Xu Hướng 5/2023 # Giảm Nghèo Đa Chiều Bền Vững: Thực Tiễn Và Định Hướng, Giải Pháp Cho Các Tỉnh Tây Bắc # Top 5 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Giảm Nghèo Đa Chiều Bền Vững: Thực Tiễn Và Định Hướng, Giải Pháp Cho Các Tỉnh Tây Bắc # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Giảm Nghèo Đa Chiều Bền Vững: Thực Tiễn Và Định Hướng, Giải Pháp Cho Các Tỉnh Tây Bắc được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hội thảo khoa học – thực tiễn “Giảm nghèo đa chiều bền vững: Thực tiễn và định hướng, giải pháp cho các tỉnh Tây Bắc”. (Ảnh: M.P)

Tham dự Hội thảo có các đồng chí: Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc; Hoàng Văn Chất, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La; Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; cùng gần 100 đại biểu đại điện các bộ, ban, ngành, các nhà khoa học, lãnh đạo các tỉnh Tây Bắc.

Các đồng chí: Nguyễn Văn Bình, Hoàng Văn Chất, Vũ Văn Phúc đồng chủ trì Hội thảo.

Phát biểu chỉ đạo Hội thảo, đồng chí Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta xác định giảm nghèo vùng Tây Bắc là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh của đất nước và đã có nhiều chủ trương, chính sách về xóa đói, giảm nghèo cho Vùng. Cho đến nay, công tác xóa đói, giảm nghèo trong vùng Tây Bắc đã thu được những kết quả rất tích cực và đáng ghi nhận; tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh, giai đoạn 2011-2015 bình quân giảm gần 4%/năm, từ 34,41% vào thời điểm cuối năm 2010 xuống còn 18,26% vào cuối năm 2014, và ở mức khoảng 15% vào cuối năm 2015. Tuy nhiên, Tây Bắc vẫn là vùng nghèo nhất trong cả nước. Đến năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới là 29,14%, cao gấp 2,95 lần tỷ lệ chung của cả nước. Chính vì vậy, việc làm rõ những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hạn chế, bất cập trong công tác giảm nghèo vùng Tây Bắc trong thời gian qua, nhất là trong giai đoạn 2011-2015 là hết sức cần thiết để rút kinh nghiệm cho cho việc triển khai Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.

Theo đồng chí Nguyễn Văn Bình, khái niệm giảm nghèo đa chiều được Liên hợp quốc đề cập chính thức trong tuyên bố vào tháng 6/2008. Theo đó, nghèo được đo lường không chỉ bằng nhóm tiêu chí thu nhập mà bằng cả nhóm tiêu chí “phi thu nhập” bao gồm khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường và thông tin. Cho đến nay, đã có trên 32 nước tiếp cận phương pháp nghèo đa chiều thay cho phương pháp tiếp cận nghèo đơn chiều. Có thể nói, phương pháp tiếp cận giảm nghèo đa chiều là cuộc đổi thay lớn trong quan điểm về công tác giảm nghèo. Đối với Việt Nam, khái niệm nghèo đa chiều được đề cập chính thức trong đường lối, chủ trương của Đảng từ năm 2013 tại Nghị quyết số 15-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Nghị quyết này đã đề ra nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, chú trọng đến việc làm, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội cho những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc ít người, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và một số dịch vụ xã hội cơ bản như khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, nước sạch, thông tin, truyền thông.

Đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu tại Hội thảo (Ảnh: M.P)

Tháng 9 năm 2015, tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc thông qua Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững, Việt Nam cam kết xóa bỏ tình trạng nghèo dưới mọi hình thức, không để bất cứ ai bị bỏ lại phía sau. Để thực hiện cam kết trước cộng đồng quốc tế, trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, Chính phủ Việt Nam đã chủ động đổi mới phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020. Trong bối cảnh đó, công tác giảm nghèo tại Tây Bắc đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi cần có những đổi mới mạnh mẽ về tư duy, về chính sách cũng như về phương pháp tổ chức thực hiện. Bởi vậy, Hội thảo này là hết sức cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn không chỉ cho Tây Bắc mà còn cho cả nước.

Với 76 tham luận được gửi đến Hội thảo, các diễn giả đã tập trung làm rõ hơn quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác giảm nghèo. Trong đó thống nhất xóa đói, giảm nghèo là định hướng lớn trong chủ trương xây dựng, phát triển đất nước của Đảng ta trong thực tế lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Làm rõ hơn những khía cạnh xung quanh khái niệm giảm nghèo đa chiều bền vững; những điểm mới, những vấn đề đặt ra trong khái niệm giảm nghèo đa chiều bền vững. Nghèo đa chiều bền vững dựa trên nền tảng phải bảo đảm nhu cầu mức sống tối thiểu của người nghèo, không chỉ về thu nhập mà bao gồm cả đáp ứng các nhu cầu về dịch vụ xã hội cơ bản.

Qua đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra của công tác xóa đói, giảm nghèo nói chung và ở Tây Bắc nói riêng những năm qua, nhiều đại biểu cho rằng, những vấn đề đặt ra đối với công tác xóa đói, giảm nghèo ở khu vực Tây Bắc trong thời gian tới cần quan tâm như: trình độ dân trí còn thấp, phong tục, tập quán canh tác còn lạc hậu, kinh tế thị trường chưa phát triển mạnh so với các vùng khác, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tỷ lệ nghèo và nguy cơ tái nghèo cao. Qua đó, để công tác xóa đói, giảm nghèo đa chiều bảo đảm tính bền vững, trong thời gian tới cần đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến để nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành hiểu được tiêu chí chuẩn nghèo đa chiều một cách chính xác để không bỏ sót đối tượng hộ nghèo. Chuyển đổi và nâng cao nhận thức của các hộ nghèo, phát huy tính tự lực, tự cường trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, tránh tâm lý ỷ lại vào Nhà nước.

Cần phân tích, đánh giá nhận diện và phân loại rõ từng đối tượng người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo trên cơ sở đó đề ra kế hoạch, giải pháp và tập trung ưu tiên có trọng tâm, trọng điểm. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các chính sách giảm nghèo theo tiêu chí mới, dựa vào đặc thù văn hoá, kinh tế, xã hội của các nhóm dân tộc khác nhau. Huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho Chương trình việc làm và giảm nghèo gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới. Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ ở cơ sở; khuyến khích phát triển các dịch vụ y tế, giáo dục, an sinh xã hội, đất ở, đất sản xuất, điện, nước… Thí điểm chủ trương xoá đói, giảm nghèo tại các địa phương có nhiều hộ nghèo.

Phát biểu tại Hội thảo, sau khi khát quát những thành tựu cũng như những thách thức, tồn tại về xoá đói giảm nghèo nói chung và vùng Tây Bắc nói riêng, đồng chí Vũ Văn Phúc cho rằng, giảm nghèo đa chiều là cách tiếp cận mới nhằm khắc phục hạn chế việc bỏ sót những đối tượng tuy không nghèo về thu nhập, nhưng lại nghèo về các khía cạnh khác. Thay vì chỉ xem xét nghèo theo thu nhập, những ai không được khám chữa bệnh, không được đến trường, không được tiếp thông tin cũng được xác định là nghèo. Cái nghèo không chỉ gắn liền với sự thiếu thốn thu nhập hay chi tiêu, mà còn là việc không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản khác của con người.

Với mục đích tác động tốt hơn, toàn diện hơn đến người nghèo, việc chuyển đổi đánh giá nghèo từ đơn chiều sang đa chiều nhằm giúp đảm bảo mức sống tối thiểu, đồng thời đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, từng bước giảm nghèo bền vững. Thông tin về tình trạng nghèo đa chiều cũng giúp theo dõi tiến trình giảm nghèo và đánh giá tác động của các nhóm chính sách giảm nghèo và phát triển xã hội qua thời gian giữa các vùng, các nhóm dân cư để điều chỉnh cho phù hợp… Đồng chí Vũ Văn Phúc cho biết, những nội dung của Hội thảo này sẽ được chắt lọc, xã hội hóa, vận dụng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần thiết thực vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu giảm nghèo đa chiều bền vững cho các tỉnh Tây Bắc nói riêng và của cả nước nói chung, đồng thời góp phần thiết thực vào việc triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng./.

Triển Khai Các Giải Pháp Hướng Tới Giảm Nghèo Bền Vững

Laocaitv.vn – Tỉnh Lào Cai đề ra mục tiêu phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh mỗi năm từ 4 – 5%. Trong đó, đối với các huyện nghèo, gồm: Bắc Hà, Mường Khương, Si Ma Cai, bình quân giảm 5,8%/năm; các huyện: Bát Xát, Sa Pa, Văn Bàn bình quân giảm 4,7%/năm; Tỷ lệ tái nghèo bình quân dưới 1%/năm, phấn đấu giảm trên 2.000 hộ cận nghèo/năm.

Trong tổ chức thực hiện, tỉnh Lào Cai chỉ đạo, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là: Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác giảm nghèo bền vững, thực hiện hợp liên ngành để thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững. Tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn ứng dụng khoa học tiến bộ trong sản xuất. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, Đề án, dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn với tạo việc làm cho lao động trên địa bàn; Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, thu hút lao động. Chú trọng thực hiện có hiệu quả hệ thống an sinh xã hội, trợ giúp kịp thời các hộ bị thiệt hại do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, hạn chế tái nghèo, phát sinh nghèo từ các nguyên nhân rủi ro gây nên. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả cơ chế, chính sách giảm nghèo để cải thiện điều kiện sống của người nghèo và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; Triển khai đầy đủ các hợp phần Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020; Tiếp tục rà soát, đánh giá lại các chủ trương, chính của Đảng, Nhà nước, của tỉnh về xóa đói, giảm nghèo, UBND tỉnh trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2018-2020 đối với 44 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%. Các huyện, thành phố xậy dựng nhiệm vụ cụ thể, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm của cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo; Rà soát, đánh giá các hộ nghèo, xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 50% trở lên; Xây dựng kế hoạch giảm nghèo hàng năm. Lồng ghép có hiệu quả nguồn vốn, huy động tối đa các nguồn lực xã hội hóa; Khai thác các tiềm năng thế mạnh của địa phương đầu tư cho phát triển, tăng nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo. Tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội ở 44 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%./.

Phương Liên

Giải Pháp Để Giảm Nghèo Bền Vững

Trong số báo 1556, ra ngày 27/9/2919, Báo Dân tộc và Phát triển đã phản ánh thực trạng giảm nghèo nhanh nhưng thiếu bền vững ở vùng DTTS và miền núi khi mà tỷ lệ nghèo phát sinh mỗi năm còn tương đối lớn. Đây rõ ràng là một nghịch lý, bởi ngân sách Trung ương đã chi hàng chục nghìn tỷ đồng để thực hiện các chương trình, dự án, đề án nhằm đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Nguyên nhân của nghịch lý này đã được các chuyên gia phân tích, làm rõ. Đặc biệt, tình trạng đầu tư, hỗ trợ dàn trải khiến nguồn lực vốn đã eo hẹp càng bị lãng phí hơn khiến mục tiêu giảm nghèo bền vững của các chương trình, chính sách tỏ ra “hụt hơi” trong thực tế đã được mổ xẻ rất nhiều trong các hội nghị, hội thảo.

Nhưng “gốc rễ” của vấn đề là ở khâu thiết kế chương trình, chính sách về giảm nghèo. Một điểm dễ nhận thấy nhất là ở hầu hết các chương trình, chính sách là đều tiếp cận ở quan điểm hỗ trợ để đồng bào DTTS thoát nghèo. Vì là hỗ trợ nên dẫn đến thực trạng việc thực hiện chính sách “có cũng được, không có cũng không sao”.

Những tồn tại, hạn chế trong các chương trình, chính sách về giảm nghèo đã được nhận diện từ lâu, nhất là hạn chế trong khâu thiết kế chính sách. Nhưng như chia sẻ của ông Ngô Trường Thi, Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ LĐTB&XH) thì chính sách là lâu dài, dù nhận diện được tồn tại, hạn chế cũng không thể sửa đổi, bổ sung trong ngày một ngày hai.

Như chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo DTTS theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg; được triển khai từ năm 2009. Số tiền hỗ trợ cho hộ nghèo không nhiều (80 nghìn đồng/nhân khẩu/hộ ở xã khu vực II, 100 nghìn đồng/nhân khẩu/hộ ở xã khu vực III) nên chỉ giải quyết được nhu cầu chi tiêu trước mắt của đồng bào DTTS, không tạo ra đột phá đề giảm nghèo. Hạn chế của chính sách này đã được nhận diện, nhưng phải gần 10 năm sau (bắt đầu từ 01/1/2019), chính sách hỗ trợ trực tiếp mới chính thức bãi bỏ.

Thay đổi quan điểm tiếp cận

Cũng cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, tái nghèo và nghèo phát sinh luôn là một khía cạnh trong lĩnh vực giảm nghèo. Với xuất phát điểm thấp, lại thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi thiên tai nên không thể mặc định rằng, công tác giảm nghèo ở vùng DTTS và miền núi “chỉ có tiến, không có lùi”.

Không khó để nhận thấy, hộ nghèo DTTS (thậm chí là hộ cận nghèo) sinh sống ở địa bàn khó khăn rất khó thoát nghèo bền vững nếu các chương trình, chính sách chỉ mang tính hỗ trợ. Bởi nếu là hỗ trợ thì chỉ mới dừng lại ở việc “đắp vá” những chỗ thiếu hụt trong đời sống của đồng bào.

Do đó, việc Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội được Chính phủ giao Ủy ban Dân tộc xây dựng, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 sắp tới thay đổi cách tiếp cận chính sách, từ hỗ trợ sang đầu tư phát triển, đem lại nhiều kỳ vọng mới trong công tác giảm nghèo bền vững vùng DTTS và miền núi. Đây là điểm mới, cũng là điểm trọng tâm, đột phá trong xây dựng chính sách phát triển vùng DTTS và miền núi trong thời gian tới.

Quan điểm tiếp cận này cũng là cơ sở để đề xuất xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia riêng để phát triển vùng DTTS và miền núi. Bởi chỉ khi xây dựng thành Chương trình mục tiêu thì những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chính sách về giảm nghèo mới được giải quyết triệt để.

Nhiều Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững

Năm 2014, công tác giảm nghèo được các cấp, các ngành của tỉnh Tuyên Quang thực hiện bằng nhiều giải pháp như: Giảm nghèo theo từng nhóm hộ nghèo; tạo điều kiện cho hộ nghèo vay vốn đầu tư phát triển kinh tế; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao; hỗ trợ làm nhà ở cho hộ nghèo… Nhờ vậy, nhiều hộ nghèo ở tỉnh Tuyên Quang có điều kiện thoát nghèo, cải thiện đời sống.

Cam sành Hàm Yên mang lại thu nhập cao cho đồng bào. Ảnh: Quang Đăng.

Theo Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Tuyên Quang, năm 2014 toàn tỉnh có hơn 9.600 lượt hộ nghèo và cận nghèo được vay vốn phát triển sản xuất; gần 35.000 hộ nghèo được hỗ trợ tiền điện với kinh phí trên 16 tỷ đồng; hàng chục vạn lượt hộ nghèo được hỗ trợ cây, con giống và hướng dẫn kỹ thuật phát triển sản xuất… Tỉnh Tuyên Quang cũng phân bổ trên 108 tỷ đồng hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn; triển khai các Đề án giảm nghèo và Dự án hỗ trợ sản xuất cho hộ nghèo với kinh phí trên 30 tỷ đồng, giúp đồng bào các dân tộc vùng sâu vùng xa thoát nghèo… Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Tuyên Quang chỉ còn dưới 14%, giảm hơn 4% so với năm 2013.

Gia đình anh Đinh Xuân Tuyền, dân tộc Tày ở thôn Tân Lập, xã Bình Nhân, huyện Chiêm Hóa, trước đây là hộ nghèo, cuộc sống vô cùng khó khăn. Năm 2011, gia đình anh được tạo điều kiện vay 25 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Chiêm Hóa. Anh Tuyền cũng được cán bộ xã định hướng phát triển nghề làm khung nhôm cửa kính tại gia đình. Mô hình sản xuất này dần đi vào ổn định và đã đem lại mức thu nhập trung bình từ 40 – 50 triệu đồng/năm cho gia đình anh. Cùng với gia đình anh Tuyền, năm 2014, toàn xã Bình Nhân cũng giảm được 61 hộ nghèo, đạt trên 100% kế hoạch giảm nghèo. Trước đây, gia đình ông Vũ Quốc Tụng, thôn 3, làng Bát, xã Tân Thành, huyện Hàm Yên cũng là hộ nghèo. Được tham gia mô hình trồng, chế biến chè theo tiêu chuẩn VietGap do Chi cục Bảo vệ thực vật Tuyên Quang phối hợp với Dự án hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh Tuyên Quang và huyện Hàm Yên thực hiện từ đầu năm 2013, với 0,36 ha chè sạch, mỗi năm gia đình ông Tụng đã có thu nhập trên 170 triệu đồng. Hiện nay, gia đình ông Tụng đã thoát nghèo và đang trên đà làm giàu… Không chỉ gia đình ông Tụng, nhiều hộ nghèo ở xã Tân Thành được hỗ trợ tham gia dự án sản xuất chè sạch theo tiêu chuẩn VietGap cũng đã thoát nghèo.

Nhiều hộ gia đình đã vươn lên thoát nghèo, có nhà cửa khang trang để ở. Ảnh: Văn Tý.

Tuy nhiên, bên cạnh sự nỗ lực, tích cực giảm nghèo của nhiều gia đình thông qua các dự án, chương trình hỗ trợ, vẫn còn nhiều gia đình có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Ông Lê Ngọc Sơn, Phó Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang cho biết: Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa quyết liệt trong công tác giảm nghèo, triển khai các biện pháp giảm nghèo chưa cụ thể, dẫn đến một số xã, phường chưa đạt chỉ tiêu về giảm nghèo.

Để thực hiện mục tiêu đến hết năm 2015 giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh xuống dưới 10%, tỉnh Tuyên Quang đã đề ra nhiều giải pháp giảm nghèo; trong đó đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chương trình giảm nghèo, chương trình lao động việc làm, chú trọng nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả; nâng cao chất lượng giảm nghèo và giảm nghèo bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới; triển khai có hiệu quả các dự án, chính sách hỗ trợ hộ nghèo; đẩy mạnh hỗ trợ, đầu tư đến các huyện, các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, đặc biệt khó khăn; tăng cường giám sát, quản lý các nguồn vốn hỗ trợ hộ nghèo, đảm bảo các nguồn vốn hỗ trợ được sử dụng đúng mục đích, đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác giảm nghèo.

Cập nhật thông tin chi tiết về Giảm Nghèo Đa Chiều Bền Vững: Thực Tiễn Và Định Hướng, Giải Pháp Cho Các Tỉnh Tây Bắc trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!