tế và yêu cầu sở thích cá nhân.Chất lượng giáo dục đại học là một trong những nền tảng quan trọng đối với sự pháttriển của các quốc gia trên thới giới. Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, mỗi quốcgia có hàng loạt các giải pháp toàn diện như chú trọng đến sự phát triển của cơ sở vật chấtcủa trường đại học, phát triển lực lượng nghiên cứu khoa học và giảng viên, nâng cao chấtlượng dạy và học, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ,nâng cao năng lực quản lý giáo dục đại học… Bên cạnh đó, một trong những giải phápđược nhiều nước trong khu vực quan tâm nhầm nâng cao chất lượng giáo dục đó là việc ápdụng các mô hình quản lý và đảm bảo chất lượng (kiểm soát chất lượng, đảm bảo chấtlượng, quản lý chất lượng tổng thể, đánh giá chất lượng…). Hiện nay, áp dụng mô hìnhđảm bảo chất lượng cho việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học với công cụ là đánh giáchất lượng (QA- Quality assurance) là xu hướng được nhiều nước sử dụng và việc này đãtạo nên những bước chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
2. Quá trình đảm bảo chất lượng ở Việt NamQuá trình ĐBCL bắt đầu từ sự quản lý chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học.Việc thiết kế và đưa ra các quy trình, cơ chế đảm bảo chất lượng vào thực hiện, mặc dù có
Sơ đồ 1. Quá trình đảm bảo chất lượng (GS.TS Nguyễn Lộc)
Cơ sở GDĐT,chương trình đào tạoQLCL nội bộ
DẠY
HỌC
Cải tiếnchất lượng
Thông tinđại chúng
Quyết định kiểm định/ không kiểm định
Báo cáođánh giá
Báo cáothẩm định
ĐÁNH GIÁ NGOÀI(chương trình đàotạo, hoặc cơ sở GDĐT)
Đoàn đánh giáđộc lập
Như vậy, đảm bảo chất lượng là sự phối hợp trách nhiệm giữa cơ sở giáo dục đại họcvới các cơ quan bên ngoài, nhưng trách nhiệm chính vẫn thuộc về các trường đại học. Chấtlượng chỉ có thể được duy trì và nâng cao nhờ hoạt động giảng dạy, học tập và quản lý chấtlượng trong nhà trường; là kết quả của sự tự đánh giá và điều chính trong hoạt động của cơ
sở giáo dục đại học. Nói cách khác, hoạt động quản lý chất lượng bên trong nhà trường làđiểm xuất phát, nền tảng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng giáo dục đại học của mộttrường.
3.2. Ở ÚcCác chính sách, thái độ, hành động và quy trình cần thiết để đảm bảo chất lượng đangđược duy trì và nâng cao. Cơ quan chất lượng của đại học Úc (AUQA-Australian UniversitiesQuanlity Agency), hoạt động như một quốc gia một cách độc lập, có nhiệm vụ kiểm tra, giámsát, kiểm toán và báo cáo về hoạt động đảm bảo chất lượng của các trường đại học Úc. AUQAđược điều hành bời Hội đồng Bộ (với sáu thành viên), hoạt động độc lập với chính phủ, nhưnglại dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Giám đốc (có năm thành viên, do Chủ tịch hiệp hội các trườngđại học). Mục tiêu chính là cũng cố lòng tin của công chúng và thị trường quốc tế về chất lượngcủa các trường đại học Úc. AUQA tiếp cận cơ bản nhằm đánh giá chất lượng của các trường đạihọc dựa vào hệ thống kiểm soát bên trong của các trường kết hợp với sử dụng kiểm toán ngoài.Thêm vào đó, có một cơ quan quốc gia riêng chịu trách nhiệm về kiểm toán độc lập ngoài các hệthống bên trong của nhà trường.Trường Đại học Queenland (Học viện đứng đầu ở Úc về giảng dạy và nghiên cứu), camkết cung cấp khung mẫu cho quản lý và đảm bảo chất lượng. Tất cả các thành viên trong cộngđồng các trường đại học có thể đóng góp vào việc cải thiện liên tục thông qua một chu kỳ nốitiếp nhau: lập chiến lược, báo cáo và đánh giá. đảm bảo chất lượng và quản lý của trường là hoạtđộng nỗ lực tiếp cận các quá trình ở mọi cấp độ đều có động lực thúc đẩy và nâng cao chấtlượng, gắn với văn hóa tổ chức của nhà trường.3.3. Ở Thái LanĐảm bảo chất lượng được giới thiệu qua hệ thống kiểm tra của nhà trường, kiểm toán chấtlượng bên ngoài và kiểm định công nhận. Chú trọng các mục tiêu giáo dục đại học, sự thực hiện,các kết quả hay chỉ số học tập và cải tiến chất lượng. Cơ cấu đảm bảo chất lượng gồm hai mảngđộc lập nhưng gắn kết chặt chẽ với nhau: Đảm bảo chất lượng bên trong do Bộ Công tác Đại học(MUA-the Ministry of University Affairs) quản lý, còn đảm bảo chất lượng bên ngoài do Cụctiêu chuẩn GD và đánh giá chất lượng quốc gia (ONESQA-Office for National EducationalStandards and Quanlity Assessments) quản lý.Chức năng của ONESQA là thăm trường, cung cấp thông tin cho trường và Bộ Công tácđại học, viết báo cáo đánh giá, giám sát chất lượng đào tạo của các đơn vị.Chức năng của MUA là đẩy mạnh phong trào chất lượng trong toàn quốc, như: xây dựng hệthống đảm bảo chất lượng hoạt động thường xuyên, hỗ trợ các trường/khoa nghiên cứu về đảm bảochất lượng quốc tế, xã hội hóa công tác đảm bảo chất lượng, liên kết các trường, các tổ chức đảm bảochất lượng quốc tế. MUA còn yêu cầu các trường phải có hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong,đồng thời cung cấp cho các trường đại học hướng dẫn 9 lĩnh vực chuyên môn bên trong, gồm: sứmệnh, mục tiêu, kế hoạch; giảng dạy và học tập; các hoạt động vui chơi giải trí của sinh viên; nghiêncứu; dịch vụ GD phục vụ xã hội; giữ gìn văn hóa và nghệ thuật; quản lý hành chính; ngân sách; đảmbảo và nâng cao chất lượng.Hệ thống đảm bảo chất lượng ở các trường đại học của Thái Lan dựa trên nguyên tắc làmột mô hình “Đầu vào-Quá trình-Đầu ra” và đều phải tập trung vào việc dạy và học. Điểm chủyếu trong hệ thống đảm bảo chất lượng ở đây là các trường phải thành lập, có dẫn chứng bằng tài
liệu, thực hiện, duy trì và liên tục cải tiến hệ thống của mình. Hệ thống đảm bảo chất lượng gồm:Đánh giá trong (do các trường ĐH chịu trách nhiệm) 2 năm đánh giá một lần và đánh giá ngoài(do ONESQA thực hiện năm năm một lần, nếu đạt sẽ được cấp giấy chứng nhận).Trường Đại học Chulalongkorn (lớn nhất Thái Lan, xếp hạng 78 của hệ thống các trườngđại học trên thế giới), hệ thống đảm bảo chất lượng có ý tưởng từ năm 1996, việc tự đánh giáđược thông qua các cuộc thăm viếng của các chuyên gia trên cơ sở ba kiểu hoạt động căn bản(được coi là cơ sở cho hệ thống đảm bảo chất lượng của trường): Kiểm soát, hỗ trợ và thanh trachất lượng giáo dục. Tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng của trường cơ bản là: “Giảng dạy-học tập,nghiên cứu, điều hành và hỗ trợ, các dịch vụ học thuật”. Điều này thể hiện quan điểm của trườngtrong việc đảm bảo chất lượng ở cấp trường, khoa và bộ môn ở cả ba giai đoạn: đầu vào, quátrình, đầu ra. Trong tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng giảng dạy-học tập thì phải hình thành cáchoạt động dạy-học, bao gồm: chương trình đào tạo, đội ngũ, quá trình giảng dạy-học tập, sinhviên, các yếu tố hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động GD nhằm tạo những sinh viên tốt nghiệp cóchất lượng cao.
4. Thực trạng đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng giáo dục đại học ở ViệtNam4.1. Chất lượng giáo dục đại học thấp so với yêu cầu thực tiễnGiáo dục đại học nước ta, bên cạnh những thành tựu đạt được, thì chất lượng đầu ra cònthấp so với yêu cầu do các điều kiện đầu vào và quá trình dạy học còn nhiều bất cập. Dư luậntrong và ngoài hệ thống giáo dục đại học đều cho rằng chất lượng giáo dục đại học không chỉthấp so với chuẩn mực quốc tế, khu vực mà còn ngay cả yêu cầu thực tiễn trong nước. Theo bảngxếp hạng của Webometric các trường đại học ở Việt Nam năm 2012. Mỹ thống trị 3263 trườngđược xếp hạng, trường đại học top đầu với đại học Havard thì Việt Nam chỉ có 117 trường đạihọc Việt Nam không có trường nào nằm trong tốp 1000.Bảng 1. Top 20 trường đại học Việt Nam do Webometrics xếp hạng năm 2012
Đại học
1051
Đại học Quốc gia Hà Nội
500
1755
953
2171
2
1104
Trường đại học Cần Thơ
1903
738
1317
2662
3
1806
Trường đại học Khoa học& Công nghệ Hà Nội
858
2908
3234
2262
4
1923
Trường đại học Kinh tếTP. Hồ Chí Minh
3117
1749
5408
1787
1
1949
Trường đại học Thuỷ lợi
6227
240
4557
4606
6
1998
Trường đại học NôngLâm TP. Hồ Chí Minh
2155
2594
2842
2790
7
2227
Trường đại học Báchkhoa, đại học Quốc giaTP. Hồ Chí Minh
1437
2046
1993
5230
8
2744
Trường đại học Huế
5996
3378
2892
3320
9
3171
Trường đại học Đà Nẵng
3170
4411
2538
4606
10
3470
Trường đại học Sư phạmTP. Hồ Chí Minh
1187
2944
6038
5230
11
3597
Trường đại học Hà Nội
3470
3736
4691
4606
12
3653
Trường đại học Khoahọc tự nhiên
1019
4858
4217
5230
13
3736
Trường đại học Mở TP.Hồ Chí Minh
4220
2368
5861
5230
14
3984
Trường đại học Giáodục (đại học Quốc giaHà Nội)
3877
4324
7125
3320
15
4089
Trường đại học Y dượcTP. Hồ Chí Minh
4457
6011
5694
3086
16
4157
Trường đại học Kinh tếQuốc dân
7426
4607
6038
3238
17
4175
Trường đại học Duy Tân
1204
6529
3852
5230
18
4205
Trường đại học Y tếcông cộng
5798
3055
8345
3656
19
4466
Trường đại học Côngnghệ TP. Hồ Chí Minh(HUTECH)
3594
3367
6754
5230
20
4650
Trường đại học Giaothông vận tải Hà Nội
8296
4277
4159
5230
Nguồn: http://www.webometrics.info/en/Asia/VietnamChú thích: Bảng xếp hạng Webometrics là gì?
“Bảng xếp hạng trang web các trường đại học trên toàn thế giới” (Webometrics Ranking of WorldUniversities) là sáng kiến của phòng nghiên cứu Cybermetrics, thuộc Consejo Superior deInvestigaciones Científicas (CSIC), trung tâm nghiên cứu công lớn nhất của Tây Ban Nha (2). Bảng xếphạng Webometrics được công bố vào năm 2004 và được cập nhật định kỳ mỗi năm hai lần vào tháng 1 vàtháng 7 sau một tháng hoàn tất thu thập dữ liệu (3).Mục tiêu của Webometrics là “khuyến khích và thúc đẩy việc đăng tải thông tin trên mạng internet”. Mụcđích chính là hỗ trợ các sáng kiến Tiếp cận Mở (Open Access initiatives) nhằm nâng cao khả năng tiếpcận các thông tin về nghiên cứu khoa học và tài liệu học thuật xuất bản dưới dạng điện tử. Do đó bảngxếp hạng không đánh giá các yếu tố về thiết kế trang web hay số lượng truy cập (4). Như vậy, kết quả xếphạng của Webometrics chỉ hướng đến đánh giá về nội dung và mức độ hiện diện ở môi trường mạnginternet của các trường đại học thông qua trang web chứ không phải là bảng xếp hạng các trường đạihọc như Newsweek, Times Higher Education World University Rankings v.v…
Tuy nhiên, những thứ hạng mà các trường đại học Việt Nam đạt được trong thời gian vừaqua đã thể hiện những sự thay đổi tương đối mạnh mẽ trong nhận thức và hoạt động của cáctrường về những cơ hội và thách thức mà môi trường internet mang lại.Đối với Việt Nam, sự quan tâm đến các bảng xếp hạng quốc tế là cần thiết để có thể xácđịnh được vị trí của giáo dục đại học Việt Nam so với thế giới. Tuy nhiên, để sự so sánh này có ýnghĩa, chúng ta cần hiểu rõ về các tiêu chí và phương pháp xếp hạng của từng hệ thống. Sự hiểubiết này cho phép ta lựa chọn một bảng xếp hạng phù hợp để giúp ta biết vị trí của mình, đồngthời xác định những đối tác quốc tế có điều kiện tương tự với Việt Nam nhưng có được vị trí tốthơn để có thể học hỏi và cải thiện. Qua bảng xếp hạng trên có thể thấy chất lượng giáo dục đạihọc Việt Nam đang ở “vùng trũng” trên bản đồ GD thế giới, công tác đảm bảo chất lượng chưađược chú trọng. Trong nhiều năm qua, giáo dục đào tạo gặp khó khăn nhiều nhất vẫn là việcđánh giá và kiểm tra do chúng ta cứ luẩn quẩn với cách đánh giá truyền thống, nêu thành tích, íttìm ra nguyên nhân tồn tại của chính mình. Do vậy, mặc dù hàng năm mỗi trường đều có rấtnhiều loại tổng kết, báo cáo nhưng vẫn không tìm ra nguyên nhân của yếu kém, lạc hậu. Cónhiều nguồn minh chứng nhận định rằng chất lượng đầu ra (người tốt nghiệp), cũng như chấtlượng đào tạo của hệ thống chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế – xã hội và chưa đáp ứngđược kỳ vọng của người sử dụng các dịch vụ mà các trường đại học cung cấp.4.2. Thiếu một hệ thống chỉ số thực hiện và chuẩn mực chất lượngCác cơ sở giáo dục đại học lạm dụng quyền tự chủ, như: Hạ chuẩn tuyển sinh; tuyển sốsinh viên nhiều hơn khả năng đào tạo mà không tính đến số lượng, chất lượng giảng viên, cơ sởvật chất; mở thêm ngành đào tạo ồ ạt mà không theo một chiến lược nào, đổ xô vào ngành “hot”mà bất chấp khả năng, mục tiêu, sứ mạng của mình, làm mất cân đối lớn trong xã hội. Nguyênnhân của vấn đề trên là giáo dục đại học vẫn chưa đưa vào sử dụng hệ thống chỉ số thực hiện vàchuẩn mực chất lượng làm cơ sở pháp lý.Một số trường đại học tư thục đang hoạt động trong điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị chưađủ (đi thuê của các trường khác) và sử dụng đội ngũ giảng viên cơ hữu từ các trường công lậpnên việc chủ động làm việc cho các trường tư thực không thường xuyên. Mặt khác, các trường tưthục không có đủ thư viện, tài liệu và sách vở phục vụ cho việc dạy và học.
Thực trạng chất lượng giáo dục đại học chưa được đánh giá thông qua các chỉ số đầu vào,chỉ số quá trình đào tạo và chỉ số kết quả đầu ra. Hầu như các trường đại học chưa có thói quensử dụng hệ thống thông tin quản lý, các thông tin chưa được xây dựng trên cơ sở số liệu thống kêmà chỉ tính toán theo chỉ số thực hiện. Một vấn đề khác nữa là hệ thống giáo dục đại học nước tachưa hình thành nề nếp nhận thông tin định kỳ từ các cơ sở giáo dục đại học theo các chỉ số quyđịnh, và các trường cũng không có thói quen nhận thông tin phản hồi từ người tốt nghiệp vàngười sử dụng lao động để có cơ sở điều chỉnh chương trình, quy trình đào tạo hiện hành; việc sửdụng hệ thống các chỉ số thực hiện và xác định các chuẩn mực chất lượng tối thiểu là cần thiết vàcấp bách.4.3. Bộ máy, cơ chế và cán bộ chưa thay đổi phù hợp với phương thức quản lý mớiHiện nay, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học vẫn còn làm thay công việccủa các trường, (mặc dù hệ thống đang chuyển sang hướng phi tập trung hóa) mà chưa tập trungvào việc ban hành các chính sách và quy chế đã được thông qua.Các cơ sở giáo dục đại học, một mặt vẫn yêu cầu nhiều quyền tự chủ hơn, nhưng chưachủ động thực hiện các công việc quản lý của mình và nhất là chưa thể hiện sự chịu trách nhiệmvề chất lượng, giáo dục đại học đào tạo. Tính chịu trách nhiệm chưa cao thể thiện ở sự công khaivới nhà nước, cán bộ, sinh viên và xã hội những hoạt động của nhà trường theo các quy trình, cơchế được xây dựng và pháp lý hóa.
KẾT LUẬNĐảm bảo chất lượng giáo dục đại học là vấn đề mới triển khai trong vòng 10 năm trở lạiđây ở Việt Nam, nên thực trạng vẫn chưa được các cấp quản lý nhà nước về giáo dục, các trườngĐH quan tâm đúng mức và chưa đi vào hệ thống. Chất lượng giáo dục luôn là mối quan tâmhàng đầu của xã hội vì tầm quan trọng của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Đất nướcsuy, yếu hay mạnh, phụ thuộc phần lớn vào chất lượng sản phẩm của GD. Đối với giáo dục đạihọc nước ta đã, đang phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo, và xác định là nhiệm vụ quan trọngnhất, đang tìm những giải pháp rút ngắn khoảng cách về thứ hạng trên thế giới.Làm thế nào để nâng cao vị thế cũng như chất lượng giáo dục Việt Nam. Đây là một câuhỏi lớn cần có cái nhìn toàn diện mới có thể giải đáp được. Những nhà quản lý giáo dục ở các cơsở giáo dục đại học, và các cấp quản lý nhà nước về giáo dục cần nhanh chóng có biện pháp cảithiện chất lượng giáo dục. Những yếu kém chủ yếu là công tác đảm bảo chất lượng giáo dục củachúng ta chưa được quan tâm đúng mức, chưa đồng bộ và quyết liệt tổ chức thực hiện.Để việc nghiên cứu lý luận và áp dụng vào thực tiễn hoạt động tự đánh giá trong đảm bảochất lượng giáo dục ở các trường đại học được quan tâm đúng mức và thành hệ thống mang tínhkhoa học liên tục phát triển ở nước ta, các cấp quản lý hệ thống phải thành lập tổ chức chịu tráchnhiệm đánh giá ngoài; xây dựng cơ chế đánh giá ngoài… đảm bảo chất lượng giáo dục là côngviệc quan trọng cần được tập trung triển khai đồng bộ trong thời gian tới; cần phổ biến rộng rãicơ chế và hệ thống đảm bảo chất lượng trong các cơ sở giáo dục đại học; cần chuẩn bị đội ngũđáp ứng được hoạt động đảm bảo chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học và toàn hệ thống.Tóm lại, nhiệm vụ quan trọng của các cơ sở giáo dục đại học nước ta bây giờ, và trongtương lai là phải quyết tâm nâng cao chất lượng giáo dục, tiến gần đến chuẩn chất lượng của cácnước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, công tác đảmbảo chất lượng giáo dục ở các cơ sở giáo dục đại học cần phải được hình thành và phát triển, phùhợp với xu thế phát triển chung của thế giới, đồng thời là giải pháp thiết thực nâng cao chấtlượng đào tạo của các trường đại học. Việc học hỏi kinh nghiệm từ các trường đại học ở cácnước có nền giáo dục phát triển trên thế giới là rất cần thiết trong tiến trình hình thành, xây dựnghệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Nguyễn Lộc. chúng tôi (2009), Quản lý chất lượng giáo dục (sơ thảo), Viện Khoa họcGiáo dục Việt Nam.2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020, NXB Chínhtrị quốc gia.3. Quốc hội 10 (2004), Nghị quyết số 37/2004/QH10 của Quốc hội chuyên đề về GD&ĐT.4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giáchất lượng GD trường đại học, Hà Nội.5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, HàNội, 2011.7. Nhóm chuyên gia nghiên cứu cải tổ trường học của trường giáo dục thuộc đại họcHarvard-HGSE (2006), Cẩm nang cải tổ trường học (A Practical Guide to Transforming OurSchools, NXB Trẻ).8. Nguyễn Quang Giao (đại học Ngoại ngữ), Đảm bảo chất lượng GD và kinh nghiệm củamột số trường đại học trên thế giới, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 4(33), 2009.9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Tài liệu dùng cho cán bộ quản lý trường phổ thông,giám sát, đánh giá trong trường học, NXB Hà Nội.10. International Conference (June 28-29, 2012), Responding to the 21st century demandsfor Educational Leadership and Management in Higher Education, Ho Chi Minh city.11. Asian Network for Quality Congress 2013, Program and Abstract Book SwissotelLe Concord, Bangkok, Thailand, October, 2013.
Quản Lý Và Xử Lý Chất Thải Rắn Ở Việt Nam Bài Học Kinh Nghiệm Từ Các Nước Phát Triển
Thực trạng quản lý và xử lý chất thải rắn ở Việt Nam
Những năm qua, sự gia tăng dân số cùng với phát triển kinh tế – xã hội đã làm gia tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, nguyên vật liệu, năng lượng dẫn đến phát sinh lớn lượng chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn công nghiệp ở Việt Nam.
Báo cáo môi trường toàn quốc của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ô nhiễm từ rác tiếp tục là một trong những vấn đề môi trường trọng điểm. Trên phạm vi cả nước, CTR phát sinh ngày càng nhiều với tốc độ gia tăng khoảng 10% mỗi năm và sẽ còn tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới cả về lượng và mức độ độc hại. Bộ Xây dựng – cơ quan Trung ương phụ trách trực tiếp về vấn đề quản lý CTR sinh hoạt đô thị và CTR sinh hoạt nông thôn đánh giá, năm 2018, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn cả nước ước tính khoảng 12,8 triệu tấn, trong đó của khu vực đô thị (từ loại 4 trở lên) là 6,9 triệu tấn (khoảng 19 nghìn tấn/ngày). Theo số liệu của Tổng cục Môi trường, lượng CTR thông thường phát sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp ước tính khoảng 25 triệu tấn/năm, riêng từ các KCN là khoảng 8,1 triệu tấn/năm. Do quá trình gia tăng mức độ công nghiệp hóa và sử dụng hóa chất ngày càng cao, thành phần CTR công nghiệp có thể thay đổi theo hướng gia tăng chất thải nguy hại.
Số liệu Niên giám Thống kê cho thấy, năm 2017, bình quân mỗi ngày cả nước thu gom được trên 37,8 nghìn tấn CTR, trong đó, tổng lượng CTR thông thường thu gom được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng đạt trên 31,6 nghìn tấn (chiếm 83,6%, tăng 2,6% so với năm 2016); còn lại gần 6,2 nghìn tấn CTR đã thu gom nhưng chưa được xử lý theo quy định. Công tác thu gom và xử lý CTR ở đô thị qua các năm đạt từ 70-85%, đối với khu vực nông thôn chỉ đạt từ 40-45%. Tính theo vùng kinh tế, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng là 2 vùng có khối lượng CTR được xử lý nhiều nhất (tương ứng 12,8 và 10,7 nghìn tấn/ngày), đây cũng là 2 vùng phát sinh lượng CTR nhiều nhất trong các vùng kinh tế trên cả nước. Những con số nêu trên là số liệu thống kê chính thức lượng CTR được thu gom, còn chưa kể đến khối lượng lớn CTR chưa được thu gom, được thải ra ven đường nông thôn, biển, sông, ngòi hoặc nhân dân tự ý gom đốt mỗi ngày.
CTR có quy mô trên 1 ha; ngoài ra, còn có các bãi chôn lấp quy mô nhỏ ở các xã chưa được thống kê đầy đủ. Đặc biệt, hiện vẫn tồn tại các bãi chôn lấp CTR không hợp vệ sinh tại các các địa phương, các vùng nông thôn. Với công nghệ ủ xử lý CTR thành phần hữu cơ, các cơ sở xử lý CTR thành phân hữu cơ chủ yếu sử dụng công nghệ ủ hiếu khí hoặc kị khí.
Trong khi đó, việc xử lý CTR từ hoạt động sản xuất đặc thù còn gặp rất nhiều khó khăn. Những năm gần đây, Nhà nước đã có chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp xử lý chất thải sử dụng tro, xỉ, than từ các nhà máy nhiệt điện, xỉ thải từ các nhà máy luyện thép tái chế làm gạch không nung, phụ gia bê tông, phụ gia xi măng, lót đường… nhưng trên thực tế, lượng xỉ thải phần lớn vẫn được xử lý bằng biện pháp chôn lấp gây lãng phí tài nguyên. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2016 – Chuyên đề”Môi trường đô thị” của Tổng cục Môi trường cho biết: Tại khu vực đô thị, tỷ lệ CTR sinh hoạt được chôn lấp trực tiếp khoảng 34%, tỷ lệ CTR sinh hoạt được tái chế tại các cơ sở xử lý đạt khoảng 42% và lượng CTR còn lại là bã thải của quá trình xử lý được chôn lấp chiếm khoảng 24%. Ngày nay, biện pháp chôn lấp CTR chưa qua phân loại vào những bãi thải tập trung đã thể hiện nhiều yếu kém do tốn diện tích đất, các bãi thải quá tải, ảnh hưởng đến môi trường, nguồn nước, không khí, đặc biệt là sức khỏe con người. Việc thu gom, xử lý CTR cũng đang là gánh nặng kinh tế cho ngân sách nhà nước, bởi phần kinh phí trả cho các hoạt động này chủ yếu vẫn do nhà nước bao cấp. Phần thu phí vệ sinh tại các hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh mới chỉ đủ hỗ trợ cho hoạt động thu gom tại chỗ.
Kết quả Tổng điều tra kinh tế 2017 cho thấy, tính đến 01/01/2017, cả nước có 1.791 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải với hơn 107,6 nghìn lao động. Tuy nhiên, số doanh nghiệp lớn chỉ chiếm 6% trong tổng số (tương ứng 107 doanh nghiệp) và doanh nghiệp nhỏ chiếm 30,5% (547 doanh nghiệp), trong khi có tới 60,6% (1.086 doanh nghiệp) là doanh nghiệp siêu nhỏ, còn lại là doanh nghiệp vừa.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hiện Trạng Và Giải Pháp Quản Lý Chất Thải Nhựa Đại Dương Ở Việt Nam trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!