Bạn đang xem bài viết Giáo Dục Bảo Vệ Môi Trường Cho Học Sinh Trong Một Số … được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
(MÃ MÔ ĐUN TH 43)
GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO HỌC SINH
TRONG MỘT SỐ MÔN HỌC Ở TIỂU HỌC
@&?
Tháng 11 năm 2023
1.
Mục tiêu GDBVMT trong trường tiểu học
Kiến thức
:
trang bị cho HS hệ thống những kiến thức cơ bản ban đầu về môi trường phù hợp với độ tuổi và tâm sinh lí của HS. Cụ thể :
+ Có những hiểu biết cơ bản ban đầu về tự nhiên, về môi trường
+ Nhận thức được mối quan hệ khăng khít, tác động lẫn nhau giữa con người với MT, những tác động của hoạt động con người đối với MT.
+ Những vấn đề của MT tự nhiên và toàn cầu, hậu quả việc MT bị biến đổi xấu đi gây ra.
+ Nội dung và các biện pháp BVMT.
+ Các chủ trương, chính sách và pháp luật BVMT của nước ta và trách nhiệm của mỗi công dân.
Thái độ
:
Cần hình thành cho các em ý thức quan tâm đến môi trường và thái độ trách nhiệm đối với môi trường:
+ Từng bước bồi dưỡng cho HS lòng yêu quý thiên nhiên, tình cảm trân trọng tự nhiên và có nhu cầu bảo vệ môi trường
+ ý thức được về tầm quan trọng của trong sạch đối với đời sống của con người, phát triển thái độ tích cực đối với môi trường.
+ Thể hiện sự quan tâm tới việc cải thiện môi trường để có ý thức sử dụng hợp lí chúng, có tinh thần phê phán đối với những hành vi gây ô nhiễm môi trường.
+ Có ý thức tuyên truyền, vận động mọi người cùng tham gia bảo vệ môi trường sống.
Hành vi
:
Cần trang bị cho HS những kĩ năng và hành vi ứng xử tích cực trong việc BVMT :
+ Có kĩ năng đánh giá những tác động của con người đối với tự nhiên, dự đoán những hậu quả của chúng.
+ Tham gia tích cực, có hiệu quả vào các hoạt động giữ gìn vệ sinh, bảo đảm sự trong sạch của môi trường sống, tham gia tích cực vào việc bảo tồn nguồn tài nguyên.
– Để thực hiện mục tiêu GDBVMT ở cấp tiểu học cần tích hợp, lồng ghép nội dung GDBVMT vào các môn học ở tiểu học.
– Thực hiện GDBVMT thông qua các hoạt động Giáo dục NGLL ở tiểu học.
– Quan tâm đến môi trường địa phương, thiết thực góp phần cải thiện MT địa phương, tạo thói quen ứng xử thân thiện với MT.
Tích hợp, lồng ghép giáo dục BVMT vào các môn học cấp tiểu học có 3 mức độ : Mức độ toàn phần, mức độ bộ phận và mức độ liên hệ
Mức độ toàn phần : Khi mục tiêu, nội dung của bài phù hợp hoàn toàn với mục tiêu, nội dung của giáo dục BVMT.
Mức độ bộ phận : Khi chỉ có một bộ phận bài học có mục tiêu, nội dung phù hợp với giáo dục BVMT.
Mức độ liên hệ : Khi mục tiêu, nội dung của bài có điều kiện liên hệ một cách lô gic với nội dung giáo dục BVMT.
2. Môi trường là gì?
– Môi trường là một tập hợp các yếu tố xung quanh hay là các điều kiện bên ngoài có tác động qua lại (trực tiếp, gián tiếp) tới sự tồn tại và phát triển của sinh vật.
– Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
3. Thế nào là môi trường sống ?
– Môi trường sống của con người theo nghĩa rộng là tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, đất, nước và không khí, ánh sáng, công nghệ, kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa, lịch sử và mỹ học.
– Môi trường sống của con người được phân thành: môi trường sống tự nhiên và môi trường sống xã hội
* Môi trường tự nhiên
Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh học tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động vật, thực vật, đất nước… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cõy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
* Môi trường xã hội
Là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định … ở các cấp khác nhau như: Liên hiệp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với thế giới sinh vật khác.
Ngoài ra người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo: Bao gồm tất cả các nhân tố vật lí, sinh vật, xã hội do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ô tô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên …và chịu sự chi phối của con người.
* Môi trường nhà trường bao gồm không gian trường, cơ sở vật chất trong trường như phòng học, phòng thí nghiệm, thầy giáo, cô giáo, học sinh, nội quy của trường, các tổ chức xã hội như Đoàn, Đội, …
3. Giáo dục bảo vệ môi trường:
* Giáo dục bảo vệ môi trường đã và đang là một vấn đề được cả thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng đặc biệt quan tâm. Chất lượng môi trường có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển bền vững đối với cuộc sống con người. Môi trường là một khái niệm quen thuộc và tồn tại xung quanh chúng ta.
Giáo dục môi trường vào bậc tiểu học để bảo vệ trẻ, các em như một bộ phận nhỏ của môi trường trước sự xuống cấp của nó, đồng thời coi trẻ em là một lực lượng bảo vệ môi trường. Giáo dục môi trường là một hoạt động quan trọng trong hoạt động giáo dục của nhà trường, góp phần hình thành một số năng lực cho học sinh để phát triển toàn diện nhân cách cho các em, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục đề ra.
Hoạt động giáo dục môi trường gắn nhà trường với thực tiễn, giúp các em mở rộng kiến thức, xây dựng những tình cảm tốt đẹp, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các em; biến quá trình giáo dục thành tự giác. Hoạt động giáo dục môi trường cần được quan tâm, chú trọng, đầu tư hơn nữa của các nhà quản lý giáo dục. Mục tiêu của giáo dục cần được xem xét với chú trọng đến giáo dục môi trường nhằm góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh.
* Ô nhiễm môi trường trên Thế giới
– Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần xuất thiên tai gia tăng
+ Gia tăng nồng độ Co2 và So2 trong khí quyển
+ Nhiệt độ trái đất tăng: trong vòng 100 năm trở lại đây TĐ nóng lên 0, 5 độ và dự báo trong thế kỷ này sẽ tăng từ 1,5- 4,5 độ so với TK XX.
+ Mức nước biển sẽ dâng cao từ 25- 145cm do băng tan, nhấn chìm nhiều vùng rộng lớn.
+ Gia tăng tầng xuất thiên tai.
– Suy giảm tầng Ôzôn
– Tài nguyên bị suy thoái
– Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở quy mô rộng
Nguyên nhân : Sự phát triển khu đô thị, công nghiệp, du lịch, đổ bỏ chất thải…
Hậu quả : hàng năm trung bình trên 20 triệu người chết vì các nguyên nhân môi trường.
– Gia tăng dân số
– Suy giăm tính đa dạng sinh học (đa dạng di truyền; loài; sinh thái)
Ô nhiễm môi trường Việt Nam
– Suy thoái môi trýờng đất : trên 50% diện tích đất tự nhiên của nýớc ta bị thoái hoá (bạc màu, phèn, xói mòn…).DT không gian sống đang ngày càng thu hẹp.
– Suy thoái rừng : chất lýợng rừng giảm và sự thu hẹp DT rừng.
– Suy giảm đa dạng sinh học : VN là 1 trong 10
trung tâm ĐDSH cao trên thế giới. Những năm gần đây bị suy giảm nhiều.
– Ô nhiễm MT nước
– Ô nhiễm MT không khí
– Ô nhiễm MT chất thải rắn
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục môi trường tại trường tiểu học:
– Các cấp quản lý giáo dục cần nhận thức được vai trò to lớn của việc bảo vệ môi trường để từ đó coi giáo dục môi trường là một bộ môn trong chương trình học của bậc tiểu học, đồng thời biên soạn sách, tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn này. Bên cạnh đó, tăng cường bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên về tầm quan trọng của việc giáo dục môi trường cho học sinh ở bậc tiểu học.
– Tăng cường tổ chức các hoạt động giáo dục môi trường trong các tiết sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, sắp xếp và đưa vào kế hoạch sinh hoạt từng tháng.
– Tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục môi trường trong các trường tiểu học. Áp dụng các công trình khoa học, triển khai các dự án bảo vệ môi trường vào thực hiện tại các trường tiểu học.
5. Kết luận:
– Giáo dục môi trường là một quá trình (thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy) hình thành và phát triển ở học sinh sự hiểu biết, kĩ năng, giá trị và quan tâm tới những vấn đề về môi trường, tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái.
– Giáo dục BVMT nhằm giúp cho mỗi cá nhân và cộng đồng có sự hiểu biết và nhạy cảm về môi trường cùng các vấn đề của nó; những khái niệm cơ bản về môi trường và BVMT; những tình cảm, mối quan tâm trong việc cải thiện và bảo vệ môi trường; những kĩ năng giải quyết cũng như cách thuyết phục các thành viên khác cùng tham gia; tinh thần trách nhiệm trước những vấn đề về môi trường và có những hành động thích hợp giải quyết vấn đề.
– Môi trường Việt Nam và trên thế giới đang bị ô nhiễm và bị suy thoái nghiêm trọng đã gây ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của một bộ phận lớn cư dân trên trái đất. Bảo vệ môi trường đang là vấn đề cấp bách, nóng bỏng không chỉ ở Việt Nam mà cả trên toàn thế giới.
– Sự thiếu hiểu biết về môi trường và GDBVMT là một trong những nguyên nhân chính gây nên ô nhiễm và suy thoái môi trường. Do đó GDBVMT phải là một nội dung giáo dục quan trọng nhằm đào tạo con người có kiến thức, có đạo đức về môi trường, có năng lực phát hiện và xử lí các vấn đề môi trường trong thực tiễn.
Giáo Dục Học Sinh Bảo Vệ Môi Trường Trong Trường
khu dự trữ sinh quyển thế giới Cần Giờ
Biến đổi khí hậu đang là vấn đề nóng bỏng trên toàn cầu. Bảo vệ môi trường hơn bao giờ hết đã trở thành nhiệm vụ cấp bách không của riêng ai. Có một thực tế là hiện nay, trong khi các quốc gia phát triển có môn học riêng về môi trường thì Bảo vệ môi trường trong trường học ở một số nước đang phát triển như Việt Nam mới chỉ được đưa vào một số tiết học ngoại khóa.
Học sinh trường Ngô Thời Nhiệm trồng rừng
Hiện nay, kinh phí đầu tư vào các chương trình tuyên truyền môi trường của nhà nước không phải là nhỏ. Số tiền này được chi cho các hoạt động truyền thông, các cuộc thi ý tưởng, các ngày hội môi trường… Tuy nhiên, hiệu quả thu được từ những chương trình như vậy chưa hẳn đã cao so với giáo dục trong trường học. Bởi lẽ, giáo dục học đường là cách giáo dục thường xuyên và lay động lớn nhất đối với lớp trẻ. Song thật đáng tiếc là hiện nay, việc giáo dục bảo vệ môi trường trong trường học chưa được chú trọng đúng mức.
Ý thức bảo vệ môi trường vì thế chưa hình thành trong cộng đồng học sinh, sinh viên và đáng buồn là cả ở giáo viên. Có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào tình trạng hút thuốc trong trường học, xả rác bừa bãi, sử dụng điện nước lãng phí… Ngay trong những trường đại học, trường tư thục lớn, dù đã có những thùng rác phân loại nhưng rất ít người có ý thức phân loai rác.
Tuy nhiên, trong khi chờ đợi một môn học chính thức, nếu các thầy cô giáo biết cách lồng ghép thường xuyên vấn đề này trong các bài giảng của mình thì hiệu quả chắc chắn không phải là nhỏ. Sở dĩ như vậy vì thầy cô giáo vừa là những tấm gương rất thuyết phục, vừa là những người có sức lay động, cảm hóa sâu sắc. Thầy cô cũng là những người ngày ngày tiếp xúc với học sinh, sinh viên. Một lời nói của thầy cô có thể tác động trực tiếp và lớn lao hơn cả những chương trình truyền thông khô cứng. Việc giáo dục bảo vệ môi trường sẽ được tích hợp vào các môn học: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Vật lý, Sinh học, Công nghệ ở cấp trung học cơ sở (THCS).
Đối với cấp trung học phổ thông (THPT) sẽ được tích hợp vào các môn học: Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân, Vật lý, Hoá học, Sinh học. Công nghệ. Nguyên tắc là lồng ghép các nội dung bảo vệ môi trường vào các bài học một cách tự nhiên, phù hợp với nội dung bài học. Việc tích hợp phải làm cho bài học sinh động , gắn với thực tế hơn nhưng không làm quá tải học sinh. Ở bậc học mầm non, việc giáo dục môi trường được thực hiện qua chuyên đề ” Bé làm quen với môi trường xung quanh”, thông qua các hoạt động vui chơi theo phương châm ” học mà chơi, chơi mà học” nhằm cung cấp và hình thành cho các cháu những hiểu biết đơn giản về môi trường sống, biết giữ gìn sức khỏe bản thân, có hành vi ứng xử phù hợp để bảo vệ môi trường.
Giáo dục môi trường có thể bắt đầu từ những việc nhỏ. Các thầy cô nên lồng ghép vào bài giảng thực trạng môi trường hiện nay, các biện pháp cụ thể để Bảo vệ môi trường. Không chỉ trên bài giảng, nếu trong cuộc sống hàng ngày, các thầy cô đi tiên phong trong việc tiết kiệm năng lượng, nước, giấy, phân loại rác thải… thì hiệu quả sẽ tăng lên gấp đôi. Các thầy giáo có thể làm gương cho các học sinh, sinh viên bằng việc không hút thuốc lá trong trường học. Không chỉ kêu gọi và làm gương, các thầy cô nên khuyến khích học trò tự giám sát việc bảo vệ môi trường của nhau.
Chỉ bằng những hành động nhỏ như nhắc nhở, tuyên dương cũng đã góp phần hình thành ý thức môi trường ở những công dân trẻ. Nhà trường tư thục cũng nên đầu tư các thiết bị tiết kiệm điện, khuyến khích giáo viên, học sinh, sinh viên sử dụng các phương tiện công cộng; xây dựng các quy định về tiết kiệm năng lượng, giấy, nước sạch. Có thể tin chắc rằng nếu ý thức bảo vệ môi trường trở nên thường trực trong trường học thì không chỉ các giáo viên, học sinh, sinh viên được hưởng một môi trường học đường trong lành hơn, mà về lâu dài, thế hệ tương lai sẽ làm tốt việc chung tay bảo vệ môi trường.
Một Số Biện Pháp Giáo Dục Bảo Vệ Môi Trường Trong Trường Tiểu Học
Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường trong trường Tiểu họcPHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài: Năm học 2009 – 2010 là năm học thứ ba ngành giáo dục thực hiện cuộc vận động ” Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” trong đó có nội dung xây dựng cảnh quan sư phạm xanh, sạch, đẹp đã được đông đảo cán bộ giáo viên và học sinh hưởng ứng. Muốn thực hiện tốt công tác này trước hết phải giáo dục cho học sinh có ý thức bảo vệ môi trường. Việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay là một việc làm bức thiết. Trong những năm gần đây, càng ngày mỗi người chúng ta càng cảm thấy áp lực của sự ô nhiễm môi trường đang đè nặng lên chính mình. Đó là hậu quả của những hành động thiếu hiểu biết của mỗi người nói riêng và của từng bộ phận trong cộng đồng nói chung. Hơn lúc nào hết, mỗi người đều nhận thấy cần phải chấn chỉnh lại những hành động của chính mình, cần phải quan tâm chăm sóc cho môi trường xung quanh ta – “Ngôi nhà” điều kiện cho sự tồn tại, phát triển cho chính chúng ta và các thế hệ con cháu mai sau. Hãy cứu lấy “Ngôi nhà của chúng ta”. Tiếng chuông cảnh tỉnh ấy
đã và đang vang lên hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng (báo, đài, ti vi,…). Nếu như trước đây bộ môn giáo dục môi trường chỉ được giảng dạy ở khoa Sinh của các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học sư phạm thì nay đã có mặt ở nhiều trường đào tạo khác nhau và bắt buộc đưa vào trường Tiểu học từ năm… Vì vậy, giáo dục bảo vệ môi trường đã trở thành nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ ở các trường học nhất là các trường phổ thông. Do đó, tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Áp dụng chương trình giáo dục bảo vệ môi trường trong các môn học ở cấp Tiểu học”.2. Mục đích nghiên cứu: – Làm cho học sinh Tiểu học có chuyển biến về ý thức, thái độ, hành vi, đối với môi trường và việc bảo vệ môi trường. Trong quá trình đó, thông qua hệ thống chương trình, nội dung giảng dạy, từng bước trang bị cho các em học sinh những hiểu biết về môi trường, để từ đó giúp các em dần dần có ý thức, từ ý thức sẽ bộc lộ qua thái độ, hành vi trong cuộc sống. Khi con người có ý thức cao, những thái độ, hành vi của họ sẽ trở thành nếp sống hàng ngày. – Xây dựng một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường trên cơ sở điều tra thực trạng về công tác giáo dục bảo vệ môi trường của học sinh trường Tiểu học Phấn Mễ 1. Từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh trường Tiểu học Phấn Mễ I.3. Phạm vi nghiên cứu: – Phạm vi về quy mô: Là vấn đề giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. – Phạm vi về không gian: Tại trường Tiểu học Phấn Mễ I. – Phạm vi về thời gian: Từ tháng 8 năm 2009 đến tháng 5 năm 2010.4. Nhiệm vụ nghiên cứu: – Nghiên cứu lí luận của vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh Tiểu học. – Nghiên cứu thực trạng của việc giáo dục bảo vệ môi trường của học sinh trường tiểu học Phấn Mễ I. – Đề xuất mới: Trang bị cho học sinh Tiểu học những hiểu biết nhất định về môi trường, một số kĩ năng, biện pháp bảo vệ môi trường thông thường để các em vận dụng vào cuộc sống hàng ngày. – Trên cơ sở những hiểu biết đó, từng bước bồi dưỡng cho học sinh Tiểu học ý thức, thái độ, hành vi, đối với môi trường và bảo vệ môi trường.5. Phương pháp nghiên cứu:
I. Mục tiêu:Sau hoạt động học sinh có khả năng:– Biết đợc ích lợi của việc ăn uống sạch sẽ đối với sức khoẻ con ngời nói chung, đối với bản thân nói riêng. – Có thói quen ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh; ghét thói ăn uống bậy bạ, không hợp vệ sinh. – Biết ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh (ăn chín uống sôi, không ăn quả xanh, không uống nớc lã, ăn có giờ giấc, biết rửa tay trớc khi ăn).II. Thời gian: 30 – 40 phút.III. Nội dung và hình thức tổ chức:1. Nội dung: – Ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh có lợi gì? Nếu ăn uồng không sạch sẽ , mất vệ sinh thì sễ có hại gì cho sức khoẻ của mỗi ngời chúng ta? – Ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh là ăn sạch, uống sạch, không ăn những thức ăn ôi thiu hoặc quả xanh mà chỉ dùng đồ ăn đã đợc nấu chín, không uống nớc lã hoặc nớc từ nguồn không sạch có trong tự nhiên mà chỉ uống n-ớc đã đun sôi. Nếu biết ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh thì sức khoẻ sẽ đợc đảm bảo, hạn chế đợc bệnh tật. – Nếu môi trờng có nguồn nớc bị bẩn, rau xanh và hoa quả bị hỏng thì chúng ta không đợc dùng để ăn uống. 2. Hình thức tổ chức: Cho học sinh xem tranh rồi trả lời câu hỏi.VI. Chuẩn bị:1. Giáo viên: – Một số tranh vẽ về nguồn nớc bị ô nhiễm, về mâm cơm không đậy lồng bàn nên bị ruồi nhặng đậu vào, về một vài loại rau xanh thờng gặp hằng ngày. – Soạn một số câu hỏi về những điều nên và không nên từ những bức tranh ở trên về ăn sạch và uống sạch. 2. Học sinh: – Chuẩn bị ý kiến để trả lời các câu hỏi của giáo viên.V. Tổ chức hoạt động: 1. Hoạt động 1: Xem tranh.* Mục đích: Giúp học sinh nhận biết sự ô nhiễm môi trờng.* Cách tiến hành: – Giáo viên treo lên bảng vài bức tranh về nguồn nớc bẩn, về hình ảnh những con ruồi đậu mâm cơm, về một vài loại rau xanh hoặc hoa quả thờng gặp.– Sau đó đặt câu hỏi để học sinh trả lời.– Học sinh cùng nhau suy nghĩ để trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra.* Kết luận: Không đơc uống nớc từ những nguồn nớc bẩn, không ăn các loại rau quả bị hỏng. Nếu chúng ta ăn uống không sach sẽ thì sẽ có hại cho sức khoẻ của bản thân mình. 2. Hoạt động 2: Phân biệt những điều nên và không nên.* Mục đích: Giúp học sinh nhận biết những điều nên và không nên trong việc ăn uống hằng ngày.* Cách tiến hành: – Phát cho học sinh phiếu bài tập có các câu hỏi về những điều nên và không nên trong việc ăn uống hợp vệ sinh. – Học sinh làm bài trong 10 phút, sau đó giáo viên gọi vài em lên trình bày kết quả của mình. – Có thể cho học sinh tự liên hệ thực tiễn hằng ngày trong việc ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh ở nhà cũng nh ở nơi công cộng. – Kết thúc hoạt động cho học sinh hát bài Thật đáng chê.* Kết luận: Chúng ta không đợc ăn những thức ăn ôi thiu hoặc quả xanh, không đợc uống nớc lã. Chỉ nên ăn chín uống sôi. nh thế sẽ làm cho ta khoẻ mạnh, không bị bệnh tật
Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Bảo Vệ Môi Trường Trong Trường Tiểu Học
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Hà Cao Thắng I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Đặt vấn đề: Từ xưa ông cha ta đã quan tâm đến vấn đề môi trường sống qua các câu tục ngữ, thơ ca: “Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”.Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người và sự phát triển kinh tế văn hoá của đất nước, của nhân loại .Nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm cho con người được sống trong môi trường trong lành góp phần bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu Ngày 27 /12 / 1993 Quốc hội đã thông qua “Luật bảo vệ môi trường”. Đồng thời Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Đối với giáo dục Mầm Non cung cấp cho trẻ em hiểu biết ban đầu về môi trường sống của bản thân nói riêng và con người nói chung biết cách sống tích cực với môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh về cơ thể và trí tuệ. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục-Đào tạo. Vụ giáo dục Tiểu học về giáo dục bảo vệ môi trường cho Giáo viên Tiểu học .
qua các hoạt động giáo dục, hoạt động vui chơi, làm quen môi trường xung quanh … thông qua chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở trường. Giáo viên luôn gương mẫu thực hiện các hành vi bảo vệ môi trường, luôn tận dụng mọi cơ hội để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Tuyên truyền cho các bậc Phụ huynh và cộng đồng các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường.Ở trẻ thông qua chuyên đề trẻ có kiến thức và kỹ năng giáo dục bảo vệ môi trường, luôn có thói quen và nhận thức tốt trong việc bảo vệ môi trường.4. Phạm vi đề tài:Đối với đề tài “Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường trong trường Tiểu học ” trường chúng tôi đã áp dụng cho 5 khối: khối 1, khối 2, khối 3, khối 4, khối 5 (2007-2008).
Một Số Biện Pháp Giáo Dục Bảo Vệ Môi Trường
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG MẦM NON XÃ YÊN MỸ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môI trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường mầm non yên mỹ
Lĩnh vực : Giáo dục mẫu giáo.Tên tác giả : Trần Thị Tuyết Nhung.Chức vụ : Giáo viên.
Năm học 2012-2013
ĐẶT VẤN ĐỀ“Tất cả vì một thế giới ngày mai – Hãy chung tay bảo vệ môi trường”. Môi trường là nơi nuôi dưỡng con người cả về thể chất lẫn tinh thần, nhưng cũng chính con người trong quá trình tồn tại và phát triển đã khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Mỗi năm trên thế giới có hàng vạn người chết vì các loại dịch bệnh do nguồn nước bị ô nhiễm và môi trường mất vệ sinh gây ra. Một trong các nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của con người. Vì vậy, hiểu biết về môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường trở thành một vấn đề cấp bách,có tính chiến lược toàn cầu.” Giữ gìn vệ sinh môi trường góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống là trách nhiệm của mỗi chúng ta”. Mỗi chúng ta ai cũng nhận thức được tầm quan trọng của sức khỏe đối với bản thân, không có sức khỏe con người sống đâu- còn ý nghĩa. “Người khỏe mạnh thì có trăm điều ước, người đau ốm thì chỉ ước một điều” chắc hẳn ai cũng đoán được điều ước đó là có sức khoẻ. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để mỗi người đều có một sức khỏe tốt, ngoài những yếu tố về dinh dưỡng, thể dục thể thao tinh thần thoải mái thì môi trường sống trong sạch đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Vậy môi trường sống trong sạch là gì?Làm thế nào để có môi trường trong sạch? Mỗi chúng ta đã đóng góp được gì để cho môi trường ngày càng trong sạch hơn? Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của mỗi cá nhân chúng ta. Ngày nay, giáo dục bảo vệ môi trường đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ ở các trường học và được quan tâm ngay từ bậc học đầu tiên: ” Giáo dục mầm non”.Giáo dục bảo vệ môi truờng cho trẻ mầm non là cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban đầu về môi trường sống của bản thân nói riêng và của con người nói chung, biết cách sống tích cực với môi trường. Mục đích của giáo dục bảo vệ môi trường là hình thành cho trẻ có thói quen tốt biết sắp xếp đồ dùng đồ chơi trong lớp và ngoài trời gọn gàng ngăn nắp, biết bỏ rác đúng nơi qui định, biết chăm sóc cây xanh và chăm sóc con vật nuôi, hình thành cho trẻ có thái độ thiện cảm bảo vệ môi trường, biết được hành vi xấu như vứt rác bừa bãi nơi công cộng, vẽ bẩn lên tường, dẫm đạplên cây xanh…Bên cạnh đó giúp cho các bậc phụ huynh và cộng đồng có kiến thức cơ bản về giáo dục bảo vệ môi trường và tích cực tham gia vào các hoạt động làm ” Xanh- sạch – đẹp” cho đất nước và cho thế hệ mai sauTrên thực tế,ở trường mầm non xã Yên Mỹ nói chung và lớp mẫu giáo lớn (A2) nói riêng vấn đề giáo dục môi trường cho trẻ mầm non còn hạn chế, chưa phát huy hết được việc cho trẻ hiểu về môi trường, được quan sát, tiếp cận, làm các trải nghiệm thực tiễn.Ở lớp, tôi nhận thấy có một số phụ huynh chưa quan tâm đến vấn đề môi trường của trường/ lớp, gia đình. Còn học sinh thì chưa tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường như: vệ sinh thân thể, sắp xếp đồ dùng đồ chơi, giữ gìn lớp học sạch sẽ, chăm sóc cây, thu gom lá, rác thải ngoài sân trường…Ví dụ như ăn kẹo hoặc ăn bánh xong không vứt ngay
vỏ vào thùng rác mà vứt dấu vào một xó kín đáo hay nhìn thấy vỏ bim bim, vỏ hộp sữa ngoài sân trường không nhặtbỏ vào thùng rác đúng nơi qui định…Là một giáo viên hàng ngày đang trực tiếp giáo dục những thế hệ tương lai của đất nước, tôi nhận ra một điều thật quan trọng trong công việc của mình là cần phải giáo dục cho trẻ ngay từ bậc học mầm noný thức bảo vệ môi trường. Điều này là vô cùng quan trọng trong đời sống của trẻ sau này, vì khi trẻ có
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giáo Dục Bảo Vệ Môi Trường Cho Học Sinh Lớp 3
I. BỐI CẢNH CỦA SÁNG KIẾN:.
Trong những năm gần đây, tình hình môi trường đang có biến động xấu làm ảnh hưởng đến khí hậu, thời tiết trên toàn thế giới. Và được xem như là lời cảnh báo cho tương lai đối với thế giới sinh vật trong đó có con người chúng ta. Nếu như chúng ta không có những hành động nhằm bảo vệ môi trường kịp thời.
Xét riêng về tình hình môi trường của nước ta hiện nay, là một nước đang trong giai đoạn phát triển nhanh về các ngành công nghiệp trong thời gian qua. Cụ thể tài nguyên đất bị ô nhiễm do ảnh hưởng chất độc da cam của chiến tranh để lại, do con người sử dụng các loại phân, thuốc hóa học, do khô hạn, ngập úng kéo dài. Một số nơi tài nguyên đất bị ô nhiễm do chất thải công nghiệp mà các công ty xí nghiệp thải ra chưa qua xử lí, đáng báo động nhất là rác thải của y tế nơi được xem là môi trường sống của các loại vi khuẩn gây bệnh. Từ môi trường của Trái Đất bị ô nhiễm là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến suy thoái môi trường là do sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của con người. Trái Đất hiện nay đang là báo động đỏ. Chính vì lẽ đó mà ngành Giáo dục chúng ta đã đưa nội dung tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các môn học.
II. LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN:
Để thực hiện chỉ thị số 40/2008/CT -BGD -ĐT về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện và HS tích cực học tập”.
Thiết nghĩ đây là việc làm đúng đắn và kịp thời. Bản thân tôi là một giáo viên đang trực tiếp đứng lớp, để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của ngành đề ra trước vấn đề lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường. Trong các tiết học cũng như các hoạt động khác.
III PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
IV. MỤC ĐCÍH NGHIÊN CỨU:
Chúng ta cũng biết rằng, Tiểu học là cấp học đặt nền tảng cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của con người.
Vấn đề môi trường là vấn đề cấp bách và nóng bỏng, tác động ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của con người và các cơ thể sinh vật. Đây là việc làm không phải của riêng ai, không phải của một quốc gia nào, một tổ chức nào mà đây là nhiệm vụ chung của mọi người trên toàn thế giới. Vì vậy, mục đích của của bản thân – là người giáo viên, luôn học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, phải sáng tạo ra những biện pháp, hình thức và phương pháp (phù hợp với kiến thức, khả năng) trong các môn học thật là cần thiết. Có như vậy HS rất hứng thú học tập, tiết học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng, HS nhớ kiến thức bài sâu, lớp học sôi nổi, tinh thần tự học cao, vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát, … Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, tăng cường khả năng vận dụng trong cuộc sống để dễ dàng thích nghi với điều kiện mới của xã hội. Với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giáo dục, phát triển nhân cách cho HS, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân, tôi luôn cố tìm tòi, suy nghĩ và vận dụng. Cụ thể:
– Tìm hiểu thực trạng việc dạy lồng ghép bảo vệ môi trường cho HS lớp 3
– Vận dụng cách dạy và học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh để từ đó nâng cao chất lượng giáo dục bảo vệ môi trường cho HS lớp 3
B, NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Như chúng ta đã biết Môi trường của con người là cả vũ trụ, bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa – xã hội và môi trường nhân tạo. Nó không chỉ là cái nơi cho con người và các sinh vật sinh sống mà còn là nơi chứa đựng các chất thải của đời sống, sản xuất và cũng chính là nơi lưu trữ, cung cấp các thông tin, tài nguyên cho con người.
Do vậy, ba môi trường nói trên cùng tồn tại và có mối quan hệ tương tác, chặt chẽ với nhau cùng tác động ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của con người và các cơ thể sinh vật. Đây là việc làm không phải của riêng ai, khôn
phải của một quốc gia nào, một tổ chức nào mà đây là nhiệm vụ chung của mọi người trên toàn thế giới.
II, CƠ SỞ THỰC TIỄN:
– Hiện nay các trường tiểu học thực hiện theo sự chỉ đạo của ngành đã lồng ghép giáo dục môi trường vào các tiết dạy, không có tiết riêng biệt nên việc hình thành hành vi bảo vệ môi trường cho các em có hạn. Chính vì thế, qua nhiều năm thực hiện, giáo dục môi trường được lồng ghép vào các môn học thì kiến thức và ý thức bảo vệ môi trường ở các em đã được nâng lên. Song kĩ năng sống về Bảo vệ môi trường thể hiện cuộc sống hàng ngày của các em còn hạn chế.
Bên cạnh đó hiện tượng môi trường bị ô nhiễm: chất bẩn, rác thải vẫn còn nhiều trên đường và các điểm công cộng do ý thức, hành vi của một số người dân về bảo vệ môi trường chưa cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi của các em ngoài phạm vi nhà trường. Bởi vì trẻ em thường bắt chước người lớn, người lớn làm thế nào thì trẻ làm theo thế ấy.
– Được dạy lồng ghép vào các môn học. Mỗi ngày học sinh đã có thói quen
nhặt rác trước giờ vào học.
– Cùng với Đoàn, Đội tham gia ngày chủ nhật xanh.
Bên cạnh những thuận lợi tôi vừa nêu vẫn còn một số khó khăn sau:
Ở trường việc hướng dẫn các em thực hiện vệ sinh lớp học còn khó khăn do cha mẹ học sinh cứ nói các em còn nhỏ chưa làm được việc. Đa số gia đình phụ huynh đi làm ăn xa, kinh tế không đồng đều, phần lớn ở với ông bà nên được cưng chiều; không cho con, cháu mình làm gì dù là trực nhật lớp.
Để việc dạy lồng ghép giáo dục môi trường vào các môn học đạt hiệu quả cao. Bản thân tôi thiết nghĩ là một giáo viên tôi phải thực hiện nghiêm túc việc soạn giảng, đưa nội dung giáo dục môi trường lồng ghép vào các môn học song song với việc tổ chức các hoạt động, kết hợp với các giáo viên bộ môn khác để hình thành kỹ năng bảo vệ môi trường tương ứng. Đồng thời phối kết hợp tốt với các lực lượng khác để học sinh được tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm. Vì vậy, tôi đã chọn những biện pháp lồng ghép bảo vệ môi trường cho các tiết dạy cũng như giáo dục.
1/ Sử dụng một số phương pháp dạy học: * Phương pháp quan sát và hỏi đáp:
Kỹ năng quan sát rất cần thiết cho học sinh khi thực hiện học về bảo vệ môi trường: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát thực tế về mô trường xung quang các em như ở nhà, ở nơi khu phố, nơi công cộng, chúng tôi Sử dụng phương pháp hỏi đáp kết hợp với quan sát sẽ giúp các em phân biệt được tại sao phải bảo vệ môi trường.
Phương pháp này giúp tôi tổng hợp kết quả thực hiện, kiểm tra, đối chiếu kết quả đạt được để từ đó kịp thời tìm ra biện pháp giúp đỡ các em hiệu quả hơn.
Khi học sinh biết bảo vệ môi trường, thấy rác là nhặt, giữ gìn môi trườ ng
2. Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn: a/ Xây dựng kế hoạch cá nhân:
trong sạch tôi kịp thời khen ngợi, kích thích sự phấn đấu của học sinh.
– Xây dựng kế hoạch thực hiện là một trong các biện pháp quan trọng, kế hoạch thể hiện nội dung, mục đích, phương pháp tiến hành mọi hoạt động. Do đó công việc thực hiện trong thời gian dài thì càng phải có kế hoạch thực hiện thật cụ thể và chi tiết, nếu chúng ta không có kế hoạch thực hiện thì sẽ gặp khó khăn trong quá trình thực hiện trong việc định hướng, tổ chức các hoạt động và không thu được kết quả như mong muốn. Vì thế chúng ta muốn thực hiện một việc gì thì chúng ta cũng cần phải vạch ra kế hoạch thực hiện cụ thể, muốn dạy tốt thì phải có kế hoạch dạy học, muốn làm công tác chủ nhiệm thì trước hết phải xây dựng tốt kế hoạch chủ nhiệm…cho nên muốn thực hiện tốt công tác dạy lồng ghép giáo dục môi trường cho học sinh thì bản thân người giáo viên phải có kế hoạch định hướng giáo dục môi trường. Kế hoạch càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu thì sẽ giúp chúng ta thực hiện một cách khoa học, đồng bộ và hiệu quả.
– Để thực hiện giáo dục môi trường cho học sinh theo đúng tinh thần chỉ đạo của ngành, trước hết bản thântôi đã nghiên cứu kế hoạch chỉ đạo của nhà trường
căn cứ vào chương trình dạy học từ đó lập kế hoạch thực hiện công tác giáo dục môi trường theo mẫu sau:
– Với việc lập kế hoạch này giúp tôi thực hiện tốt công tác giáo dục môi trường cho học sinh một cách khoa học và hiệu quả bởi vì:
– Kế hoạch trên thể hiện rõ các nội dung giáo dục môi trường tích hợp qua
các môn học cụ thể trong từng tuần là Nội dung tích hợp GDBVMT” (của kế hoạch). Đồng thời thể hiện được kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp song song với việc giáo dục lồng ghép qua các bài học trong tuần ” Tổ chức các hoạt động NGLL” (của kế hoạch).
– Dựa vào ” Nội dung tích hợp GDBVMT” (của kế hoạch): giúp tôi thực hiện tốt việc soạn giảng thể hiện qua từng tiết cụ thể trong tuần: từ việc để ra mục tiêu, nội dung giáo dục đưa vào thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp.
Học sinh tiểu học của chúng ta còn nhỏ, rất hiếu động các em học thì tiếp thu rất nhanh nhưng cũng chóng quên. Mà giáo dục môi trường lồng ghép qua các tiết học chỉ là giáo dục tư tưởng cho các em, muốn các em có các hành vi, thói quen bảo vệ môi trường thì chúng ta phải tổ chức được các hoạt động để các em được tham gia trực tiếp vào các hoạt động bảo vệ môi trường. Bởi vì, như ông cha ngày xưa đã đúc kết: “Học thì phải đi đôi với hành”, “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Do đó giáo dục môi trường qua các tiết học muốn đạt hiệu quả cao thì tôi luôn chú trọng lên kế hoạch các hoạt động ngoài giờ lên lớp ” Tổ chức các hoạt động NGLL” (của kế hoạch). Dựa vào kế hoạch này, tôi đã thiết kế các hoạt động cụ thể (thể hiện qua kế hoạch chủ nhiệm tháng và cụ thể hóa qua nội dung tiết sinh hoạt tập thể hàng tuần) để các em được tham gia và thể hiện các việc làm bảo vệ môi trường tương ứng với nội dung mà tôi đã giáo dục tư tưởng cho các em thông qua các
tiết dạy hàng tuần.
Với việc lập kế hoạch trên còn giúp tôi chủ động hơn trong việc phối kết hợp giáo dục môi trường với các bộ phận trong nhà trường.
Ví dụ : Tuần … tôi đã lâp kế hoạch thực hiện giáo dục môi trường cụ thể như sau:
Cách thực hiện:
Tập đọc
Bài: Nắng phươngNam
Chính tả
Bài: Chiều trên sông Hương
Đạo đức: Tích cực tham gia việc lớp, việc trường
– Giáo dục HS có ý thức yêu quý cảnh quan môi trường của quê hương
– HS yêu cảnh đẹp thiên nhiên trên đất nước ta, từ đó thêm yêu quý môi trường xung quanh, có ý thức BVMT.
Học sinh ý thức trong việc giữ vệ sinh trường lớp.
Khai thác trực tiếp nội dung
Khai thác trực tiếp nội dung bài
1/ Sưu tầm -vẽ tranh về cảnh đẹp của quê hương.
2/ Lao động chủ nhật xanh- vệ sinh đường làng ngõ xóm sạch đẹp.
3/Vệ sinh, trường lớp sạch đẹp- chăm sóc cây xanh.
Nhó nhanh. Để đưa nội dung giáo dục môi trường lồng ghép vào một bài học cụ thể tôi đã tiến hành như sau:
– Soạn giảng:
+ Đối chiếu kế hoạch giáo dục môi trường với chương trình dạy học của tuần, xác định nội dung giáo dục môi trường thể hiện các bài trong tuần.
+ Nghiên cứu thiết kế đưa vào hoạt động của bài giảng cho phù hợp. Cụ thể:
. Xác định mục tiêu giáo dục, mức độ tích hợp.
. Xác định đưa nội dung giáo dục vào hoạt động phù hợp nhất.
– Xây dựng hành vi tương ứng nội dung giáo dục: Hệ thống trong tuần có
các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường nào được lồng ghép trong tuần. từ đó lên kế hoạch chủ nhiệm xây dựng, tổ chức các hoạt động để các em tham gia với ý nghĩa bảo vệ môi trường ở lĩnh vực tương ứng với nội dung giáo dục trong tuần.
* Ví dụ: Phân môn Tập đọc:
Khi dạy bài: Nắng phương Nam
– Mục tiêu: Giáo dục học sinh ý thức yêu quý cảnh quan môi trường của quê hương miềnNam.
– Xác định mức độ tích hợp (khai thác trực tiếp nội dung bài).
– Lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường ở phần tìm hiểu bài. GV sử dụng phương pháp quan sát và hỏi đáp.
– GV hỏi Vì sao các bạn chọn cành mai làm quà tết cho Vân?
(HS trả lời, GV sửa chữa và kết luận: từ đó cho học sinh thấy được Hoa mai là loại hoa tiêu biểu cho miềnNamvào dịp Tết là nét đẹp đặc trưng của quê hương miền Nam)
– Học sinh trả lời, GV kết luận: Các em phải biết bảo vệ bằng cách trồng, chăm sóc thường xuyên để mai vàng nở rộ làm cho quê hương càng đẹp hơn.
Sau khi xây dựng kế hoạch của tuần 12 ngoài việc chủ động đưa nội dung
giáo dục môi trường vào soạn giảng qua từng bài cụ thể (như kế hoạch đã đề ra), tôi đã chủ động lên kế hoạch chủ nhiệm trong tuần cho học sinh thể hiện các hoạt động bảo vệ môi trường trong tuần mà tôi đã lên ở kế hoạch ở cột “Tổ chức các hoạt động NGLL”. Bởi vì giáo dục ý thức phải đi đôi với việc xây dựng các hành vi bảo vệ môi trường tương ứng có như thế các em mới nắm chắc, hiểu kỹ và làm tốt từ đó mới hình thành cho các em các kỹ năng sống một cách tự nhiên và sát thực tế.
Ví dụ :
+ Đối với môn Đạo đức, tôi luôn giáo dục các em biết giữ vệ sinh trường, lớp. Tôi lên kế hoạch phân công các tổ vệ sinh lớp, nhặt rác và bảo vệ khu vực lớp theo sự phân công của Đội. Chỉ định giao việc cho em Lớp Phó phụ trách lao động thường xuyên theo dõi và nhắc nhở các tổ, cá nhân. Vệ sinh trong và ngoài lớp học, nhặt rác sân trường, tưới cây xanh trong và ngoài lớp, nhổ cỏ ở các bồn hoa của trường,… Các tổ trưởng sẽ báo cho Lớp phó lao động. Tiết sau Lớp Phó phụ trách lao động sẽ báo cáo kết quả cho giáo viên chủ nhiệm và trước lớp trong suốt một tuần.
b/ Tăng cường giáo dục tư tưởng, ý thức cho học sinh về bảo vệ môi trường
+ Tích cựcdự lễ chào cờ đầu tuần để nắm được kế hoạch của nhà trường, của Cô tổng phụ trách Đội cùng với các anh chị và các bạn tham gia tốt các ngày Chủ nhật xanh, dọn dẹp nhà ở sạch sẽ,…
b.1/ Thông qua các tiết dạy của các môn học trong chương trình:
Muốn có hành động đúng thì tư tưởng phải thông, phải hiểu rõ vấn đề đó. Khi các em đã hiểu như thế nào là bảo vệ môi trường và bảo vệ môi trường là như thế nào? Thì các em mới có hành động, hành vi đúng trong việc Bảo vệ môi trường. Vì thế trước hết tôi chú trọng giáo dục tư tưởng cho các em thông qua các hoạt động sau :
Dựa vào kế hoạch trên tôi đã đưa nội dung giáo dục môi trường lồng ghép qua từng bài dạy cụ thể theo quy định của ngành.
Tuy nhiên để việc giáo dục đạt hiệu quả mà không ảnh hưởng đến nội dung các tiết học thì tôi đã đưa nội dung giáo dục môi trường vào các hoạt động dạy học phù hợp. Có như thế việc giáo dục diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, giúp các em hiểu sâu và Phân môn Chính tả:
Khi dạy bài Chiều trên sông Hương
– Mục tiêu: HS yêu cảnh đẹp thiên nhiên trên đất nước ta, từ đó thêm yêu quý môi trường xung quanh, có ý thức BVMT.
– Xác định mức độ tích hợp (Khai thác trực tiếp nội dung bài)
– Lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường ở phần tìm hiểu nội dung. Giáo viên sử dụng phương pháp hỏi đáp.
– Tác giả tả những hình ảnh và âm thanh nào trong dòng sông Hương?
– Em có cảm nhận và cần làm gì qua các hình ảnh và âm thanh đó?
Khi dạy bài: Nói, viết về cảnh đẹp đất nước
– Mục tiêu: GV giáo dục tình cảm yêu mến cảnh đẹp của thiên nhiên và môi trường trên đất nước ta.
– Xác định mức độ tích hợp (Khai thác trực tiếp)
– Lồng ghép ở hoạt động : Tìm hiểu bài.
+ Giáo dục ý thức cho học sinh:
. Yêu cầu học sinh sưu tần các tranh về cảnh đẹp của quê hương.
. Yêu cầu học sinh quan sát các bức tranh mà mình đã sưu tầm, dựa theo gợi ý để kể cho nhau nghe, sau đó sẽ viết thành đoạn văn ngắn.
. Cũng cố, Hỏi: Em có yêu thích các cảnh đẹp của quê hương không? Em làm gì để quê hương luôn tươi đẹp? (Học sinh trả lời và nhắc nhở học sinh phải biết bảo vệ các cảnh đẹp của quê hương)
* Qua các tiết học trên tôi đã giáo dục cho các em yêu thích các cảnh đẹp của quê hương từ đó biết bảo vệ cảnh đẹp môi trường sống.
* Song song với việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sống tôi chú trọng Xây dựng hình thành hành vi bảo vệ môi trường tương ứng với bài học cho các em trong tuần bằng cách:
– Lên kế hoạch tổ chức các hoạt động để học sinh tham gia bảo vệ môi trường. (thể hiện ở tiết soạn Sinh Hoạt tập thể), cụ thể:
+ Phối hợp với phụ huynh nhắc nhở học sinh trồng chăm sóc cây trong vườn nhà (chú ý chăm cây cảnh).
+ Duy trì trồng chăm sóc cây xanh ở khuôn viên trường (kể cả cây mai tại vườn trường không do lớp phụ trách.)
+ Vệ sinh trang trí lớp xanh, sạch, đẹp thường xuyên.
+ Sử dụng hợp lý, bảo vệ các nguồn nước: nước giếng, sông, suối..
.Tổ chức cho học sinh thực hiện: Triển khai hướng dẫn học sinh thực hiện thường xuyên (phối hợp với phụ huynh và Đội để nắm bắt tình hình thực hiện của học sinh).
b.2.1. Xây dựng kế hoạch:
Trong kế hoạch chủ nhiệm tôi luôn chú trọng đưa nội dung giáo dục môi trường vào kế hoạch tuần phù hợp với chủ điểm từng tháng. Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì bản thân tôi phải chú trọng từ việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm tháng, tuần từ đó tổ chức các hoạt động phù hợp. Tôi đã tiến hành như sau.
– Xây dựng kế hoạch tháng: Căn cứ vào kế hoạch dạy học cá nhân, căn cứ vào kế hoạch giáo dục môi trường của nhà trường, Đội, Từ đó xây dựng các hoạt động thực hiện trong tháng cụ thể.
– Xây dựng kế hoạch tuần: (tiết sinh hoạt lớp hàng tuần) cụ thể hóa kế
hoạch tháng đồng thời căn cứ vào kế hoạch tuần của Đôi (triển khai trước chào cờ), căn cứ vào nội dung giáo dục của bài dạy trong tuần.
– Triển khai thực hiện: Triển khai kế hoạch tuần qua tiết Sinh hoạt lớp (sau khi đánh giá hoạt động tuàn trước), tổ chức thực hiện trong tuần (chú trọng vai trò tập thể lớp và phối hợp tốt với các bộ phận trong – ngoài nhà trường và đặc biệt là cha mẹ học sinh).
b.2.2/Tăng cường công tác tuyên tuyền:
– Đánh giá các hoạt động trong tuần trước khi triển khai nội dung tuần tới (chú trọng các nội dung môi trường).
Tôi cung cấp một số tranh ảnh bảo vệ môi trường sống, nhắc nhở học sinh sưu tầm. Tôi sẽ chọn một số tranh ảnh đẹp đúng nội dung Bảo vệ môi trường gắn vào bảng tin của lớp để tuyên dương những học sinh đó.
– Bảng thông tin của nhà trường, giáo viên xem thường xuyên để nhắc nhở học sinh nâng cao nhận thức.
– Tôi kịp thời tuyên truyền giáo dục và vận động học sinh hưởng ứng thực hiện tốt những ngày như:
+. Ngày 5/6 là ngày lịch sử môi trường thế giới: tuyên truyền vận động và cùng mọi người thực hiện “Vệ sinh, giữ gìn đường phố xanh, sạch, đẹp”.
+ Ngày 1/3 là tháng hành động vì môi trường: tuyên truyền vận động và cùng mọi người thực hiện “Trồng và chăm sóc cây xanh”.
+ Ngày 25/4 là ngày tuần lễ nước sạch: tuyên truyền vận động và cùng mọi người thực hiện “Sử dụng tiết kiệm điện, nước; bảo vệ nguồn nước”.
– Cách thực hiện: Thông qua tiết sinh hoạt tập thể tuyên truyền bằng hình ảnh, ý nghĩa để học sinh hiểu rõ vì sao có các ngày trên.
– Nhắc học sinh về vận động các bạn, gia đình, khu phố cùng hưởng ứng, thực hiện.
b.2.3. Thực hiện tốt các nội dung giáo dục khác:
– Báo cáo kết quả thực hiện hàng tuần ở tiết sinh hoạt lớp tiếp theo.
c. Thường xuyên tổ chức cho học sinh thể hiện hành vi bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Hoạt động trải nghiệm
c.1. Phân công các luân phiên trực nhật lớp: trong lớp có 3 tổ cứ mỗi tổ tôi chia thành 4 nhóm;
Ngoài việc lập kế hoạch xây dựng hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường tương ứng với nội dung lồng ghép giáo dục qua bài học theo tuần để hình thành hành vi cho các em . Thì tôi thường xuyên tổ chức cho học sinh thể hiện bảo vệ môi trường sống của mình qua các hoạt động cụ thể sau:
Nhóm 1 : Quét dọn, lau chùi vệ sinh trong lớp.
Nhóm 2 : Tưới cây, hái lá khô ở những chậu kiểng trong lớp và trước lớp của mình.
Nhóm 3: Quét dọn hành lang và cầu thang.
Nhóm 4 : Lau bảng và bàn ghế, sắp xếp ngay ngắn.
(2 tổ còn lại quét sân trường chia theo khu vực do Đội đã phân công).
Công việc như trên, tôi đã phân chia khu vực nhất định, hướng dẫn cho các tổ mỗi tuần thay đổi công việc cho nhau. Cuối tuần tiết sinh hoạt tập thể, các tổ trưởng báo cáo công việc trực nhật trong tuần ấy. Lớp phó phụ trách lao động cũng theo dõi các nhóm báo xem có đúng như thế không. Những nhóm, tổ trực nhật tốt được tuyên dương và được thưởng thì càng phấn khởi, còn những nhóm, tổ trực nhật chưa tốt thì đã cố gắng đạt được như ban của bạn. Từ đó HS tôi biết tự giác trực nhật, không đùn đẩy cho nhau và ý thức cao trong việc giữ vệ sinh trường lớp…
* Kế hoạch trên tôi đã lập vào sổ chủ nhiệm theo dõi hàng tháng, lên kế hoạch hàng tuần thể hiện qua tiết sinh hoạt tập thể, ghi những ưu, khuyết điểm của HS từng tổ từ đó khen thưởng, động viên, khích lệ học sinh kịp thời.
c.2. Nhắc nhở, rèn cho học sinh có các thói quen tốt:
* Một số hình ảnh thể hiện các hoạt động học sinh tham gia bảo vệ môi trường:
Tôi luôn nhắc nhở học sinh thấy rác là nhặt ngay và bỏ vào thùng rác (bất kỳ ở đâu).
Thường ngày trước khi lau bảng các em cần phải giặt khăn sạch và lấy nước giặt khăn tưới cây của lớp tự trồng cho cây xanh tốt, đẹp hơn mà không mất tiền mua.
Ở lớp, hàng ngày uống nước chỉ rót vừa đủ uống, không được lấy nhiều uống không hết đổ lung tung làm dơ bẩn nền lớp, phí tiền nước mà mình đã mua.
Khi khi dùng hoặc ra khỏi phòng là phải tắt các thiết bị sử dụng điện.
Đi tiêu, đi tiểu đúng nơi quy định và rửa tay sạch sẽ sau khi đi vệ sinh.
Sắp xếp chỗ học, chỗ ngủ ngăn nắp. Phối hợp với phụ huynh hướng dẫn các em tự làm việc nhà vừa sức với học sinh như: quét-lau nhà, sắp xếp đồ trong nhà gọn chỗ ăn, ngủ, học ngăn nắp, trồng-chăm sóc cây xanh…
Vận động học sinh tích cực tham gia phong trào “Kế hoạch nhỏ”, “Chủ nhật xanh”, “Thứ bảy tình nguyện”:
Tôi luôn vận động học sinh tích cực tham gia các phong trào của Đội phát động. Cứ mỗi phong trào kế hoạch nhỏ phát động tôi luôn phân tích cho học sinh thấy mục đích, ý nghĩa của việc làm để các em hiểu và thục hiện một cách có ý thức và tích cực hơn. Cụ thể trong năm tôi đã hướng dẫn học sinh tham gia tốt phong trào “Kế hoạch nhỏ” sau:
– Kế hoạch: “Thu gom giấy vụ”
– Kế hoạch: “Thu gom lon bia”
+ Học sinh hiểu: Thu gom giấy vụn vừa làm sạch môi trường, đồng thời bán lấy tiền để mua thùng rác làm cho môi trường ngày một sạch đẹp hơn.
– Kế hoạch: “Tặng sách, vở, áo trắng tặng bạn”: Sách cũ, áo cũ không dùng chúng ta tặng giúp các bạn nghèo để các bạn có sách, vở, áo đi học.
c.4. Phát huy tối đa sức mạnh của tập thể lớp:
– Hướng dẫn học sinh tham gia tốt “Thứ bảy tình nguyện”; “Chủ nhật xanh”: Học sinh hiểu được việc làm đấy làm cho trường, lớp, đường phố sạch đẹp.
Như ông cha ta ngày xưa đã nói: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Để phát huy sức mạnh của cả lớp tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:
– Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lớp gương mẫu, năng nổ, nhiệt tình. Đây là lực lượng hỗ trợ giáo viên hướng dẫn lớp tham gia các hoạt động trong nhà trường.
– Chú trọng xây dựng gương điển hình, khen thưởng kịp thời và lưu gương điển hình có chú thích việc làm tốt cụ thể qua bảng thông tin lớp để cả lớp noi theo.
d. Thực hiện tốt phong trào: “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
– Các hoạt động của lớp đều được công khai trước phụ huynh, học sinh có sự thống nhất cao và sau đó mới tổ chức thực hiện (có phân công, giao trách nhiệm cụ thể cho mỗi thành viên cá nhân học sinh), có nhận xét, đánh giá rút kinh nghiệm cụ thể. Với cách thực hiện trên các em thấy rằng bản thân mình rất quan trọng, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc được giao.
Để giáo dục học sinh thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường sống thì việc hướng dẫn học sinh thực hiện tốt phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT là không thể tách rời. Bởi vì nội dung thứ nhất của chỉ thị 40 là “Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn.” Cụ thể:
– Bảo đảm trường an toàn, sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát và ngày càng đẹp hơn, lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế hợp lứa tuổi học sinh.
– Tổ chức để học sinh trồng cây vào dịp đầu xuân và chăm sóc cây thường xuyên.
– Có đủ nhà vệ sinh được đặt ở vị trí phù hợp với cảnh quan trường học, được giữ vệ sinh sạch sẽ.
– Học sinh tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ vệ sinh các công trình công cộng, nhà trường, lớp học, cá nhân”
Để thực hiện tốt các nội dung trên tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:-
Hướng dẫn học sinh trang trí lớp học bằng cây xanh (cây phát tài, trầu bà,
các cây cảnh khác…), các cây xanh này do các em đưa từ nhà đi. Hướng dẫn, phân công các em chăm sóc về sinh sạch sẽ hàng ngày.
– Do kinh phí tu bổ cơ sở vật chất của nhà trường có hạn do đó hàng năm tôi tích cực cùng với nhà trường vận động cha mẹ học sinh hỗ trợ kinh phí mua trang bị bàn ghế 2 chỗ ngồi cho học sinh, tu bổ thường xuyên hệ thống bóng điện, bên cạnh đó hướng dẫn học sinh sử dụng vệ sinh bàn ghế, lớp học thường xuyên đảm bảo lớp học luôn đủ ánh sáng và sạch sẽ.
– Hàng năm tôi luôn vận động phụ huynh, học sinh trồng cây xanh trong khuôn viên nhà trường, hướng dẫn, phân công cho học sinh chăm sóc cây xanh (tưới nước, nhổ cỏ) thường xuyên trong khuôn viên lớp được phân công phụ trách.
– Hướng dẫn học sinh đi tiêu tiểu đưng nơi quy định, rửa tay sạch sẽ sau khi đi địa tiện.
e. Công tác phối kết hợp các bộ phận khác: e.1/ Phối hợp với nhà trường và địa phương:
– Giáo dục thường xuyên ý thức bảo vệ, giữ gìn vệ sinh môi trường sống: nhà ở, trường học và các nơi công cộng mà em đến…
Thực hiện theo khẩu hiệu “Hành động ngay hôm nay, an toàn cho tương lai, Hãy làm cho bầu không khí sạch hơn”. Hằng năm, đến ngày 1 tháng 3: Tháng hành động vì môi trường của Đoàn thanh niên; ngày 5 tháng 6 : ngày Lịch sử Môi trường thế giới.Tôi thường nhắc nhở học sinh phải biết chung tay góp sức làm cho môi trường Xanh – Sạch – Đẹp.
e.2/ Phối hợp với Đoàn Đội TNTPHCM:
Đoàn – Đội là nồng cốt của nhà trường phụ trách các lớp thực hiện tốt các phong trào bề nổi của nhà trường nên lúc nào tôi cũng phối hợp chặt chẽ, nắm bắt thông tin kịp thời để giáo dục các em. Cụ thể:
– Nắm kế hoạch của Đội – Đoàn, dự chào cờ hàng tuần để lên kế hoạch chủ nhiệm tháng, tuần và hướng dẫn học sinh cùng Liên đội thực hiện tốt các phong trào do Đoàn -Đội phát động.
– Tôi luôn kết hợp với cô Tổng phụ trách nhắc nhở học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ vệ sinh sân trường. Nhất là khuôn viên của lớp 3A được phân công. Vào những ngày Đội phát động phong trào ngày Thứ bảy tình nguyện, Chủ nhật Xanh, học sinh lớp tôi tham gia tốt gần 100%, Cô Tổng phụ trách phát động phong trào Vẽ tranh về Bảo vệ môi trường, cả lớp vẽ rất đẹp và đúng với chủ điểm.
– Tôi luôn nhắc nhở HS lập kế hoạch nhỏ bằng cách thu gom giấy vụn ở trong lớp và sân trường, gia đình, tôi nhắc học sinh phân loại rác những mảnh giấy nào sử dụng làm nháp được thì học sinh để lại, những mảnh nào nhỏ, nhàu nát cho vào bao rác của lớp, hàng tháng ngoài việc nộp vượt quá chỉ tiêu Đội giao. Lớp tôi luôn được khen thưởng, tuyên dương trước cờ vào tiết Sinh hoạt đầu tuần.
Tôi luôn giáo dục, nhắc nhở HS lớp tôi giúp bác lao công bằng cách là đổ rác gọn vào thùng, thấy mảnh rác nào ở sân trường là nhặt ngay. Tôi thường nhắc học sinh phân loại rác, mảnh giấy nào còn sạch thì để làm nháp, mảnh giấy nào nhàu nát thì mới gom làm kế hoạch nhỏ cho lớp gây quỹ. Khu vực nhà vệ sinh, tôi luôn giáo dục cho các em đi tiểu tiện đúng nơi quy định, dội nước sau khi tiểu tiện xong phải dội nước, rửa tay. Công việc này muốn có hiệu quả thường ngày tôi phân công từng cặp học sinh kiểm tra lẫn nhau.
Phối hợp tốt với giáo viên phụ trách thư viện nắm lịch đọc sách cụ thể (vào ngày thứ 4 hàng tuần, mỗi tuần mỗi tiết học đọc nũa). Thường xuyên nhắc nhở HS tích cực đọc truyện, khi đọc biết giữ gìn cẩn thận, lấy sách truyện ở đâu thì phải cất ngay chỗ ấy, đúng thứ tự như ban đầu, giữ sạch sẽ phòng thư viện, không xả rác bừa bãi. Để học sinh thực hiện tốt buổi đọc truyện hàng tuần tôi đã tiến hành như sau:
– Báo cụ thể số học sinh, tình hình, cá tính của học sinh trong lớp cho cán bộ thư viện.
– Cùng cán bộ thư viện hướng dẫn học sinh nắm nội quy phòng thư viện.
– Giữ gìn vệ sinh phòng đọc sạch sẽ. Cùng cô giáo vệ sinh phòng đọc sau giờ đọc truyện.
e.5/ Nhân viên bán trú: (Nhân viên nấu ăn- bán trú)
– Trao đổi với cán bộ thư viện thường xuyên để nắm bắt tình hình buổi đọc của học sinh để nhắc nhở điều chỉnh các sai sót của các em.
Thường xuyên liên lạc với nhà bếp để nắm bắt tình hình hoạt động bán trú của học sinh, từ đó phối hợp giáo dục học sinh thực hiện tốt. Cụ thể:
+ Đến giờ ăn trưa tôi theo sát các em, tôi phối hợp chặt chẽ với các cô nhất là cô phụ trách lớp của mình, tôi trao đổi mỗi ngày để biết tình hình của lớp mình để giáo dục các em kịp thời. Bên cạnh đó tôi cũng bầu một em trưởng nhóm bán trú theo dõi các bạn trong lớp. Đầu giờ chiều, em trưởng nhóm báo cáo lại cho tôi biết việc ăn, ngủ, vệ sinh,… của các bạn.Vậy là lớp của tôi chấp hành nội quy của nhà bếp rất tốt. Luôn luôn được Ban giám hiệu và các cô bảo mẫu tuyên dương.
+ Phải biết rửa tay trước khi ăn, trong giờ ăn không nói chuyện, không đùa giỡn. Sau khi ăn xong phải dọn dẹp phụ các cô bảo mẫu xuống khu vực rửa.,chải răng sạch sẽ, bàn chải, kem đánh răng phơi khô và cất đúng nơi.
e.6. Phối hợp với phụ huynh học sinh:
+ Phòng ngủ: Phải biết sắp xếp gối, mền, chiếu ngăn nắp, gọn gàng đúng vị trí. Ngày cuối tuần tất cả các em đều đưa mền, chiếu về giặt giũ.
Liên lạc, phối hợp với phụ huynh học sinh để tạo cơ hội cho các em tham gia làm việc nhà giúp bố mẹ như: vệ sinh nhà cửa, trồng chăm sóc cây, biết sử dụng bảo vệ các nguồn năng lượng.
Hàng năm tôi luôn vận động phụ huynh học sinh thực hiện tốt công tác xã hội hóa do nhà trường phát động. Trước hết tôi làm công tác tư tưởng với phụ huynh học sinh ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm để phụ huynh hiểu và tự nguyện tham gia cùng nhà trường tham gia xây dựng nhà trường luôn xanh-sạch-đẹp. cụ thể:
– Vận động phụ huynh nhắc nhở con em làm việc nhà, việc trường mang ý nghĩa bảo vệ môi trường sống.
g. Tổ chức một số trò chơi ngoài giờ giúp học sinh giải trí sau một ngày, tuần học căng thẳng từ đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sống cho các em: hoạt động trải nghiệm:
– Vận động phụ huynh học sinh trồng cây xanh trong khuôn viên nhà trường, trang trí cây xanh trong lớp học.
Các trò chơi trên có thể tổ chức để kiểm tra bài cũ hoặc củng cố bài. (Tuy nhiên hệ thống câu hỏi phù hợp kiến thức bài dạy).
g. 1/ Chiếc vòng quay may mắn a. Mục đích:
Tôi đã vận dụng một số trò chơi như sau:
b. Chuẩn bị:
Góp phần hình thành ở HS lối sống chia sẻ với bạn bè, thân thiện với môi trường; Tạo điều kiện cho HS tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí.
+ GV: Chuẩn bị vòng quay.
+ Học sinh:
– Quyên góp những đồ chơi để làm quà tặng cho những bạn trả lời đúng câu hỏi.
Bước 1: Nắm luật chơi:
– Gói quà tặng
GV: Xếp HS ngồi thành hình cánh cung trước vòng quay. Phổ biến luật chơi cho HS:
* GV sẽ đưa ra những câu hỏi có nội dung GDMT cho toàn thể HS tham gia trò chơi.
* HS trả lời câu hỏi của GV bằng cách giơ tay, ai trả lời đúng sẽ được lên quay ” Chiếc vòng quay may mắn” để nhận phần thưởng.
HS chơi nháp
– Chuẩn bị tốt các vật liệu cho trò chơi.
– GV nên chuẩn bị nhiều mảnh giấy nhỏ có ghi trước số quà tặng tương ứng để sau khi HS quay được ô đó rồi thì ta bổ sung mảnh giấy mới vào ô đó.
– Trong ô có 2 quà tặng thì ta có thể ghi một quà tặng là một tràng vỗ tay của các bạn.
– Quà tặng mà các em quyên góp có thể là búp bê, sách, truyện, tranh, ảnh, trò chơi…
– Quà tặng có thể gói lại kính đáo để kích thích tính tò mò của các em.
– Gói quà nên bằng giấy tiết kiệm, không được mua giấy gói quà mới, lãng phí.
– Có thể thay vòng quay bằng cây cảnh có gắn phiếu quà để bắt thăm.
– Những câu hỏi GV đưa ra cho HS có thể sưu tầm trong những cuốn sách câu đố dân gian Việt Nam, đố vui… hoặc GV có thể đưa ra một số câu hỏi suy luận để các em suy nghĩ: Tại sao chúng ta phải bảo vệ cây xanh, tại sao chúng ta phải bảo vệ các loại động vật quý hiếm…
v Ví dụ một số câu hỏi:
Câu 1 : Con gì moi đất bằng chân
Có mai, có yếm, có thân không đầu
Hai càng, tám cẳng bò mau
(Con cua)
Mùa hè nấu với nắm rau, ngọt lừ
Câu 2 : Quả gì nho nhỏ
Chín đỏ như hoa
Tươi đẹp vườn nhà
(Quả ớt)
Mà cay xè lưỡi
Câu 3 : Lấp la lấp lánh
Treo tít trời cao
Ban đêm lung linh
Ban ngày biến mất
(Sao trên trời)
Là gì?
Câu 4 : Da cóc mà bọc trứng gà
Bổ ra thơm phức cả nhà muốn ăn
(Quả mít)
Là quả gì?
: Em hãy hát một bài có từ ” Trái đất “
Câu 6 : Em hãy kể tên một số việc làm nhằm góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường?
Câu 7 : Em có biết ngày Môi trường Thế giới là ngày nào không? Ngày đó có ý nghĩa gì?
g.2/Trò chơi luyện trí thông minh với nội dung về môi trường thiên nhiên +Mục đích:
Câu 8 : Em hãy kể tên một số loài động vật, thực vật quý hiếm mà em biết?
– Hiểu biết một số khái niệm về môi trường xung quanh.
– Rèn luyện kỹ năng quan sát, khai thác thông tin,định nghĩa các khái niệm, kỹ năng so sánh và đánh giá, kỹ năng đề ra câu hỏi, hình thành và phát triển những nhận định, những kết luận của HS.
– Góp phần nâng cao lòng yêu thiên nhiên, yêu môi trường cho HS.
. Bước 1: GV giới thiệu chung về trò chơi . Bước 2:HS thực hiện trò chơi
+ Chuẩn bị: Tranh, bút màu, giấy A 4.
a. Trò chơi định nghĩa các khái niệm
GV: Đưa ra các câu đố đơn giản cho HS suy nghĩ. GV lưu ý HS rằng đây không phải là câu đố giải trí mà cần chú ý nội dung câu đố thường nêu lên những dấu hiệu chính của hiện tượng hay con vật.
HS: Vẽ lại hiện tượng hay con vật đó theo lời mô tả và tìm ra tên của hiện tượng hay con vật đó.
Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu đố là 7 phút. Các nhóm sẽ cử đại diện bốc câu hỏi cùng suy nghĩ, vẽ lên giấy và dán tranh lên bảng.
Câu 1 : Chân đỏ
Cổ dài
Nó mổ vào gót chân
Hãy chạy đi, đừng ngoái cổ lại.
( Con ngỗng)
Câu 2 : Đuôi chìa khóa
Mõm nhụy hoa
Trên người có hai hàng cúc.
Đó là con gì?
( Con lợn)
Câu 3 : Dậy từ sáng sớm
Hát vang trong sân
Đầu có cái mào
Đó là ai nhỉ?
( Con gà trốn
Câu 4 Mặt trời cháy bỏng
Cây cối nở hoa
Dưới đồng lúa chín
Đó là mùa gì?
( Mùa hè)
Câu 5 : Là con mèo lớn
Lông có sọc vằn
( Con hổ)
Câu 6 : Con thú nhỏ xíu
Hàm răng sắc nhọn
Mặc áo lông xám
Cặp mắt đen nhánh
Cái đuôi thật dài
Bước 3: Trao đổi, nhận xét, đánh giá
( Con chuột)
– GV nhận xét kết quả của các nhóm và khen thưởng nhóm xuất sắc nhất
phanThij thanh huyền @ 23:01 22/05/2023 Số lượt xem: 9840
Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Dục Bảo Vệ Môi Trường Cho Học Sinh Trong Một Số … trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!