Xu Hướng 4/2023 # Giải Pháp Phát Triển Giao Thông Nông Thôn # Top 7 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Giải Pháp Phát Triển Giao Thông Nông Thôn # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Phát Triển Giao Thông Nông Thôn được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Làm đường giao thông nông thôn ở vùng cao Trạm Tấu.

Điều thuận lợi là UBND tỉnh đã phê duyệt đề án phát triển giao thông nông thôn miền núi (GTNT-MN) giai đoạn 2010 – 2020. Bên cạnh đó, đối với các xã hiện nay đã được quy hoạch tổng thể và chi tiết, đây sẽ là yếu tố quan trọng để phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và giao thông nói riêng, tránh chồng chéo, phải làm đi làm lại. Với tiêu chí cụ thể sẽ thống nhất về quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật theo đúng quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Để mạng lưới giao thông phát triển rất cần sự quan tâm tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội từ tỉnh đến cơ sở.

Vì vậy, việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển GTNT phải được thống nhất cao trong toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, trong đó đối với các xã, nhất là các xã được lựa chọn xây dựng NTM phải có các nghị quyết chuyên đề về công tác phát triển GTNT.

Trong quá trình tổ chức thực hiện, các cấp chính quyền phải xây dựng các cơ chế, chính sách và hình thức huy động linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương.

Để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển GTNT cần có sự vào cuộc của các tổ chức chính trị như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên bởi đây chính là lực lượng nòng cốt trong công tác vận động, tuyên truyền giúp nhân dân hiểu được tầm quan trọng của công tác đầu tư phát triển hạ tầng GTNT đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường quốc phòng- an ninh chuyển dịch cơ cấu kinh tế xoá đói, giảm nghèo mà tự nguyện tham gia đóng góp xây dựng.

Theo đó phải đẩy mạnh phong trào Nhà nước và nhân dân cùng làm, một mặt tranh thủ nguồn lực trong dân, mặt khác nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc phát triển hạ tầng GTNT ở địa phương.

Ông Trần Thanh Trúc – Chủ tịch UBND Lâm Thượng (Lục Yên), một xã đang triển khai xây dựng NTM cho biết: Những tuyến đường trong xã chỉ rộng 1 – 2m, để mở rộng các tuyến đường thôn, bản thì xã không có kinh phí để đền bù giải phóng mặt bằng. Do vậy, xã tuyên truyền vận động người dân của 19 thôn tự nguyện hiến đất làm đường.

Theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới tại một xã thì tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải đạt 100%; tỷ lệ đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ đạt 50%; tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa 100% (trong đó 50% cứng hóa); tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện là 50%.

Trên thực tế, do các xã đều có địa bàn rộng, dân cư thưa thớt, địa hình phức tạp… nên nhu cầu vốn cho phát triển giao thông rất lớn, do đó cần có nhiều hình thức huy động vốn phát triển kết cấu hạ tầng GTNT-MN. Cụ thể đối với 1 km đường có dự toán từ 1,3 – 1,5 tỷ đồng, nếu tính tỷ lệ mỗi khẩu có thể phải đóng góp tới vài triệu đồng, đối với mức thu nhập của nông dân hiện nay là rất khó.

Do vậy, hàng năm các huyện, thị xã, thành phố cân đối bố trí một phần ngân sách làm công tác chuẩn bị đầu tư các dự án phù hợp với quy hoạch phát triển GTNT và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương làm cơ sở để báo cáo các Bộ, ngành Trung ương hỗ trợ vốn phát triển GTNT bằng các chương trình phát triển của Trung ương, vốn vay ODA và vốn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế.

Bên cạnh đó, hàng năm tỉnh nên bố trí một phần vốn ngân sách và vốn vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để thực hiện chương trình kiên cố hoá đường GTNT.

Các huyện, thị xã, thành phố phấn đấu tăng thu ngân sách theo kế hoạch được giao và tổ chức xây dựng các khu dân cư mới, khu đô thị mới tổ chức đấu giá tạo kinh phí đầu tư xây dựng và bảo trì các công trình GTNT trên địa bàn các địa phương.

Cùng với sự đóng góp của người dân theo tỷ lệ, cần huy động các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn cùng vào cuộc giúp giảm mức đóng góp của người dân. Bà Lê Thị Lụa – Chủ tịch UBND xã Việt Thành (Trấn Yên) cho biết: Để giảm bớt mức đóng góp của người dân trong cùng một lúc, xã quy hoạch tuyến xây dựng kế hoạch thực hiện từng năm; tổ chức họp dân để cùng bàn mức đóng góp phù hợp với điều kiện kinh tế và khả năng của người dân.

Quan trọng nhất là quá trình thực hiện phải công khai, minh bạch và để người dân tự giám sát toàn bộ công trình. Giống như Việt Thành, xã Đại Phác, huyện Văn Yên cũng có cách làm khá hiệu quả, đó là việc đóng góp làm đường giao thông thực hiện hàng năm với sự đóng góp của 100% hộ dân trong xã. Nhờ đó, mỗi năm xã kiên cố hóa từ 1 – 2 km đường giao thông.

Có thể nói, xây dựng nông thôn mới là một chương trình lớn, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn cũng như đời sống của người dân, trong đó xây dựng mạng lưới giao thông là một mắt xích trong tổng thể đó bởi giao thông là yếu tố tiên quyết đến việc thành bại của cả chương trình.

Vì vậy, các cấp, các ngành công việc này cần tiếp tục quan tâm vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm để thực hiện thành công chương trình xây dựng nông thôn mới bắt đầu từ những tuyến đường giao thông liên thôn, bản.

Nhóm P.V Kinh tế

6 Nhóm Giải Pháp Phát Triển Ngành Nông Nghiệp Và Nông Thôn

Việc triển khai thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong thời gian qua đang bộc lộ những hạn chế. Đó là quá trình phát triển sản xuất còn kém bền vững, dễ bị tổn thương trước tác động của thiên tai, dịch bệnh và diễn biến bất lợi của thị trường trong và ngoài nước.

Chất lượng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất của nhiều loại nông sản còn thấp, hiệu quả chưa cao; đổi mới tổ chức sản xuất còn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa lớn; các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất phát triển chậm, hiệu quả chưa ổn định; kinh tế hộ nhỏ lẻ, ruộng đất sản xuất manh mún ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém và cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Do đó, mục tiêu chính của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trong những năm tới là phát triển bền vững theo 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, cụ thể là: Thực hiện tái cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng và hiệu quả cao; xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống của dân cư nông thôn; phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và môi trường bền vững.

Ông Phát nêu lên 6 nhóm giải pháp lớn để thực hiện có hiệu quả mục tiêu trên, đó là:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức về sự cần thiết, tất yếu và tầm quan trọng của thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới đến các cấp, ngành, địa phương và người dân; thay đổi nhận thức về sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu.

Thứ hai, tiếp tục tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn… trước hết tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp và các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu; đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức nông dân sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, chất lượng đảm bảo gắn với chế biến và tiêu thụ; thực hiện chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn.

Thứ tư, tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, bao gồm cả công nghệ cao trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của ngành; đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả của ngành; bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.

Thứ năm, tiếp tục huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; cơ bản nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã ( giao thông, điện, nước sạch, trường học các cấp, trạm y tế xã, nhà văn hóa và khu thể thao thôn), bao gồm cả các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn…

Thứ sáu, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý ngành từ Trung ương đến địa phương. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban chỉ đạo và bộ máy giúp việc các cấp ở Trung ương và các địa phương, ra sức tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về tái cơ cấu và xây dựng nông thôn mới.

Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Nông Thôn Và Xây Dựng Nông Thôn Mới Hiệu Quả

Phát triển nông thôn còn thiếu bền vững

Trong 10 năm (2008-2018) khu vực nông thôn (KVNT) có nhiều đổi thay rõ nét, kết cấu hạ tầng phát triển mạnh mẽ, hơn 20.000 mô hình phát triển sản xuất đã tạo nên động lực mới cho phát triển kinh tế KVNT, sản xuất nông nghiệp hàng hóa được coi trọng và chuyển biến, đời sống của đại đa số nông dân được nâng cao.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì kết quả xây dựng NTM và giảm nghèo bền vững giữa các vùng còn có sự chênh lệch lớn; kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể chưa được thúc đẩy tích cực, lợi thế địa phương về sản vật, cảnh quan, văn hóa… chưa được khai thác hết tiềm năng.

Sự chuyển biến phát triển kinh tế KVNT nhìn chung còn chậm, một trong những nguyên nhân cơ bản là do các địa phương chưa xác định được các dòng sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh trên thị trường (trong từng lĩnh vực lâm nghiệp, thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, và dịch vụ)

Công tác xúc tiến thương mại còn hạn chế, mô hình sản xuất kinh tế hộ còn chiếm tỷ lệ rất cao, mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến (DN, HTX) còn thiếu cả số lượng và chất lượng.

Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo (theo đúng chuyên môn sản xuất sản phẩm lợi thế) và năng suất lao động KVNT đạt thấp; công tác quản lý chất lượng sản phẩm chưa được quan tâm đúng mức, quản lý nhà nước còn yếu và bất cập về định hướng quy hoạch sản xuất, cơ chế, chính sách huy động nguồn lực, kết nối thị trường.

Nhiều dự án hỗ trợ sau khi kết thúc, nông dân chưa đủ điều kiện (về trình độ, năng lực tài chính) để tiếp cận, làm chủ và phát triển tiếp một cách bền vững. Kinh tế nông thôn phá triển không đồng đều, cùng các vấn đề về ô nhiễm môi trường, sự dịch chuyển lao động trẻ có trình độ từ nông thôn ra thành thị, làm ảnh hưởng chung phát triển triển kinh tế xã hội KVNT, cũng như tiến trình và chất lượng xây dựng NTM hiện nay.

Phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân là nhiệm vụ cốt lõi của xây dựng NTM nhưng vẫn đang là vấn đề khó nhất của Chương trình xây dựng NTM.

Vận dụng sáng tạo kinh nghiệm quốc tế

Để có thể giải quyết được căn bản những yếu kém, hạn chế nêu trên, Việt Nam có thể nghiên cứu, vận dụng bài học kinh nghiệm quốc tế về phong trào Mỗi làng một sản phẩm (One village one product – OVOP) được thực hiện thành công tại Nhật Bản từ năm 1979. Hiện nay, phong trào OVOP đã lan tỏa được triển khai thực hiện hơn 40 nước trong khu vực châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh,… đóng góp tích cực vào sự phát triển KTXH KVNT ở các quốc gia. Điển hình là Chương trình Mỗi cộng đồng một sản phẩm – OTOP của Chính phủ Thái Lan, sau hơn 10 năm triển khai (từ 2001 – 2012), đã tạo ra hơn 72.000 sản phẩm hàng hóa và dịch vụ ở vùng nông thôn trên phạm vi toàn quốc.

Qua kinh nghiệm thành công của một số nước trong khu vực về phong trào OVOP, vận dụng linh hoạt chính sách phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ, trong quá trình thực hiện xây dựng NTM, nhiều địa phương đã có nhiều sáng kiến, sáng tạo các mô hình phát triển kinh tế nông thôn.

Từ năm 2013, UBND tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt và triển khai Chương trình “Tỉnh Quảng Ninh – Mỗi xã, phường một sản phẩm” (One commune one product – OCOP), đưa Quảng Ninh trở thành tỉnh đầu tiên của cả nước triển khai thực hiện chương trình này một cách bài bản, có hệ thống, từ việc bố trí bộ máy chỉ đạo, tổ chức thực hiện, ban hành các cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực từ nội lực cộng đồng, đến hướng dẫn qui trình triển khai, xúc tiến thương mại…

Kết quả đạt được sau hơn 3 năm triển khai đã khẳng định, chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm – OCPO” là hướng đi đúng, sáng tạo của tỉnh Quảng Ninh trong phát triển sản phẩm hàng hóa theo chuỗi giá trị, gắn các tổ chức sản xuất với sản phẩm, phát huy những lợi thế, thế mạnh của địa phương, đưa nông dân chủ động hội nhập và tiếp cận kinh tế thị trường, góp phần nâng cao chất lượng Chương trình MTQG xây dựng NTM của tỉnh.

Đến nay, đã có hơn 30 tỉnh, thành phố trong cả nước học tập và triển khai OCOP theo các quy mô khác nhau, trong một thời gian ngắn đã tạo ra hàng nghìn sản phẩm hàng hóa đa dạng, cho thấy sự sáng tạo của người dân là vô hạn; cả nước đã dấy lên một phong trào mạnh mẽ về phát triển kinh tế nông thôn theo mô hình OCOP.

Hiện cả nước có 6.010 DN, HTX, tổ hợp tác, hộ gia đình (có đăng ký kinh doanh), trong đó có 3.126 DN (chiếm 76,6% số DN sản xuất nông nghiệp trong cả nước), tổ chức sản xuất 4.823 sản phẩm lợi thế thuộc sáu nhóm sản phẩm, trong đó, nhóm thực phẩm có 2.584 sản phẩm; nhóm đồ uống có 1.041 sản phẩm; nhóm thảo dược có 231 sản phẩm; nhóm vải và may mặc có 186 sản phẩm; nhóm lưu niệm – nội thất – trang trí có 580 sản phẩm; nhóm dịch vụ du lịch nông thôn có 201 sản phẩm. Tuy nhiên, mới có 1.086 sản phẩm có đăng ký/công bố tiêu chuẩn chất lượng (chiếm 22,52%); 695 sản phẩm có đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (chiếm 14,4%).

Kết quả này cho thấy, hầu hết các sản phẩm, dịch vụ trên đều có khả năng, dư địa để phát triển, đa dạng hóa sản phẩm và thương mại hóa nếu được chú trọng đầu tư, được chỉ đạo tổ chức thực hiện cụ thể một cách bài bản, thống nhất, đồng bộ.

Từ thực tiễn tại Việt Nam và trên cơ sở đề xuất của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP) – là chương trình được xác định là một giải pháp cụ thể, hiệu quả, giúp thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn thông qua phát triển nhóm sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có lợi thế ở khu vực này.

Chương trình OCOP là chương trình phát triển kinh tế KVNT theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị, triển khai thực hiện chương trình phải bảo đảm phù hợp và thích ứng các yếu tố, quy luật kinh tế thị trường, bảo đảm các nguyên tắc: (i) Sản phẩm hướng tới tiêu chuẩn chất lượng quốc tế; (ii) Tự lực, tự tin và sáng tạo; (iii) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Trọng tâm của Chương trình OCOP là phát triển sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, trong đó, chủ thể thực hiện là các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế HTX. Để khuyến khích phát triển sản phẩm, cả từ ý tưởng và xuất phát từ nhu cầu, khả năng thực tế của mỗi cơ sở sản xuất, chương trình đề ra một “sân chơi”, đó là Chu trình OCOP được thực hiện theo 6 bước, theo nguyên tắc dân biết – dân bàn – dân làm và dân thụ hưởng.

Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, ban hành khung pháp lý và chính sách để hỗ trợ các khâu đào tạo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và định hướng quy hoạch các vùng sản xuất hàng hoá, dịch vụ, không áp đặt ý chí chủ quan, mệnh lệnh hành chính trong sản xuất các sản phẩm OCOP, khuyến khích, hỗ trợ cho các tổ chức kinh tế phát triển sản xuất sản phẩm theo chuỗi giá trị hoàn chỉnh.

Hiện nay, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với 3 thách thức lớn: (i) Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phải cạnh tranh ngày càng gay gắt trong thị trường lớn; (ii) Những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, bất thường; (iii) Hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo áp lực ngày càng lớn cho các sản phẩm trong nước.

Trước những thách lớn này, Chính phủ đang tích cực chỉ đạo ngành nông nghiệp tập trung phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để giải quyết. Trong đó, xây dựng NTM và cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp với định hướng phát triển các nhóm sản phẩm ở 3 cấp độ, đặc biệt là các sản phẩm cấp huyện, cấp xã (mà Chương trình OCOP hướng vào) nhằm thực hiện mục tiêu trong giai đoạn 2018-2020 của Chương trình là tiêu chuẩn hóa gần 2.400 sản phẩm, củng cố 3.920 tổ chức kinh tế tham gia OCOP góp phần thực hiện hiệu quả nhóm tiêu chí “Kinh tế và tổ chức sản xuất” trong Bộ Tiêu chí quốc gia về xã NTM.

Để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020, các bộ, ngành Trung ương, các địa phương cần phải có quyết tâm chính trị cao để triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình OCOP, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, phát triển các HTX, các DN nhỏ và vừa, thúc đẩy khởi nghiệp DN, nhất là đối với DN, doanh nhân trẻ KVNT.

Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Sở Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Trong Hoạt Động Phát Triển Nông Thôn

Nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong hoạt động phát triển nông thôn được quy định như thế nào? Xin chào Ban biên tập Thư Ký Luật. Tôi tên là Minh Thùy, sống tại Bình Dương. Hiện nay tôi đang làm việc trong lĩnh vực môi trường. Tôi đang tìm hiểu về nhiệm vụ quyền hạn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và tôi có một số thắc mắc nhỏ cần được giải đáp. Cụ thể là: Trong hoạt động phát triển nông thôn, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có những nhiệm vụ, quyền hạn gì? Văn bản nào quy định về vấn đề này? Mong nhận được câu trả lời từ Ban biên tập Thư Ký Luật. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban biên tập Thư Ký Luật. (0905***)

Theo quy định tại Khoản 9 Điều 2 Thông tư liên tịch 14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Bộ Nội vụ ban hành thì nhiệm vụ quyền hạn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong hoạt động phát triển nông thôn được quy định như sau:

a) Tổng hợp, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về cơ chế, chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại nông thôn, kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông, lâm, ngư, diêm nghiệp gắn với ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn cấp xã. Theo dõi, tổng hợp báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về phát triển nông thôn trên địa bàn;

c) Hướng dẫn phát triển kinh tế hộ, trang trại, kinh tế hợp tác, hợp tác xã, phát triển ngành, nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh;

d) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác xóa bỏ cây có chứa chất gây nghiện theo quy định; định canh, di dân, tái định cư trong nông nghiệp, nông thôn; đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn;

đ) Tổ chức thực hiện chương trình, dự án hoặc hợp phần của chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; xây dựng khu dân cư; xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn theo phân công hoặc uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Trân trọng!

Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Phát Triển Giao Thông Nông Thôn trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!