Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Bền Vững Và Ổn Định Thị Trường Thực Phẩm – Tạp Chí Điện Tử Làng Mới được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Việc phát triển chăn nuôi lợn bền vững và ổn định thị trường ngành hàng thực phẩm có ý nghĩa quyết định, chi phối các chỉ số phát triển chăn nuôi và thị trường thực phẩm ở nước ta. Do đó, làm thế nào để hạ nhiệt giá thịt lợn và phát triển chăn nuôi lợn ổn định, bền vững luôn nhận được sự quan tâm của xã hội trong thời gian qua.
Năm 2023, chăn nuôi chiếm khoảng 42% giá trị sản xuất nông nghiệp (năm 2023 đạt 38%), trong đó chăn nuôi lợn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 60% sản lượng sản xuất chăn nuôi.
Tác nhân khiến giá thịt lợn tăng cao
Năm 2023, do ảnh hưởng của Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) xảy ra ở 8.537 xã thuộc 667 huyện của 63 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy hơn 6 triệu lợn nhiễm bệnh; không có khả năng tái đàn ở những địa phương chưa công bố hết dịch. Tổng đàn lợn ở thời điểm 31/12/2023 ở mức 20,2 triệu con, thiếu hụt 9 triệu con so với thời điểm cao nhất vào năm 2023. Những tháng đầu năm 2023, đàn lợn dần phục hồi nhưng còn ở mức thấp so với thời điểm chưa có dịch, đạt 24,896 triệu con vào tháng 4/2023.
Thông tin từ Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, trung tuần tháng 5/2023, giá lợn hơi tại miền Bắc giao dịch trong khoảng 92.000 – 95.000 đồng/kg, là mức cao nhất từng thấy ở miền Bắc và cả nước. Sang tháng 6/2023 giá lợn hơi ở miền Bắc ổn định ở mức cao, bình quân trong 4 tuần liên tiếp 92,500 đồng/kg. Một số loại thịt lợn bán tại chợ dân sinh Hà Nội ở thời điểm tháng 5-6/2023 giá trên 220.000 đồng/kg, cao hiếm thấy ở nước ta, tác động mạnh đến mức sống người dân và chỉ số giá tiêu dùng.
Mặc dù Chính phủ, bộ, ngành đã có nhiều giải pháp quyết liệt nhằm hạ giá thịt hơi xuống 70.000 đồng/kg, nhưng đến cuối tháng 6/2023, giá thịt lợn hơi trên thị trường cả nước vẫn “neo” ở mức 88-90 nghìn đồng/kg. Giá lợn thịt còn ở mức cao do các tác nhân sau:
Thứ nhất, nguồn cung trong nước đã và còn mất cân đối với nhu cầu:
Giá thịt lợn sẽ giảm, trở về mức cân bằng khi nguồn cung thỏa mãn về lượng theo nhu cầu của thị trường và thị hiếu người tiêu dùng trong từng thời điểm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nhu cầu lợn thịt xuất chuồng trung bình mỗi quý năm 2023, thời điểm trước khi nước ta có bệnh DTLCP khoảng 920 nghìn tấn, nhưng sản lượng thịt xuất chuồng quý I/2023 đạt hơn 811 nghìn tấn, còn thiếu hụt khoảng 100 nghìn tấn/quý.
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, hết tháng 4/2023, tổng đàn lợn cả nước đạt gần 24,89 triệu con, tương đương 80,3% so với tổng đàn trước khi có bệnh DTLCP, tăng trưởng bình quân 5,78%/tháng. Để kéo giá lợn thịt bình quân xuống 70.000 đồng/kg lợn hơi trên địa bàn cả nước rất khó khăn vì 15 doanh nghiệp lớn và các điểm vệ tinh chỉ chiếm khoảng 35% đàn lợn thương phẩm còn 65% thị phần do các doanh nghiệp nhỏ, trang trại, hộ nông dân nắm giữ, nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu chỉ đạo đồng bộ xuống giá.
Thứ hai, giá thịt lợn tăng cao còn do nhiều khâu trung gian trong lưu thông:
Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, từ khi lợn hơi được xuất chuồng, đến khi sản phẩm thịt đến tay người tiêu dùng phải qua 2-5 khâu trung gian như thương lái thu gom lợn hơi, trung gian giết mổ, thương lái bán buôn, thương lái bán lẻ, chi phí nhiều khâu trước khi đến chợ dân sinh… làm giá thành đội lên trên đơn vị thịt lợn tăng khoảng 43% khi đến tay người tiêu dùng.
Thứ ba, thịt lợn nhập khẩu chưa thay thế lượng thịt lợn tươi sống trong nước bị thiếu hụt:
Mặc dù được tăng cường nhập khẩu thịt đông lạnh từ các nước và lợn sống từ Thái Lan trong thời gian qua, nhưng lượng thịt thực nhập vẫn chưa thể hỗ trợ, bù đắp sự thiếu hụt do sản xuất trong nước còn thiếu. Thói quen người tiêu dùng trong nước sử dụng thịt tươi, thịt đông lạnh luôn cần được bảo quản lạnh, nên thịt nhập khẩu khó tiếp cận thị trường dân sinh.
Thứ tư, chi phí đầu vào chăn nuôi còn cao góp phần đẩy giá thịt lợn lên cao:
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu tăng cao làm giá thức ăn chăn nuôi hỗn hợp tăng, thức ăn hỗn hợp ở nước ta cao hơn một số nước trong khu vực có lúc trên 10%. Chi phí phòng, chống dịch bệnh cũng tăng cao do vào thời điểm này phải áp dụng chặt chẽ các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học,…đẩy giá thịt lợn tăng cao hơn.
Thứ năm, sản phẩm thịt và giống lợn còn cao và gặp các nguy cơ thẩm lậu qua biên giới; các công cụ điều tiết thị trường còn thiếu:
Những nhân tố kìm hãm nguồn cung lợn thịt
Thứ nhất, nguồn cung giống khan hiếm: Năm 2023, tổng đàn lợn nái cả nước ở mức 4 triệu con. Năm 2023, do DTLCP đàn nái giảm còn trên 2,72 triệu con. Đến hết tháng 4/2023, tổng đàn nái của cả nước gần 2,86 triệu con, tăng gần 5% so với 31/12/2023, nhưng số lợn nái còn khoảng cánh khá xa so với năm 2023. Do nhu cầu phục hồi đàn, lợn giống lại khan hiếm, giá lợn giống ở mức 2,5 đến hơn 3 triệu đồng/con. Theo số liệu cân đối của Bộ NN&PTNT, đàn lợn cả nước đạt ngưỡng 29,139 triệu con khi tổng đàn lợn nái đạt ngưỡng 3,011 triệu con vào quý 4/2023.
Thứ hai, vi rút bệnh DTLCP còn rất nguy hiểm, là nguyên nhân chính làm giảm nguồn cung và uy hiếp đàn lợn chăn nuôi theo phương thức nhỏ lẻ ở nước ta trong những tháng qua và thời gian tới: Vi rút Bệnh DTLCP có sức đề kháng cao, đường lây truyền phức tạp, được biết đến lần đầu tiên trên thế giới cho đến nay đã hơn 100 năm, nhưng chưa có vắc xin phòng bệnh thương phẩm. Năm 2023, DTLCP hoành hành ở nước ta khiến gần 6 triệu con lợn bị tiêu hủy. Trong 5 tháng đầu năm 2023, DTLCP tiếp tục bùng phát tại 47 xã, dịch chưa được khống chế hoàn toàn.
Thứ ba, người chăn nuôi, địa phương còn tâm lý e ngại dịch bệnh tái phát, thiếu nguồn lực trong tái đàn là những trở ngại khó vượt qua trong giai đoạn trước mắt: Một số địa phương chậm thông báo hết dịch; chưa thực sự quyết tâm trong chỉ đạo, hướng dẫn tái đàn, tăng đàn vì e ngại tái phát dịch sẽ phát sinh hệ lụy cho địa phương. Có nơi chậm thanh toán tiền hỗ trợ thiệt hại do DTLCP cho người chăn nuôi; người chăn nuôi còn gặp khó khăn khi tiếp cận chính sách về tín dụng, lãi suất ưu đãi để tái đàn, tăng đàn. Các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai về chăn nuôi, về an sinh xã hội (bảo hiểm y tế, phòng chống rủi ro thiên tai, …) chưa bao quát được các mặt đời sống, sản xuất của nông dân.
Thứ tư, năng lực hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về dịch bệnh có phần giảm sút: Theo Bộ NN&PTNT, mặc dù có chỉ đạo của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ về cùng cố hệ thống thú y đáp ứng công tác bảo vệ đàn vật nuôi và đảm bảo ATTP, nhưng đến tháng 4/2023 đã có 4 tỉnh đã sáp nhập Chi cục Thú y với các ngành khác, còn lại 59 tỉnh có tổ chức Chi cục Thú y/Chi cục Chăn nuôi và Thú y; 32/63 tỉnh, thành phố đã sáp nhập Trạm Thú y (trực thuộc Chi cục Chăn nuôi và Thú y) với các ngành khác và chuyển thành Trung tâm dịch vụ nông nghiệp trực thuộc UBND cấp huyện quản lý; 23 tỉnh hiện nay không có nhân viên thú y xã. Trong khi đó, chăn nuôi gia súc, gia cầm tại Việt Nam theo quy mô nhỏ lẻ, trong dân vẫn còn phổ biến, do vậy việc áp dụng các biện pháp chăn nuôi an tòan sinh học và kiểm soát dịch bệnh sẽ rất khó khăn khi bộ máy quản lý dịch bệnh đàn vật nuôi ngày càng suy giảm cả nhân lực và thế lực.
Thứ năm, động lực của các chủ hộ, trang trại, HTX chăn nuôi sau dịch bị tổn thất, khó phục hồi do: Đã cạn kiệt vốn để đầu tư chăn nuôi: 70-80% các trang trại/HTX hiện thiếu vốn trầm trọng để mua thức ăn, con giống trong khi nợ tín dụng chưa trả được nên không vay mới được ở các ngân hàng; Thiếu vật tư, điều kiện trang bị đầu vào: giống khan hiếm, giá quá cao không thể tái đàn; nhiều trang trại không thể áp dụng công nghệ cao và các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi nên rủi ro cao;
Tâm lý dịch bệnh uy hiếp chủ thể chăn nuôi: thực tiễn diễn biến dịch còn phức tạp; hiện có đến 41,9% số trang trại còn các khu dân cư, điều kiện cách ly phòng bệnh rất khó khăn.
Đề xuất giải pháp trung và dài hạn
Giá thịt lợn có thể vẫn còn tiếp tục giữ ở mức cao trong ngắn hạn, hoặc duy trì ở mức cao trong nhiều tháng tới cho đến hết năm 2023 vì những tác nhân gây tăng giá khó được giải quyết trong thời gian ngắn. Để phục hồi nguồn cung thịt lợn và ổn định thị trường cần thực hiện giải pháp sau: Giải pháp trước mắt và trung hạn: Thống nhất về nhận thức, đồng bộ trong chỉ đạo và thực hiện tháo gỡ vướng mắc, tạo môi trường thuận lợi để phục hồi nguồn cung và ổn định thị trường, giá cả:
Kiện toàn, tăng cường năng lực hệ thống cơ quan quản lý nông nghiệp, thú y, chăn nuôi, chất lượng, ATTP các cấp; ban hành “Kế hoạch quốc gia phòng, chống bệnh DTLCP giai đoạn 2023 – 2025”; chỉ đạo nghiên cứu vắc xin DTLCP; nghiên cứu, sản xuất các loại vắc xin, thuốc thú y phòng trị dịch, bệnh khác trên đàn gia súc, gia cầm, thủy sản phù hợp điều kiện Việt Nam;
Sắp xếp lại hệ thống cung ứng mặt hàng thịt, giảm trung gian, chi phí gián tiếp, tăng lợi ích người chăn nuôi; chống buôn bán lậu sản phẩm chăn nuôi và giống, bảo vệ thị trường không bị tác động từ bên ngoài; ban hành chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhập khẩu thịt lợn trong gian đoạn trước mắt; doanh nhiệp nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị phát triển chăn nuôi; điều hành không để nguồn cung vật tư, nguyên liệu chăn nuôi, mặt hàng thịt bị gián đoạn;
Tổ chức chăn nuôi, tái đàn, tăng đàn lợn đáp ứng nguồn cung theo nguyên tắc an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh.
Thực thiện các gói hỗ trợ nâng cao năng lực chủ thể chăn nuôi nông hộ, trang trại và hợp tác xã: Ban hành chính sách đặc thù khắc phục bệnh DTLCP và khắc phục khủng hoảng giá thịt lợn; hỗ trợ lãi suất tín dụng cho các đối tượng: Chăn nuôi hộ, trang trại, hợp tác xã bị DTLCP vay để mua giống, phát triển hạ tầng chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học. Cho các doanh nghiệp nhập khẩu thịt lợn, doanh nghiệp logistics, chế biến nông sản vay vốn kinh doanh với lãi suất ưu đãi.
Rà soát, tạo điều kiện thuận lợi, mặt bằng đất đai để người chăn nuôi, doanh nghiệp tái đàn theo hướng an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh. Chi trả kinh phí cho các hộ, cơ sở bị thiệt hại do DTLCP để có nguồn lực tái đàn, tăng đàn lợn.
Coi trọng việc củng cố và tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, an toàn sinh học ở đàn vật nuôi:
Tăng cường kinh phí Trung ương và địa phương dành cho phòng chống dịch bệnh, đặc biệt đối với DTLCP.
Tổng kết thực tiễn, đúc rút và phổ biến bài học kinh nghiệm, cánh làm hay của một số địa phương đã thực hiện trong thực tiễn.
Giải pháp dài hạn
Đột phá mới về chính sách, tạo cuộc cách mạng trong phát triển chăn nuôi bền vững và trở thành ngành kinh tế chủ lực:
Ban hành chính sách quốc gia về phát triển chăn nuôi theo hướng hiện đại, bền vững trong bối cảnh mới ở Việt Nam. Với trọng tâm, phát triển chăn nuôi trở thành ngành kinh tế chủ lực; gắn với quy hoạch sử dụng nguồn nguyên liệu trồng trọt, thủy sản đa dạng trong nước, với công nghiệp chế biến và thị trường, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu; ứng dụng công nghệ cao, công nghệ 4.0 vào sản xuất, quản lý.
Ban hành gói chính sách hỗ trợ tái cơ cấu chủ thể chăn nuôi, tạo cuộc cách mạng trong thay đổi phương thức chăn nuôi, cơ cấu vật nuôi; phát triển chăn nuôi trong điều kiện an toàn dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo bệ tài nguyên, môi trường. Trong cơ cấu lại chủ thể chăn nuôi, chú trọng cơ cấu lại chăn nuôi nông hộ, những hộ theo đuổi nghề phải tham gia chuỗi sản xuất được kiếm soát, đáp ứng điều kiện pháp luật về chăn nuôi, thú y, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm, xuất xứ nguồn gốc, môi trường; được hỗ trợ đào tạo chuyên môn, đầu tư, phát triển thị trường. Những hộ không theo đuổi nghề có chính sách chuyển đổi sinh kế phù hợp.
Đổi mới tư duy, cơ chế quản lý thị trường, tổ chức ngành hàng thịt hiện đại, bền vững:
Điều tiết cung cầu ngành hàng thịt lợn trên cơ sở tổ chức chuỗi ngành hàng; áp dụng công nghệ thông minh vào điều tiết cung cầu; bổ sung những công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả; tổ chức tốt chuỗi cung ứng thị lợn chợ dân sinh; phát triển mạnh các loại hình thị trường hiện đại; tăng cường chế biến gắn với nhu cầu thị hiếu của các phân khúc thị trường ngành hàng thịt; đa dạng nguồn cung;
Đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng website thương mại điện tử, đưa sản phẩm nông sản lên các sàn giao dịch điện tử; xây dựng trung tâm đấu giá, sàn giao dịch nông sản quốc tế tại Việt Nam.
Từ khi lợn hơi được xuất chuồng, đến khi sản phẩm thịt đến tay người tiêu dùng phải qua 2-5 khâu trung gian như thương lái thu gom lợn hơi, trung gian giết mổ, thương lái bán buôn, thương lái bán lẻ, chi phí nhiều khâu trước khi đến chợ dân sinh… làm giá thành đội lên trên đơn vị thịt lợn tăng khoảng 43% khi đến tay người tiêu dùng.
Rà soát, tạo điều kiện thuận lợi, mặt bằng đất đai để người chăn nuôi, doanh nghiệp tái đàn theo hướng an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh. Chi trả kinh phí cho các hộ, cơ sở bị thiệt hại do DTLCP để có nguồn lực tái đàn, tăng đàn lợn.
Nguyễn Văn Tốn – Phó Vụ trưởng, Vụ NN&PTNT-Ban Kinh tế Trung ương
Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Bền Vững
Sở NN-PTNT Hà Nội vừa tổ chức hội nghị “Bàn giải pháp phát triển chăn nuôi bền vững với diễn biến dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn thành phố”.
Thiệt hại 600 tỷ đồngNgành chăn nuôi Việt Nam chưa bao giờ gặp khó khăn do bệnh dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) như hiện nay. Trong chăn nuôi, chăn nuôi lợn chiếm tỉ trọng quá lớn so với các đối tượng chăn nuôi khác.
Cục trưởng Cục chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương phát biểu tại hội nghị.
Ông Nguyễn Huy Đăng, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Hà nội chia sẻ, DTLCP đang diễn biến hết sức phức tạp và có chiều hướng lan rộng. Tại Hà Nội, dịch xảy ra từ ngày 23/2 tại phường Ngọc Thụy (Q. Long Biên). Tính đến ngày 12/6, thành phố ước thiệt hại trên 600 tỷ đồng.
“Đến nay, thành phố đang tập trung chỉ đạo các giải pháp ứng phó với dịch bệnh, hạn chế thấp nhất rủi ro, thiệt hại. Đảm bảo hỗ trợ kịp thời cho người chăn nuôi, có kế hoạch phát triển chăn nuôi bò, chăn nuôi gia cầm, thủy sản để dần thay thế thịt lợn nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng sản phẩm động vật cho người tiêu dùng trên địa bàn thành phố”, ông Đăng cho hay.
Theo Cục Thống kê Hà Nội, tính đến ngày 1/4, đàn lợn của Hà Nội còn hơn 1,5 con giảm 5,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhu cầu tiêu thụ thịt lợn dao động từ 650 – 700 tấn thịt lợn/ngày, tương đương với 270,2 – 280,5 nghìn tấn/năm.
Do DTLCP xảy ra nên sản lượng thịt lợn năm 2023 ước đạt 200 – 220 nghìn tấn/năm, đạt 60 – 65% nhu cầu tiêu thụ, thiếu hụt 90 – 100 nghìn tấn thịt lợn cần cho nhu cầu thực phẩm cho người dân thành phố.
Để chăn nuôi lợn an toàn, có hiệu quả trước “bão dịch”, ông Đăng bảo, Hà Nội đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi. Tập trung xử lý môi trường. Thu hút đầu tư, tư vấn cho các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong khâu sơ chế, giết mổ…
Ông Đăng khuyến cáo, các chủ trang trại, gia trại khi tái đàn phải báo cáo với cán bộ thú y các cấp. Nếu cố tình tái đàn, khi đàn lợn mắc dịch sẽ không có hỗ trợ.
Trong khi đó, Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương khẳng định, chúng ta xác định phải sống chung với DTLCP. Và, chắc chắn vẫn phải tái đàn, nhưng tái đàn như thế nào cho đúng hướng, đúng cách trong tình hình hiện nay.
Toàn cảnh hội nghị.
Theo ông Dương, những hộ, khu vực chăn nuôi đã dính dịch, tuyệt đối không được phép tái đàn, bởi nguy cơ mắc dịch vẫn còn cao. Song, ở những trang trại nằm trong vùng an toàn dịch thì cho phép tái đàn. Khi tái đàn, phải kiểm tra, vệ sinh chuồng trại, lấy mẫu con giống và con giống phải được chuyển đi bằng xe có đăng ký, đảm bảo sạch sẽ.
Giải phápÔng Nguyễn Trọng Long, Giám đốc HTX Hoàng Long chia sẻ, trong thời gian qua ngành chăn nuôi lợn của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng gặp nhiều sóng gió. Tuy nhiên, việc chăn nuôi lợn của HTX vẫn phát triển ổn định với quy mô 450 lợn nái và 4.000 lợn thịt.
Để phát triển ổn định đàn lợn nái và lợn thịt như trên, đặc biệt trong bối cảnh bệnh DTLCP đang hoành hành, HTX Hoàng Long đã thực hiện triệt để các giải pháp như áp dụng triệt để các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản (giữ đàn lợn trong môi trường được bảo vệ nghiêm ngặt. Chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý tốt đàn lợn, tạo sức khỏe và sức đề kháng cho đàn lợn. Kiểm soát chặt chẽ khu vực chăn nuôi).
Tổ chức chăn nuôi theo chuỗi khép kín và ứng dụng công nghệ cao gắn với tiêu thụ sản phẩm. Ổn định giá các sản phẩm của chuỗi trên thị trường dựa trên cơ sở ổn định giá thành sản phẩm của chuỗi; tạo uy tín, chất lượng sản phẩm đối với người tiêu dùng; củng cố và phát triển thượng hiệu chuỗi.
Là một trong những đơn vị tiêu thụ thịt lợn trên địa bàn Hà Nội, đại diện Chuỗi thực phẩm sạch Organic Green chia sẻ, để có được những sản phẩm đảm đảo chất lượng cao, giá thành hợp lý, Cty đã liên kết với các trang trại chăn nuôi lợn trên địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội nhằm xây dựng chuỗi liên kết SX thịt lợn truy xuất nguồn gốc.
Đến nay, các sản phẩm của Cty được bán rộng rãi trên các hệ thống siêu thị, khách sạn, bếp ăn… trên địa bàn Hà Nội.
MAI CHIẾN – HƯNG GIANG
Phát Triển Chăn Nuôi Bền Vững
Một số thách thức
– Ngành chăn nuôi đang đứng trước nguy cơ mất cân bằng do một số lĩnh vực phát triển nóng, đạt ngưỡng cao về năng suất, sản lượng, sản phẩm tiêu thụ khó. Trong khi đó, một số loài vật nuôi luôn gặp khó khăn về kiểm soát dịch bệnh, tác động đến giá và năng lực phát triển ngành. Về cơ cấu, chăn nuôi nhỏ lẻ còn lớn; mật độ có nơi còn cao; đa dạng về phương thức, hình thức chăn nuôi; ở nhiều nơi chăn nuôi chưa phù hợp với nguyên lý phòng chống dịch bệnh; tỷ lệ vùng, cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh còn thấp…
– Trước áp lực hội nhập, thể chế ngành có nhiều đổi mới, phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế làm ảnh hưởng không nhỏ tới đầu tư, phát triển hạ tầng ở các cơ sở chăn nuôi hiện nay.
– Công tác kiểm soát dịch bệnh, chất lượng, an toàn thực phẩm, môi trường và lưu thông, chế biến chịu áp lực mạnh mẽ từ trong nước và quốc tế, đòi hỏi Nhà nước và xã hội thiết lập hệ thống kiểm soát dịch bệnh, chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm, cung ứng, thị trường và giám sát môi trường chăn nuôi phù hợp với xu thế, hiện đại, hội nhập quốc tế.
Giải pháp nào?
Trong thời gian tới, ngành chăn nuôi nước ta sẽ phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững và hội nhập sâu; đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu; bảo vệ môi trường, an sinh xã hội. Để đạt các mục tiêu đó cần một chiến lược và giải pháp tổng thể; trong đó cần tập trung một số nhóm giải pháp cơ bản:
Đổi mới và hoàn thiện chủ trương, thể chế, chính sách
Các cấp ủy đảng các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng hiện đại, bền vững, gia tăng giá trị, phù hợp với xu hướng, thị hiếu thị trường, sản phẩm có sức cạnh tranh cao, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Lãnh đạo chỉ đạo, xây dựng cơ chế, chính sách cơ cấu lại khu vực chăn nuôi nhỏ lẻ theo chuỗi giá trị, hiện đại, lớn hơn về quy mô, giảm lượng cơ sở chăn nuôi nhỏ lẻ; có chính sách khuyến khích các cơ sở nhỏ lẻ còn tiếp tục chăn nuôi phải sản xuất theo chuỗi giá trị và hỗ trợ đào tạo năng lực, trình độ để bắt kịp với hình thức sản xuất mới. Những cơ sở không có khả năng chăn nuôi, hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề và sinh kế mới.
Hoàn thiện chính sách, môi trường pháp lý, hệ sinh thái mới để chăn nuôi theo chuỗi giá trị được phát triển thuận lợi. Hoàn thiện chính sách khuyến khích dẫn dắt của doanh nghiệp, nâng cao vai trò hợp tác xã, các hình thức hợp tác và khuyến khích nông dân sản xuất theo chuỗi, thực hiện nghĩa vụ, hưởng lợi ích theo cam kết, sản xuất, kinh doanh theo tiêu chuẩn, quy trình đồng nhất. Khuyến khích đầu tư ứng dụng công nghệ tiên tiến, giảm thiểu ô nhiễm, dịch bệnh, sản phẩm chất lượng cao, an toàn thực phẩm, cạnh tranh cho ngành chăn nuôi. Coi ứng dụng khoa học và công nghệ trong chăn nuôi, chế biến là yếu tố quyết định để có sản phẩm chất lượng cao, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững.
Hoàn thiện chính sách phát triển nguồn lực, tạo ra bước đột phá mới trong phát triển chăn nuôi nước ta; rà soát, điều chỉnh các chính sách về đất đai, đầu tư, phát triển trang trại, chính sách thuế, tín dụng, chính sách giống vật nuôi…
Rà soát và thực hiện quy hoạch chăn nuôi trong phạm vi toàn quốc
Xây dựng, rà soát, điều chỉnh và nâng cao chất lượng quy hoạch chăn nuôi ở địa phương trên toàn quốc gắn với thị trường, đảm bảo tính khả thi, tuân thủ quy hoạch, từng bước hạn chế sản xuất tự phát, không điều tiết được cung cầu. Rà soát và quy hoạch đất đai đủ nhu cầu cho phát triển chăn nuôi trong lâu dài, quy định vùng khuyến khích chăn nuôi, vùng hạn chế chăn nuôi và vùng cấm chăn nuôi. Có chính sách thu hút đầu tư cho các khu vực khuyến khích chăn nuôi, xác định quy mô phát triển chăn nuôi cho từng vùng miền và cho từng địa phương trong trung hạn, dài hạn gắn với bảo vệ môi trường. Rà soát, điều chỉnh, hạn chế mở mới các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp; điều chỉnh lại cơ cấu chất lượng đàn giống, phương thức chăn nuôi phù hợp với từng phân khúc thị trường, điều kiện tự nhiên, xã hội từng địa phương. Đầu tư phát triển các sản phẩm địa phương có lợi thế, xây dựng thương hiệu, tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm. Trong trung hạn và lâu dài, Việt Nam phải tổ chức được chăn nuôi trong vùng, khu vực, cơ sở đảm bảo an toàn dịch bệnh, hướng tới chủ động kiểm soát dịch bệnh trên vật nuôi, bệnh lây giữa người và động vật, đảm bảo nguồn cung dinh dưỡng chất lượng cao, an toàn, ổn định và bảo vệ môi trường.
Tổ chức hoạt động sản xuất theo chuỗi giá trị
Tổ chức lại sản xuất chăn nuôi theo các chuỗi liên kết từ cung cấp đầu vào cho sản xuất đến giết mổ, sơ chế, chế biến, lưu thông, tiêu thụ. Khuyến khích hình thức chăn nuôi theo hợp đồng giữa các doanh nghiệp, chủ trang trại lớn có điều kiện về vốn, tiêu thụ sản phẩm; liên kết giữa các gia trại, trang trại nhỏ hơn với cơ sở giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Hoàn thiện pháp luật và chính sách liên kết sản xuất nông sản theo hợp đồng, Nhà nước có vai trò trung gian hỗ trợ, trọng tài, tạo dựng lòng tin cho các bên tham gia chuỗi liên kết.
Đột phá thu hút đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển giống vật nuôi
Thực hiện Chương trình giống vật nuôi quốc gia phù hợp với bối cảnh mới, để đảm bảo cung cấp giống vật nuôi chủ lực chất lượng tốt (heo, gia cầm, bò sữa, bò thịt); hệ thống thụ tinh nhân tạo được chú trọng đặc biệt về đầu tư và quản lý nhà nước. Hoàn thiện chính sách, cơ chế thu hút nguồn lực cho nghiên cứu khoa học, khuyến khích và tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, ứng dụng giống vật nuôi, quy trình chăn nuôi có năng suất, chất lượng tốt vào sản xuất; chọn tạo các giống vật nuôi bản địa có ưu thế, tạo ra các sản phẩm chăn nuôi có sức cạnh tranh trên thị trường. Xây dựng chính sách hỗ trợ các cơ sở nuôi giữ giống gốc theo hướng thị trường, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Hỗ trợ thích ứng, thúc đẩy hội nhập quốc tế ngành chăn nuôi
Xây dựng chiến lược ngành chăn nuôi trong giai đoạn hội nhập quốc tế mới; hoàn thiện hệ thống luật pháp về chăn nuôi, thú y… phù hợp với quy định quốc tế. Xây dựng chính sách hỗ trợ về đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức, tư duy quản lý, thương mại… cho các chủ thể quản lý và hoạt động trong ngành chăn nuôi.
Đánh giá những mối nguy cơ, thách thức, ban hành những chính sách bảo vệ thị trường trong nước sản xuất, phù hợp với các quy định về bảo hộ, phòng vệ trong thương mại.
Ban hành các chính sách khuyến khích nghiên cứu, phát triển ngành hàng, sản phẩm có lợi thế, sản phẩm đặc trưng vùng miền được sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế, thâm nhập thị trường thế giới; sản xuất những ngành hàng cạnh tranh kém hơn ở mức độ phù hợp, tiêu dùng trong nước.
Đổi mới công tác quản lý nhà nước
Tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Phát huy vai trò hội, hiệp hội ngành nghề tham gia: Xây dựng chính sách phát triển ngành, điều tiết sản xuất, thị trường, đổi mới sáng tạo một số dịch vụ công…
Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Lợn Bền Vững
Giải pháp phát triển chăn nuôi lợn bền vững
Trang trại chăn nuôi lợn tại xã Vân Sơn (Triệu Sơn).
Sau dịch bệnh tả lợn châu Phi, tỉnh Thanh Hóa đặc biệt quan tâm đến việc tái đàn, bảo đảm an toàn dịch bệnh để phát triển chăn nuôi bền vững.
Theo đó, ngay từ thời điểm dịch bệnh tả lợn châu Phi đang bùng phát mạnh năm 2023, tỉnh đã có giải pháp, chính sách cụ thể để bảo vệ, duy trì đàn lợn giống ông bà, bố mẹ. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp ngăn chặn, khống chế dịch bệnh hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh gây ra, từ đó tạo môi trường an toàn cho người chăn nuôi đầu tư tái sản xuất. Chủ động phát hiện, xử lý các trường hợp lợn không rõ nguồn gốc, không được kiểm dịch từ các tỉnh bị dịch vào địa bàn tỉnh.
Cùng với đó, chú trọng hướng dẫn kỹ thuật cho các cơ sở chăn nuôi lợn áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các cơ sở chăn nuôi, nhất là tái đàn, tăng đàn, kiên quyết không thực hiện tái đàn đối với những cơ sở chăn nuôi không bảo đảm các điều kiện chăn nuôi an toàn sinh học. Thực hiện chuyển đổi con nuôi đối với các cơ sở chăn nuôi lợn không đủ điều kiện để tái đàn. Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý con giống, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở sản xuất lợn giống trên địa bàn tăng cường nhân giống, cung ứng con giống có chất lượng, bảo đảm an toàn dịch bệnh cho người chăn nuôi để thực hiện tái đàn, tăng đàn. Đồng thời, thực hiện hỗ trợ nhanh, kịp thời cho các hộ chăn nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh tả lợn châu Phi, tạo điều kiện về nguồn vốn để các hộ, cơ sở chăn nuôi lợn tái đàn, khôi phục sản xuất.
Thực hiện có hiệu quả các giải pháp khôi phục chăn nuôi lợn, nên đàn lợn trên địa bàn tỉnh đã được khôi phục đáng kể. Hiện, tổng đàn lợn toàn tỉnh được khôi phục và duy trì gần 1,2 triệu con, đạt 98% so với trước thời điểm xảy ra dịch bệnh tả lợn châu Phi. Chăn nuôi lợn chuyển biến theo hướng tích cực, chăn nuôi lợn nông hộ giảm chỉ còn chiếm 60%, chăn nuôi trang trại phát triển, chiếm tới 40%. Đây có thể xem là bước chuyển tạo ra cơ hội lớn để chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh phát triển theo hướng bền vững.
Chi cục Chăn nuôi và Thú y đánh giá, mặc dù chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh đã cơ bản được khôi phục trở lại, song nguy cơ tiềm ẩn bùng phát các loại dịch bệnh vẫn còn cao, nhất là dịch bệnh tả lợn châu Phi. Do đó, để chăn nuôi lợn phát triển bền vững, các địa phương, cơ sở và hộ chăn nuôi lợn cần tiếp tục chủ động thực hiện các giải pháp phòng, chống hiệu quả các loại dịch bệnh thông qua việc tăng cường quản lý con giống, tiêm đầy đủ các loại vắc-xin phòng bệnh, vệ sinh tiêu độc, khử trùng cơ sở, môi trường chăn nuôi định kỳ, thường xuyên. Quản lý chặt chẽ công tác vận chuyển, giết mổ, kinh doanh lợn và các sản phẩm từ lợn.
Hiện nay, chăn nuôi lợn cả nước và trên địa bàn tỉnh đang gặp khó khăn về nguồn giống. Vì vậy, để chăn nuôi lợn phát triển ổn định, bền vững cần khuyến khích các cơ sở chăn nuôi đầu tư sản xuất con giống, giới thiệu các cơ sở sản xuất con giống đạt chất lượng, an toàn dịch bệnh, có giấy chứng nhận kiểm dịch. Đồng thời, thực hiện việc kiểm dịch, lấy mẫu giám sát định kỳ, thường xuyên kiểm tra chất lượng con giống, tinh lợn đực giống. Bên cạnh đó, tăng cường áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học.
Cùng với các giải pháp về phòng, chống dịch bệnh, quản lý con giống, ngành nông nghiệp cùng chính quyền các địa phương và hộ chăn nuôi cần chú trọng thực hiện giải pháp về kêu gọi, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư phát triển chăn nuôi lợn bằng cách liên kết, hợp tác đầu tư và bao tiêu sản phẩm; thu hút các doanh nghiệp có đủ năng lực đầu tư vào lĩnh vực giết mổ, chế biến, gắn liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, nhằm nâng cao giá trị và phát triển bền vững.
Châu Giang
Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Gia Cầm Bền Vững
Ngành chăn nuôi trong những năm qua đạt mức tăng trưởng 5-6%/năm. Trong đó chăn nuôi gia cầm đã cơ bản đáp ứng thực phẩm cho nhu cầu trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận lớn nông dân. Con số này sẽ cao hơn nếu ngành chăn nuôi có những giải pháp phát triển bền vững.
Theo Cục chăn nuôi, hiện tổng đàn gia cầm của cả nước khoảng hơn 308 triệu con, trong đó hai vùng có số lượng gia cầm lớn nhất là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, với tốc độ bình quân mỗi năm tăng 4,4 và 6%. Trong đó, các loại giống gia cầm khá phong phú, với hơn 50 loại giống gia cầm các loại, tuy nhiên chủ yếu là tự phát, thiếu sự quản lý và quy hoạch giống.
Để ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi gia cầm nói riêng phát triển bền vững, theo TS Trần Công Xuân, Chủ tịch Hiệp hội gia cầm Việt Nam: Trước hết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp Tổng cục Thống kê để thống nhất phương pháp thống kê sản lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm của ngành chăn nuôi, vì đây là chỉ tiêu cực kỳ quan trọng đối với ngành chăn nuôi nhằm đánh giá đúng vị trí và đóng góp của ngành chăn nuôi, là cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển ngành chăn nuôi.
Hai là, cần đầu tư các cơ sở nuôi giữ, bảo tồn, chọn lọc, nhân các giống gia cầm trong nước quý để làm nguyên liệu lai giữa các giống gia cầm nội và lai giữa các giống gia cầm nội với gia cầm ngoại, tạo con lai thương phẩm có năng suất, chất lượng cao, cung cấp cho thị trường trong nước và hướng xuất khẩu. Khuyến khích phát triển cây nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi để giảm nhập, giảm giá thành thức ăn. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở giết mổ tập trung và kinh doanh thực phẩm có nguồn gốc và động vật, giao đất vĩnh viễn hoặc có thời hạn dài để chủ đầu tư yên tâm đầu tư phát triển cơ sở giết mổ tập trung và công nghiệp. Quy hoạch xây dựng chợ đầu mối để kiểm soát vận chuyển trước khi cung ứng cho các cơ sở giết mổ theo vùng và theo chuỗi cung ứng.
Ba là, khả năng sản xuất của ngành chăn nuôi trong nước rất lớn, không những cung cấp dư thừa cho nhu cầu trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu, do đó cần phải bảo hộ người chăn nuôi trong nước. Muốn vậy, cùng với việc quan tâm đào tạo nghề chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng cho người chăn nuôi kể cả quản lý và khoa học kỹ thuật, các cơ quan chức năng, nhất là ủy ban nhân dân các cấp của các tỉnh biên giới và giáp biên giới cần thực hiện nghiêm túc Công điện 1180 ngày 31-7-2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngăn chặn nhập lậu các sản phẩm chăn nuôi chưa kiểm soát qua biên giới. Nên chăng không khuyến khích các tập đoàn, các cơ sở nước ngoài vào Việt Nam tổ chức sản xuất chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng, cũng như hạn chế nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi kể cả chính ngạch.
Tìm Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Lợn Bền Vững
Biên phòng – Chăn nuôi lợn đang tạo thu nhập cho khoảng 1/3 số hộ nông dân sản xuất nông, lâm, thủy sản. Đặc biệt, hình thức chăn nuôi nông hộ rất phổ biến ở vùng biên giới, dân tộc thiểu số và đóng góp đáng kể vào thu nhập của các hộ dân. Tuy nhiên, chăn nuôi nông hộ đang chịu nhiều tác động nhất từ dịch bệnh.
Chăn nuôi lợn mang lại thu nhập cho hơn 3,4 triệu gia đình. Ảnh: Bích Nguyên
Thu nhập cho hơn 3 triệu nông hộ
Theo nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, ngành hàng lợn Việt Nam tạo thu nhập cho hơn 3,4 triệu hộ dân trong tổng số 9,32 triệu hộ sản xuất nông, lâm, thủy sản. Việt Nam là nước xếp thứ 5 trong top 10 quốc gia sản xuất thịt lợn với sản lượng móc hàm đạt 2,8 triệu tấn (2023), sau Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, Brazil, Nga. Những năm trước đây, chăn nuôi lợn tăng trưởng với tốc độ 1,5%/năm. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi lợn những năm qua liên tục lâm vào tình trạng bất ổn về cung – cầu khiến đầu ra luôn bấp bênh, giá lợn hơi xuất chuồng luôn biến động ngoài tầm kiểm soát.
Từ cuối 2023 đến hết năm 2023, giá lợn giảm mạnh, quanh mức 25.000-30.000 đồng/kg và giảm sâu khi dịch tả lợn châu Phi bắt đầu nổ ra hồi đầu năm 2023. Dịch tả lợn châu Phi đã tác động đến cung – cầu, giá cả thị trường. Đến cuối năm 2023, giá thịt lợn tăng “phi mã” và ở thời điểm hiện tại vẫn ở mức hơn 100.000/kg do chưa tái đàn đủ.
Các hộ nông dân nuôi lợn bị ảnh hưởng nhiều nhất từ tác động của dịch bệnh, đặc biệt không được hưởng lợi nhiều dù giá lợn tăng cao. Nghiên cứu về tác động của dịch bệnh tới cung – cầu ngành hàng lợn và sinh kế hộ chăn nuôi trong năm vừa qua cho thấy, còn khoảng cách lớn về giá giữa người bán lẻ và người chăn nuôi, khiến lợi nhuận của nông hộ chăn nuôi thấp. Cục Chăn nuôi cho rằng, một trong những nguyên nhân khác khiến thịt lợn khó giảm giá là lợn hơi xuất chuồng đến tay người tiêu dùng phải qua 2-5 khâu trung gian, làm tăng giá thịt lợn (gần 43%).
Trong 2 năm 2023-2023, hàng trăm nghìn hộ chăn nuôi đã bị thua lỗ do dịch bệnh cùng với giá thịt lợn thấp. Khi giá thịt lợn lên cao, nông dân chăn nuôi nhỏ lại không có lợn xuất bán. Vì thế, người nông dân nuôi lợn không được hưởng lợi. Tại thời điểm này, khi dịch tả lợn châu Phi đã được khống chế, việc tái đàn được khuyến khích, nhưng nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hầu như không đủ vốn để tái đàn. Ví dụ như tại Yên Bái, tỉ lệ chăn nuôi hộ gia đình chiếm 65% tổng đàn lợn của địa phương. “Khó khăn hiện nay trong tái đàn là con giống, tiếp đến là vốn. Chúng tôi đã phải giảm điều kiện về quy mô chăn nuôi và tăng mức hỗ trợ cho các hộ nông dân” – Ông Đỗ Đức Duy, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái cho biết.
Để phát triển bền vững
Ông Nguyễn Việt Hưng, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho biết, rủi ro dịch bệnh tới ngành hàng lợn và sinh kế hộ gia đình chăn nuôi lợn trong bối cảnh hội nhập là rất lớn. Do đó, về lâu dài, phải có chiến lược phát triển chăn nuôi lợn bền vững. Trong bối cảnh hiện nay, điều đầu tiên cần làm là phải tái đàn lợn thành công.
“Nếu không thực hiện nhanh, hiệu quả việc tái đàn, chúng ta sẽ mất một góc thị phần của ngành chăn nuôi lợn. Chắc chắn không thể để giá lợn cao mãi như này được, sẽ phải có nhiều giải pháp để điều hành. Do đó, ngoài 15 doanh nghiệp nòng cốt chiếm khoảng 35% thị phần rất cần sự vào cuộc, chung tay của các trang trại, gia trại, chăn nuôi lợn nông hộ” – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Về mặt giải pháp, ở góc nhìn từ địa phương, ông Duy cho rằng, Chính phủ và Bộ NN&PTNT cần có giải pháp đảm bảo bình ổn, phát triển chăn nuôi lợn phục vụ trong nước và xuất khẩu, tránh mất cân đối cung – cầu và biến động giá, bởi địa phương cũng như các hộ chăn nuôi rất lo lắng về đầu ra sản phẩm. Đồng thời, đẩy mạnh cung ứng con giống thương phẩm an toàn cho các hợp tác xã, hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT hỗ trợ địa phương các biện pháp kỹ thuật để đảm bảo chăn nuôi an toàn sinh học.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, bài học rút ra trong quá trình phòng, chống dịch tả lợn châu Phi đến nay là phải chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh. Nếu làm tốt công tác an toàn sinh học, dịch bệnh rất khó để xâm nhập vào chuồng trại, hoặc nếu có xâm nhập vẫn đủ thời gian và biện pháp để xử lý, khắc phục để giảm thiệt hại xuống mức thấp nhất. Bộ NN&PTNT đang chỉ đạo, khuyến khích các địa phương tăng đàn, tái đàn, song phải đảm bảo đáp ứng an toàn sinh học. Khai thác và phát triển nguồn gen giống lợn theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả; hỗ trợ xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các giống vật nuôi bản địa chất lượng cao, có lợi thế.
Để giảm thiểu tác động của dịch bệnh và hội nhập thành công, các chuyên gia khuyến nghị, cần phải tận dụng cơ hội do hội nhập mang lại tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng: Ưu tiên hỗ trợ các địa phương, các doanh nghiệp xây dựng các chuỗi, vùng an toàn dịch bệnh, tổ chức chăn nuôi gắn với giết mổ, chế biến và kết nối thị trường theo các chuỗi liên kết khép kín. Bên cạnh đó, cần kiểm soát tốt công tác tái đàn; hỗ trợ đền bù thiệt hại, hỗ trợ phát triển có trọng điểm; tăng cường công tác cảnh báo sớm, thông tin và dự báo thị trường.
Nguyễn Bích
Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Bền Vững Và Ổn Định Thị Trường Thực Phẩm – Tạp Chí Điện Tử Làng Mới trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!