Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Tài Chính Tăng Vốn Điều Lệ Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thực trạng vốn điều lệ và tỉ lệ an toàn vốn
Vốn điều lệ của một NHTM là cấu phần dùng để xác định vốn tự có cấp 1 của NHTM đó. Do đó, để đáp ứng được yêu cầu về tỉ lệ an toàn vốn (CAR) tối thiểu, các NHTM có thể tăng vốn bằng nhiều cách, trong đó tăng vốn điều lệ là một trong những cách giúp NHTM có thể tăng được CAR.
Ở Việt Nam hiện nay, theo quy định NHTM Nhà nước là NHTM trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. NHTM Nhà nước bao gồm NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và NHTM cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Theo đó, trên thực tế hiện nay đang có 7 NHTM Nhà nước bao gồm 4 NHTM do Nhà nước sở hữu 100% và 3 NHTM cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Bốn NHTM do Nhà nước sở hữu 100% bao gồm Agribank và 3 NHTM cổ phần được Nhà nước mua lại là Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí toàn cầu (GP Bank) Ngân hàng TNHH MTV Đại Dương (Ocean Bank) và Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng (CBBank), 3 NHTM cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ bao gồm Vietinbank, BIDV và Vietcombank. Do 3 NHTM cổ phần được Nhà nước mua lại đang trong quá trình kiểm soát đặc biệt nên gặp khó khăn trong việc tăng vốn điều lệ.
Về vốn điều lệ của 4 NHTM Nhà nước lớn của Việt Nam, theo thống kê của NHNN, đến cuối tháng 6/2019, vốn điều lệ của 4 NHTM Nhà nước (Agribank, Vietinbank, Vietcombank, BIDV) đạt 139.006 tỉ đồng. Trong đó, vốn điều lệ của Vietinbank là 37.234 tỉ đồng, cao nhất trong nhóm Big 4. Tiếp theo lần lượt là Vietcombank, BIDV và Agribank với vốn điều lệ tương ứng 37.089 tỉ đồng, 34.187 tỉ đồng và 30.496 tỉ đồng. Nếu so với tổng vốn điều lệ toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) ở Việt Nam vào cùng kì thời điểm này là 586.932 tỉ đồng thì tỉ lệ vốn điều lệ của nhóm này chiếm 23,36% tổng vốn điều lệ của toàn hệ thống các TCTD ở Việt Nam.
Thứ hạng này đã bị thay đổi vào cuối tháng 10/2019, BIDV đã phát hành riêng lẻ cho đối tác KEB Hana Bank của Hàn Quốc hơn 603,3 triệu cổ phần, tương ứng tỉ lệ 15% vốn điều lệ. Nhờ đó, vốn điều lệ của BIDV đã tăng thêm 6.033 tỉ đồng, từ mức 34.187 tỉ đồng lên hơn 40.220 tỉ đồng, cao nhất trong nhóm Big 4 đến thời điểm hiện nay. Sau giao dịch thành công này, tỉ lệ sở hữu vốn Nhà nước tại BIDV đã giảm từ 95,28% xuống còn 80,80% vốn điều lệ. Tuy nhiên, tỉ lệ sở hữu vốn Nhà nước tại BIDV vẫn còn cao hơn so với Vietinbank (64,46%) và Vietcombank (74,80%).
Về mức độ tăng vốn điều lệ của 4 NHTM Nhà nước lớn, trong vòng gần 5 năm trở lại đây, Vietcombank là ngân hàng được tăng vốn điều lệ nhiều nhất. So với đầu năm 2015, vốn điều lệ hiện có của Vietcombank đã tăng hơn 10.400 tỉ đồng, tương đương tăng hơn 39%. Trong năm 2016, Vietcombank đã phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu với tỉ lệ 35% (tương đương hơn 9.300 tỉ đồng) và gần đây nhất là đầu năm 2019, vốn điều lệ của Vietcombank đã tăng hơn 1.000 tỉ đồng nhờ phát hành cổ phiếu cho GIC và Mizuho Bank. Trong khi đó, Vietinbank sau đợt tăng mạnh vào năm 2013 và 2014 nhờ phát hành cho cổ đông chiến lược thì đến nay gần như không tăng được vốn điều lệ. Agribank chỉ tăng nhẹ được vốn điều lệ khoảng 1.000 tỉ đồng. BIDV nhờ có đợt tăng vốn điều lệ vào thời điểm tháng 10/2019 vừa qua đã trở thành ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất trong 4 NHTM Nhà nước lớn cũng như trong toàn hệ thống các TCTD của Việt Nam.
Quá trình tăng vốn điều lệ của các NHTM Nhà nước bị đánh giá là rất chậm trong thời gian qua. Giai đoạn từ năm 2015-2019, vốn điều lệ của 3 NHTM Nhà nước dường như không đổi. Cùng lúc đó, các NHTM cổ phần khác đã gia tăng mạnh được vốn điều lệ và rất ít trả cổ tức. Ví dụ Techcombank chỉ trong vòng 4 năm qua vốn điều lệ đã gia tăng nhanh từ mốc 10.000 tỉ đồng lên xấp xỉ các NHTM Nhà nước ở thời điểm cuối năm 2019. Thông tin tại buổi làm việc đầu năm 2020 của lãnh đạo Chính phủ với MB cho biết, 2 ngân hàng Vietcombank và Vietinbank sẽ được tăng vốn điều lệ trong quý I/2020 khoảng 10.000 tỉ đồng. Riêng Agribank sẽ được phép dùng toàn bộ lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước năm 2020 để tăng vốn điều lệ. Đây là thông tin tích cực cho các NHTM Nhà nước trực tiếp tác động làm tăng tỉ lệ CAR cho các NHTM Nhà nước, đồng thời tiếp tục thể hiện vai trò chủ đạo của các NHTM Nhà nước trên thị trường tài chính tiền tệ ở Việt Nam.
Về CAR của các NHTM Nhà nước, số liệu thống kê gần đây của NHNN cho thấy, tỉ lệ CAR bình quân của 4 NHTM Nhà nước lớn theo chuẩn Basel I chỉ đạt 9,4%, cao hơn mức an toàn tối thiểu theo quy định 9%. Tỉ lệ này thấp hơn nhiều so với CAR của các NHTM cổ phần (12,1%) và thấp hơn so với mức bình quân chung của toàn hệ thống các TCTD (13%). Theo TS. Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc phát triển Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, nếu tính theo chuẩn Basel II, CAR của NHTM Nhà nước lớn sẽ giảm xuống dưới 8%.
Thông tin từ NHNN, đến nay đã có 18 NHTM trong đó có 16 NHTM trong nước và 2 NHTM nước ngoài đáp ứng chuẩn Basel II. Trong số 4 NHTM Nhà nước lớn thì mới chỉ có Vietcombank và BIDV được NHNN chấp thuận thực hiện chuẩn Basel II. NHNN cho biết, những ngân hàng đáp ứng được chuẩn Basel II sẽ được NHNN cấp hạn mức tín dụng ở mức cao hơn so với tỉ lệ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế. Điều này đồng nghĩa với việc Vietinbank và Agribank sẽ gặp khó khăn trong hoạt động tăng trưởng tín dụng của năm 2020 nếu không đáp ứng được chuẩn Basel II.
Cơ chế tài chính giúp tăng vốn điều lệ
Báo cáo của NHNN gửi Quốc hội cho thấy, đến cuối tháng 8/2019, tổng tài sản của 4 NHTM Nhà nước (Agribank, Viecombank, Vietinbank và BIDV) đạt 5,081 triệu tỉ đồng, tăng gần 4 lần trong vòng 10 năm và chiếm 43,01% toàn hệ thống các TCTD. Tổng tài sản của các NHTM Nhà nước lớn đều đã vượt qua 1 triệu tỉ đồng, trong đó BIDV và Agribank đã cán mốc 1 triệu tỉ đồng từ năm 2016. Đối với Vietinbank và Vietcombank thì mốc này được vượt qua vào năm 2017 và 2018. Mặc khác, theo một thống kê của NHNN đến cuối tháng 6/2019, tiền gửi của khách hàng tại 4 NHTM Nhà nước đạt hơn 3,95 triệu tỉ đồng, chiếm tới 48% tiền gửi của cả hệ thống TCTD. Cho vay thị trường 1 của nhóm Big 4 này cũng đạt tới 3,652 triệu tỉ đồng, chiếm 47,9% toàn hệ thống các TCTD. Điều này cho thấy rõ vai trò chủ đạo của các NHTM Nhà nước trong hoạt động huy động vốn và cho vay nền kinh tế mà các NHTM tư nhân khó có thể thay thế được.
Tuy nhiên, nhìn chunh việc tăng vốn của Vietinbank và Agribank thời gian qua gặp không ít khó khăn trong khi từ năm 2014 đến 2019, các NHTM Nhà nước đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước 92 nghìn tỉ đồng bao gồm 60 nghìn tỉ đồng thuế và 32 nghìn tỉ đồng chi trả cổ tức bằng tiền. So với các NHTM cổ phần thì các NHTM Nhà nước có tỉ lệ trả cổ tức trên lợi nhuận cao hơn. Ngành Ngân hàng của Việt Nam có tiền lệ là có tỉ lệ giữ lại lợi nhuận rất cao để bổ sung vốn điều lệ liên tục qua các năm qua. Tuy nhiên, tỉ lệ trả cổ tức của các NHTM Nhà nước có tỉ lệ cao hơn hẳn.
Lý do gặp khó khăn trong tăng vốn điều lệ ngoài việc Quốc hội không cho phép sử dụng ngân sách Nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước, còn do nhu cầu bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước khá lớn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu CAR tối thiểu theo chuẩn Basel II, trong khi nguồn lực Nhà nước rất hạn chế. Mặt khác, quy định về tỉ lệ sở hữu Nhà nước trong các NHTM Nhà nước không thấp hơn 65% vốn điều lệ cũng khiến Vietinbank không thể tăng thêm vốn điều lệ. Do đó, để các NHTM Nhà nước có thể tăng được vốn điều lệ nhằm tránh gây xáo trộn không cần thiết về nhân sự và chiến lược kinh doanh, ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng của nền kinh tế, cần tạo ra được cơ chế tài chính thông thoáng để các NHTM Nhà nước có thể tăng được vốn điều lệ, nhằm đáp ứng được mục tiêu đến năm 2020, các NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phài đáp ứng đủ vốn theo chuẩn mực an toàn vốn của Basel II trong “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Cơ chế tài chính để các NHTM Nhà nước có cơ hội để tăng vốn điều lệ là:
(1) Ngân sách Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu của NHTM Nhà nước phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định số 199/NĐ-CP của Chính phủ.
(2) Nhà nước chỉ cần nắm giữ tỉ lệ sở hữu Nhà nước thấp nhất là 51% vốn điều lệ của các NHTM Nhà nước. Trên thực tế, sự gia tăng tỉ lệ sở hữu vốn nước ngoài đã làm thay đổi đáng kể cách thức quản trị, chiến lược kinh doanh, đầu tư công nghệ, quản lý rủi ro và gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM tư nhân lẫn NHTM Nhà nước.
(3) Tạo cơ chế cho phép các NHTM Nhà nước được sử dụng lợi nhuận giữ lại, chia cổ tức bằng cổ phiếu thưởng, phát hành cổ phần riêng lẻ tương tự như các NHTM cổ phần để tăng vốn điều lệ.
(4) Xây dựng lộ trình tăng vốn điều lệ một cách khả thi từ nhiều nguồn cho từng NHTM Nhà nước để đáp ứng các mục tiêu đã đề ra trong “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến 2025, định hướng đến năm 2030”. Lộ trình tăng vốn cần gắn chặt và đảm bảo tính khả thi cũng như tính đồng bộ với định hướng chiến lược phát triển ngành Ngân hàng nói chung, các NHTM Nhà nước với vai trò chủ đạo nói riêng, kế hoạch thu chi ngân sách Nhà nước giai đoạn trung hạn, chiến lược và kế hoạch kinh doanh của từng NHTM Nhà nước, cơ chế, chính sách quản lí tài chính của Nhà nước đối với NHTM Nhà nước.
Marketing Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại
(thitruongtaichinhtiente.vn) – Bài viết nêu một số ưu, nhược điểm trong hoạt động marketing huy động vốn tại các NHTM, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này.
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh và có nhiều thay đổi tích cực cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Để đảm bảo nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh, nguồn huy động từ bên ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc áp dụng marketing đối với nguồn vốn huy động các ngân hàng thương mại (NHTM) là cần thiết. Thông qua nghiên cứu trường hợp cụ thể của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) chi nhánh Hà Tây, bài viết nêu một số ưu, nhược điểm trong hoạt động marketing huy động vốn tại các NHTM, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này.
Capital mobilization marketing in commercial banks – from the case of BIDV Ha Tay
1. Một số hoạt động Marketing huy động vốn tại NHTM
Nghiên cứu thị trường
Thứ nhất, xác định mong muốn và sự thay đổi nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng của khách hàng.
Thứ hai, phân loại khách hàng và lựa chọn đoạn khách hàng mục tiêu của đoạn thị trường huy động vốn.
Thứ ba, nghiên cứu chính sách huy động vốn của đối thủ cạnh tranh.
Định vị sản phẩm
Tạo được hình ảnh cho sản phẩm huy động vốn, thương hiệu của ngân hàng thương mại (NHTM) trong tâm trí của khách hàng ở thị trường mục tiêu. Lựa chọn vị thế của sản phẩm huy động vốn của NHTM trên thị trường mục tiêu. Tạo được sự khác biệt cho sản phẩm, thương hiệu của NH. Lựa chọn và khuếch trương điểm khác biệt có ý nghĩa.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược marketing
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược giá cả: Giá cả của sản phẩm ngân hàng được xác định trên nguyên tắc phải bù đắp được các chi phí và có lãi. Việc xác định giá cả còn phụ thuộc vào mục tiêu của NHTM, nhu cầu và lợi ích của khách hàng, thị trường, chi phí, các nhân tố khách quan như: lạm phát, quy định của Nhà nước.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phân phối: Là chiến lược trực tiếp đưa các sản phẩm ngân hàng đến với khách hàng thể hiện qua yếu tố con người, mạng lưới chi nhánh/ phòng giao dịch, cơ sở vật chất kỹ thuật. Hiện nay, ngoài các kênh phân phối truyền thống trên, các ngân hàng đều đang không ngừng hoàn thiện và phát triển các kênh phân phối có sử dụng công nghệ tiên tiến, mở rộng ra phạm vi quốc tế nhằm thống nhất sự cung cấp các sản phẩm, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược nhân sự: Mục tiêu của chiến lược nhân sự là nhằm nâng cao toàn diện đội ngũ nhân viên, đặc biệt là nhân viên giao dịch vì chính họ là một phần hữu hình của sản phẩm dịch vụ. Muốn đạt được hiệu quả cao trong chiến lược nhân sự nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần xây dựng chương trình đào tạo cụ thể, xác định các tiêu chuẩn, số lượng, phong cách cần có ở nhân viên ngân hàng.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược hữu hình: Phương tiện hữu hình thể hiện qua ngoại hình, trang phục của nhân viên phục vụ, các trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ. Đây là những yếu tố hữu hình để khách hàng có thể cảm nhận về chất lượng dịch vụ ngân hàng. Cũng giống như logo và slogan, trang phục nhân viên của các ngân hàng được cho là một trong những đặc điểm nhận dạng quan trọng cũng như minh chứng cho tính chuyên nghiệp, uy tín sức lan tỏa của thương hiệu.
Đánh giá marketing huy động vốn
Marketing là một lĩnh vực chức năng, trong đó các mục tiêu, chiến lược và chương trình luôn phải thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của thị trường. Sau mỗi thời gian nhất định các NHTM cần đánh giá lại quan điểm chiến lược, mục tiêu và hiệu quả hoạt động marketing để có những điều chỉnh cần thiết.
Có hai công cụ cơ bản đánh giá marketing huy động vốn đó là: đánh giá hiệu quả và kiểm tra marketing.
Các chỉ tiêu đánh giá kết quả của marketing huy động vốn
– Chỉ tiêu phản ánh sự gia tăng về vốn
Tốc độ tăng trưởng VHĐ = (Tổng VHĐ kỳ này – Tổng VHĐ kỳ trước)/(Tổng VHĐ kỳ trước)*100
– Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu huy động vốn
Tỷ trọng của loại vốn = Quy mô của loại vốn / Tổng vốn huy động
– Chỉ tiêu lợi nhuận vốn huy động
Lợi nhuận vốn huy động = Doanh thu từ nguồn vốn huy động – Chi phí vốn huy động.
2. Hoạt động marketing huy động vốn tại BIDV Chi nhánh Hà Tây
BIDV chi nhánh Hà Tây được thành lập ngày 1/6/1990, là một trong những chi nhánh của BIDV, là đơn vị hạch toán độc lập trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Hoạt động nghiên cứu thị trường
Việc nghiên cứu để phân loại thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu đã được chi nhánh tiến hành thực hiện trong những năm qua. Thị trường nguồn vốn tại địa phương đa dạng với nhiều nhóm khách hàng khác nhau. Theo địa bàn thị trường được phân đoạn chủ yếu tập trung vào thị trường mục tiêu là thị trường quận Hà Đông và quận Thanh Xuân.
Hoạt động định vị sản phẩm
Việc định vị sản phẩm trong hoạt động marketing huy động vốn tại BIDV chi nhánh Hà Tây được thực hiện sau quá trình thực hiện nghiên cứu phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu. Với thị trường mục tiêu là nhóm khách hàng cá nhân thì các sản phẩm được chi nhánh định vị và cung cấp là các sản phẩm tiền gửi, tiết kiệm như các sản phẩm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tích lũy, tiền gửi có kỳ hạn online cá nhân, tiền gửi thanh toán thông thường, tiền gửi kinh doanh chứng khoán. Với thị trường nhóm khách hàng tổ chức kinh tế thì các sản phẩm được chi nhánh định vị và cung cấp như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn online doanh nghiệp, tiền gửi như ý.
Hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược marketing
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược giá cả: Thực hiện theo chính sách lãi suất huy động mà hệ thống BIDV xây dựng cùng với những điều chỉnh theo đúng cơ chế lãi suất thỏa thuận với khách hàng. Đồng thời áp dụng biểu phí linh hoạt, ưu đãi cho các dịch vụ sản phẩm của mình. Biểu phí được BIDV quy định điều chỉnh theo từng thời kỳ khác nhau, tùy theo sự biến động của thị trường tài chính.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phân phối: Các Phòng giao dịch như PGD BIDV Nguyễn Trãi, PGD BIDV Lê Lợi, PGD BIDV Yết Kiêu, PGD BIDV Văn Quán, PGD BIDV Lê Hồng Phong tại quận Hà Đông, PGD BIDV Nguyễn Quý Đức tại quận Thanh Xuân là những Phòng giao dịch được hình thành và hoạt động rất sớm, năm 2013 BIDV Hà Tây khai trương PGD BIDV Chúc Sơn tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược hỗn hợp: Về cơ bản hiện nay việc xây dựng và thực hiện chiến lược marketing trong huy động vốn tại hệ thống BIDV nói chung và chi nhánh Hà Tây nói riêng chính là thực hiện một chiến lược hỗn hợp, vừa theo những chỉ đạo và phương hướng, chính sách của hệ thống BIDV chi nhánh cũng xây dựng và thực hiện chiến lược theo đặc điểm riêng của chi nhánh.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược nhân sự: Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của BIDV chi nhánh Hà Tây nói riêng và hệ thống BIDV nói chung là phải xây dựng, duy trì và phát triển đội ngũ nhân viên đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing của toàn hệ thống.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược hữu hình: Phương tiện hữu hình thể hiện qua ngoại hình, trang phục của nhân viên phục vụ, các trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ. Chi nhánh Hà Tây luôn tuân thủ thực hiện theo quy định về đồng phục chung của nhân viên BIDV với tiêu chí lịch sự, gọn gàng và gây ấn tượng thiện cảm với khách hàng, mang màu sắc riêng biệt.
Kết quả, thông qua hoạt động marketing, tình hình huy động vốn tại BIDV chi nhánh Hà Tây giai đoạn 2016 – 2018 thể hiện qua số liệu tại bảng 1.
Bảng 1. Tình hình huy động vốn của BIDV Hà Tây
Đơn vị: tỷ đồng
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh BIDV Hà Tây)
Đánh giá marketing huy động vốn
Sự gia tăng nguồn vốn huy động tại Chi nhánh thể hiện qua bảng 2. Cơ cấu huy động vốn theo hình thức huy động tại BIDV chi nhánh Hà Tây hiện nay gồm: huy động từ tiền gửi dân cư, huy động từ tiền gửi của tổ chức kinh tế và phát hành các giấy tờ có giá (kỳ phiếu, trái phiếu).
Chỉ tiêu lợi nhuận vốn huy động được thể hiện qua bảng 3.
Bảng 2. Sự gia tăng nguồn vốn huy động tại BIDV Hà Tây
Đơn vị: tỷ đồng, %
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh BIDV Hà Tây)
Bảng 3. Lợi nhuận huy động vốn tại BIDV Hà Tây
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh BIDV Hà Tây)
3. Ưu điểm và nhược điểm trong hoạt động marketing huy động vốn tại các NHTM
Từ phân tích thực trạng hoạt động marketing huy động vốn tại BIDV chi nhánh Hà Tây, có thể nhận thấy những ưu điểm và đặc điểm chung đối với các NHTM như sau:
* Ưu điểm
Thứ hai, trong quá trình nghiên cứu thị trường, các ngân hàng đã có hoạt động tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, thói quen của khách hàng, cũng như về các hoạt động của các đối thủ và đối tác trên địa bàn.
Thứ ba, trong thực hiện chiến lược giá cả có thể thấy, lãi suất là điểm mấu chốt thu hút nguồn vốn huy động và ảnh hưởng đến các loại phí và các dịch vụ đi kèm trong cạnh tranh huy động vốn giữa các ngân hàng.
Thứ tư, trong thực hiện chiến lược phân phối, các ngân hàng đã không ngừng mở rộng mạng lưới, kênh phân phối trên khắp địa bàn để phát triển và giữ vững vị thế của mỗi ngân hàng. Do đó, các ngân hàng thường có các chính sách khuyến mại nhằm thu hút khách hàng huy động vốn.
Thứ năm, trong thực hiện chiến lược phát triển, các ngân hàng chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ nhân viên, giao dịch viên với tác phong giao dịch nhanh nhẹn, lịch sự, tận tình, chu đáo, chuyên nghiệp.
Thứ sáu, các ngân hàng không ngừng củng cố mối quan hệ khách hàng, đặc biệt là khách hàng lớn truyền thống, đẩy mạnh tiếp thị, huy động từ khách hàng tiềm năng.
* Nhược điểm và nguyên nhân
Bên cạnh những ưu điểm đạt được thì hoạt động marketing huy động vốn của các ngân hàng còn một số hạn chế cần khắc phục:
– Cơ cấu nguồn vốn kỳ hạn chưa thực sự mang lại hiệu quả cao nhất.
– Các sản phẩm dịch vụ chưa thực sự đáp ứng đủ nhu cầu của các đối tượng khách hàng khác nhau, dịch vụ Ngân hàng điện tử đôi khi còn xảy ra lỗi trong quá trình giao dịch.
– Hoạt động mở rộng tìm kiếm khách hàng mới chưa đạt hiệu quả cao, số dư lớn vốn huy động tập trung ở những doanh nghiệp đã có mối quan hệ lâu dài.
– Công tác phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu chưa được thực hiện một cách rõ ràng cụ thể.
– Đội ngũ nhân viên làm công tác huy động vốn còn nhiều hạn chế về trình độ ngoại ngữ.
– Công tác marketing huy động vốn chưa thực sự được chú trọng, chưa quyết liệt và chưa sâu rộng đến các đối tượng khách hàng.
Những hạn chế nêu trên là do một số những nguyên nhân sau:
– Nguyên nhân khách quan như: môi trường kinh tế – xã hội chưa thực sự ổn định; môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ; sự cạnh tranh giữa các NHTM trong cùng địa bàn hoạt động và nguyên nhân từ tâm lý người dân.
– Nguyên nhân chủ quan như: quy trình và quy chế hoạt động huy động vốn chưa linh hoạt; chưa có những chiến lược kinh doanh cụ thể; chi phí cho hoạt động xúc tiến – truyền thông thấp; hệ thống công nghệ thông tin chưa được ứng dụng mạnh mẽ; đội ngũ nhân viên chưa có nhiều kinh nghiệm.
4. Một số giải pháp đẩy mạnh marketing huy động vốn tại các NHTM
Thứ nhất, đối với sản phẩm:
– Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như: nghiên cứu áp dụng thêm nhiều hình thức tiết kiệm linh hoạt như tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm tích lũy. Tăng cường phát triển các sản phẩm dành cho đối tượng là các tổ chức kinh tế như mở các tài khoản đặc biệt nhằm hỗ trợ tối ưu cho từng nhu cầu cụ thể của khách hàng…
Thứ hai, đối với giá cả:
Chính sách lãi suất hợp lý phải vừa đẩy mạnh việc thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, vừa kích thích các khách hàng vay vốn sử dụng vốn có hiệu quả phục vụ cho đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, hoàn thiện chiến lược phân phối sản phẩm, dịch vụ:
Để tăng hiệu quả huy động và phục vụ khách hàng, các ngân hàng cần bố trí xây dựng thêm điểm giao dịch (phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm) tại vùng ngoại thành, những nơi đang có tốc độ phát triển nhanh. Đồng thời với việc phân phối sản phẩm, dịch vụ trong nước cũng cần mở rộng đầu tư ra nước ngoài.
Thứ tư, hoàn thiện chiến lược xúc tiến hỗn hợp như:
– Hoàn thiện công tác kế hoạch các công cụ marketing truyền thông hàng năm làm kim chỉ nam định hướng cho hoạt động marketing thành công.
– Chú trọng công tác chăm sóc khách hàng: hiện nay, các sản phẩm dịch vụ của các NHTM hầu như có ít sự khác biệt, vì vậy một trong những lợi thế cần tạo ra đó là chất lượng dịch vụ khách hàng. Cần tập trung vào công tác chăm sóc khách hàng để vừa tạo ra một lượng khách hàng trung thành vừa thu hút thêm những khách hàng mới.
Thứ năm, cần có những giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Trong điều kiện hiện nay khi mà công nghệ thông tin đang được ứng dụng mạnh mẽ trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội thì nhân tố con người đang lại càng trở nên quan trọng hơn nữa. Ngân hàng luôn phải đảm bảo có đội ngũ nhân viên đáp ứng kịp thời với sự thay đổi đó.
Thứ sáu, cần xây dựng kế hoạch tài chính cho marketing huy động vốn:
Để có thể đầu tư vào nguồn nhân lực có trình độ cao, đầu tư vào cơ sở vật chất, đầu tư vào công tác truyền thông và chăm sóc khách hàng… thì tài chính cho marketing là yếu tố quyết định.
Thứ bảy, áp dụng công nghệ ngân hàng, cụ thể như:
Tiến hành xây dựng một chiến lược phát triển công nghệ dài hạn đi đôi với phát triển nguồn lực hiện có. Việc thay đổi công nghệ ngân hàng khá tốn kém, vì thế nếu không có chiến lược phát triển công nghệ đúng đắn có thể tạo ra sự lãng phí lớn. Chiến lược công nghệ cần đi sâu vào các mặt, như: trình độ công nghệ, kỹ thuật, khả năng cải tiến, nghiên cứu và phát triển sản phẩm dịch vụ, ứng dụng, khai thác công nghệ thông tin, kỹ thuật số, điện tử và viễn thông trong hoạt động kinh doanh (giao dịch, thanh toán, quản trị điều hành…) của ngân hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngân hàngTMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây (2016-2018), Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh.
2. Peter Rode (NXB Tài chính dịch 2001), Quản trị Ngân hàngthương mại, NXB Tài chính, Hà Nội.
3. Philip Kotler (Nhà sách Alphabooks dịch 2011), Quản trị Marketing, NXB Lao động, Hà Nội.
4. Đỗ Dũng Tráng (2013), “Giải pháp marketing nhằm mở rộng huy động vốn tại ngân hàng thương mại Cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh”, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 10 năm 2020
Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Huy Động Vốn Của Các Ngân Hàng Thương Mại
Mỗi ngân hàng đều có chính sách huy động vốn riêng của mình tuỳ thuộc vào nhu cầu và mục đích hoạt động kinh doanh. Ðể có nguồn vốn lớn đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những chính sách huy động hợp lý, thu hút được lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, phát triển.
Tình hình huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Theo Báo cáo tổng quan thị trường tài chính năm 2017 của Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, năm 2017, thanh khoản của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) tương đối ổn định. Nguồn vốn huy động toàn hệ thống tăng thấp hơn năm 2016, ước tăng 16,9% (năm 2016 tăng 19,3%); tín dụng toàn hệ thống tăng tương đương với năm 2016 (ước tăng 19,3%). Hệ số dư nợ trên vốn huy động (LDR) tăng nhẹ từ 85,6% (cuối năm 2016) lên 87,3% (cuối năm 2017).
Năm 2017, tiền gửi khách hàng (gồm tổ chức kinh tế và dân cư) tăng khoảng 19% (năm 2016 tăng 19,3%). Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá tăng mạnh (ước tăng 38%) do một số TCTD phát hành giấy tờ có giá nhằm tăng vốn cấp 2 để cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR) và cơ cấu lại kỳ hạn nguồn vốn huy động. Trong khi đó, vốn huy động bằng VND chiếm 90,5% tổng vốn huy động (năm 2016 là 89,1%). Huy động bằng ngoại tệ chiếm tỷ trọng khoảng 9,5% (năm 2016 là 10,9%). Tỷ trọng huy động ngoại tệ giảm do trần lãi suất huy động USD ở mức 0%, tỷ giá USD/VND ổn định, tâm lý găm giữ ngoại tệ giảm. Vốn huy động có kỳ hạn chiếm 80,9% tổng huy động (năm 2016 chiếm 79,7%), còn lại là vốn huy động không kỳ hạn.
Năm 2017, tăng trưởng tín dụng tương đương với năm 2016 (khoảng 19%). Thị phần tín dụng tập trung chủ yếu ở nhóm ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước và NHTM cổ phần, lần lượt chiếm 51,8% và 41,3% toàn hệ thống. Tín dụng giữ tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong 3 năm liên tiếp (2015 – 2018). Lãi suất huy động bình quân khá ổn định. Lãi suất huy động VND kỳ hạn trên 12 tháng phổ biến ở mức 6,4-7,2%. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giảm khoảng 0,5-1% so với đầu năm. Đối với khu vực sản xuất kinh doanh thông thường, lãi suất cho vay ở mức 6,8-11%/năm. Mặc dù có sự chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động vốn nhưng thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn ở mức ổn định nhờ việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tăng cung tiền qua việc mua hơn 7,5 tỷ USD trong năm 2017. Ước tính lượng tiền ròng đã được bơm ra thị trường khoảng 110 nghìn tỷ đồng.
Xét về thị phần, năm 2017, thị phần tín dụng và huy động của các nhóm TCTD duy trì tương đối ổn định; nhóm NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần vẫn chiếm thị phần lớn nhất. Thị phần cho vay của nhóm NHTM Nhà nước là 51,8%, nhóm NHTM cổ phần là 41,3%. Thị phần huy động của nhóm NHTM Nhà nước là 49%, nhóm NHTM cổ phần ở mức 42,4%.
Theo báo cáo tình hình kinh tế – xã hội 9 tháng đầu năm 2018 của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 20/9/2018, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,74% so với cùng kỳ năm 2017 (cùng kỳ năm 2017 tăng 9,59%); huy động vốn của các TCTD tăng 9,15% (cùng kỳ năm 2017 tăng 10,08%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 9,52% (cùng kỳ năm 2017 tăng 11,02%).
Một số chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại trong bối cảnh hiện nay
Chính sách huy động vốn của ngân hàng là những công cụ, cách thức, phương pháp và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá nhân, các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng. Mỗi ngân hàng đều có chính sách huy động vốn riêng của mình tuỳ thuộc vào nhu cầu và mục đích hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, không phải lúc nào ngân hàng cũng có thể thực hiện được theo đúng như yêu cầu đặt ra, bởi lẽ hoạt động ngân hàng còn phải phụ thuộc vào “sức khoẻ” của nền kinh tế, mọi sự biến động của tình hình kinh tế – xã hội… Do đó, chính sách huy động vốn cũng thường xuyên được các NHTM điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn. Để thực hiện tốt công tác huy động vốn trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt hiện nay, NHTM cần tập trung một số giải pháp sau:
Một là, triển khai chính sách thu hút khách hàng.
Hai là, có chính sách lãi suất hợp lý.
Trong hoạt động ngân hàng, công cụ lãi suất luôn được coi là một yếu tố góp phần tạo lập nguồn vốn cho ngân hàng thông qua huy động từ nền kinh tế. Mặc dù, tại mỗi thời kỳ khác nhau, mức lãi suất của ngân hàng đưa ra khác nhau nhưng phải đảm bảo yếu tố hấp dẫn khách hàng, giữ chân khách hàng truyền thống, tìm kiếm thêm khách hàng mới. Ở nước ta, chính sách lãi suất luôn là công cụ mà các NHTM sử dụng để thu hút vốn. Nhiều ngân hàng quy mô nhỏ thiếu vốn thường đưa ra các mức lãi suất cao để cạnh tranh được với ngân hàng lớn. Tuy nhiên, cuộc đua lãi suất thường gây ra nhiều rủi ro cho các ngân hàng do vậy, công cụ lãi suất về tương lai sẽ không còn hiệu quả (một mặt cũng bắt nguồn từ yêu cầu của cạnh tranh và quy định của luật pháp), thay vào đó cần nâng cao chất lượng phục vụ, dịch vụ ngân hàng cung cấp…
Ba là, mở rộng hoạt động kinh doanh.
Việc phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng có thể thông qua việc mở rộng mạng lưới và quan hệ đối tác. Theo đó, mở rộng mạng lưới không chỉ giúp ngân hàng nâng cao khả năng huy động vốn mà còn đáp ứng nhiều mục tiêu mà ngân hàng đề ra. Trong quá trình đó, các NHTM cần chú ý đến các yếu tố vị trí địa lý, phục vụ công tác đặt chi nhánh, phòng giao dịch cho ngân hàng của mình. Việc mở rộng mối quan hệ với các tổ chức TCTD, các NHTM, các cá nhân, các tổ chức xã hội… sẽ giúp cho các NHTM trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh hợp lý. Đặc biệt, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, có mối quan hệ trực tiếp sẽ giúp NHTM trong việc dự báo các luồng tiền sẽ thay đổi.
Bốn là, đẩy mạnh chính sách marketing.
Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Tài Chính, Năng Lực Quản Trị Điều Hành Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
1. Nâng cao năng lực tài chính
Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng là yêu cầu cấp bách đối với các NHTMVN nhằm nâng cao sức cạnh tranh, khả năng chống đỡ rủi ro với mục tiêu chung đảm bảo an toàn hệ thống, đầu tư công nghệ và các nguồn lực để phát triển sản phẩm dịch vụ tiện ích cũng như mở rộng mạng lưới kênh phân phối… Tăng cường tiềm lực tài chính của các NH qua các biện pháp như: Tăng vốn tự có; tăng khả năng sinh lời và tháo gỡ những khó khăn để xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, làm sạch bảng cân đối tài sản; tiến hành hợp nhất, sáp nhập các NH kém hiệu quả có nguy cơ thua lỗ; hoặc tăng vốn thông qua việc cổ phần hoá, phát hành thêm cổ phần, tăng mức vốn pháp định.
2. Nâng cao năng lực quản trị điều hành
Khi các NHTMVN chuyển hướng sang mô hình kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực, trên cơ sở mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng trong nước và tự do hoá thương mại dịch vụ, thì tất yếu các NHTMVN cần nâng cao năng lực quản trị điều hành như:
Các NHTM cần xây dựng chiến lược phát triển một cách lâu dài, hiệu quả và bền vững trên cơ sở đánh giá nguồn lực hiện có, phân tích môi trường KT, môi trường kinh doanh hiện tại và trong tương lai. Từ đó xây dựng chiến lược chi tiết cho việc phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ.
Nhanh chóng tiếp cận với những phương thức quản trị điều hành hiện đại, trong đó chú trọng vào việc phát triển hệ thống thông tin công nghệ cao phục vụ cho việc quản trị ngân hàng theo mô hình tập trung.
Nâng cao năng lực dự báo, phân tích đánh giá và xử lý các hoạt động NH của nhiều cán bộ quản lý ở vị trí cấp cao, đội ngũ lãnh đạo, quản lý trên cơ sở thực hiện chế độ tuyển chọn công khai, xây dựng các chuẩn mực tuyển chọn, cơ cấu lại đội ngũ lao động…
Nâng cao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm của các NHTM. Nâng cao khả năng dự báo thị trường để có thể vừa mở rộng khả năng kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Giải pháp nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Tài Chính Tăng Vốn Điều Lệ Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!