Xu Hướng 5/2023 # Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Tuyển Chọn, Gọi Công Dân Nhập Ngũ Hiện Nay # Top 12 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Tuyển Chọn, Gọi Công Dân Nhập Ngũ Hiện Nay # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Tuyển Chọn, Gọi Công Dân Nhập Ngũ Hiện Nay được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ (gọi tắt là công tác tuyển quân) có tác động trực tiếp đối với sự nghiệp xây dựng quân đội. Quán triệt Quyết định số 1713/QĐ-TTg ngày 25/11/2008 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 05/12/2008, Bộ Quốc phòng đã có Hướng dẫn số 6400/HD-BQP về công tác tuyển quân; theo đó, quy trình tuyển quân “3 gặp, 4 biết“1. được chuyển giao cho địa phương thực hiện. Đây là bước điều chỉnh quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển quân trong tình hình mới.

Sau khi thực hiện thí điểm, rút kinh nghiệm ở một số địa phương, đơn vị trong năm 2009, công tác tuyển quân theo quy trình mới được triển khai trên phạm vi toàn quốc từ đợt 1 (năm 2010) và đã thu được nhiều kết quả bước đầu, quan trọng. Nổi bật là, cấp ủy, chính quyền các địa phương, đơn vị đã tổ chức quán triệt nắm vững mục tiêu, yêu cầu trong các quyết định, chỉ thị, hướng dẫn của Chính phủ, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu về công tác tuyển quân; trên cơ sở đó, chủ động lập kế hoạch công tác tuyển quân, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng quy chế làm việc sát với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và điều kiện thực tế của địa phương; chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của Hội đồng Nghĩa vụ quân sự (NVQS) các cấp, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể địa phương trong quá trình tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ theo quy trình mới, đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng được giao; đồng thời, có các phương án sẵn sàng bù, đổi, không để bị động, thiếu hụt chỉ tiêu tuyển quân. Đối với các đơn vị nhận quân, quy trình mới này đã giúp đơn vị giảm đáng kể thời gian, công sức và chi phí trong công tác tuyển quân; qua đó, tạo điều kiện để đơn vị tập trung mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và làm công tác chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụ đón, nhận và huấn luyện chiến sĩ mới.

Tuy nhiên, do cách làm mới, nên trong quá trình thực hiện, bên cạnh những thuận lợi, một số địa phương còn lúng túng, chưa có kinh nghiệm tháo gỡ những vướng mắc nảy sinh; vì thế, chất lượng tuyển quân chưa cao, tỷ lệ quân số phải bù, đổi lớn hơn so với những năm trước. Có thể thấy tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra. Đối với địa phương, việc quán triệt các chỉ thị, hướng dẫn về công tác tuyển quân của cấp ủy, chính quyền chưa sâu; nhận thức về Luật NVQS của nhân dân còn hạn chế; công tác phối hợp giữa địa phương với các đơn vị nhận quân chưa chặt chẽ, nhất là việc nắm bắt về đặc điểm, nhiệm vụ, nhu cầu và yêu cầu tuyển quân của đơn vị; thực hiện quy trình “3 gặp, 4 biết” chưa đầy đủ, còn đơn giản, thiếu chặt chẽ, tính “dân chủ, công khai, công bằng” trong tuyển quân ở cơ sở chưa được phát huy cao. Đối với đơn vị nhận quân, có đơn vị nhận thức chưa đầy đủ về mục đích, yêu cầu, nội dung công tác tuyển quân theo quy trình mới; còn có tư tưởng ỷ lại, “khoán trắng cho địa phương”, nên việc phối hợp với địa phương chưa được coi trọng đúng mức, thiếu chặt chẽ; việc nắm chất lượng ban đầu đối với công dân nhập ngũ còn hạn chế… Điều đó không chỉ tác động đến công tác tuyển quân mà còn ảnh hưởng đến việc quản lý, huấn luyện, bố trí và sử dụng lực lượng của đơn vị.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tuyển quân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới, theo chúng tôi, các địa phương và đơn vị cần tập trung vào một số giải pháp sau.

1- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về Luật NVQS cho nhân dân, nhất là đối với các công dân trong độ tuổi thực hiện Luật NVQS ở địa phương. Đây là nội dung có vai trò hết sức quan trọng, bởi, công tác tuyển quân ở các địa phương chỉ đạt được chất lượng như mong muốn, khi toàn dân đã nhận thức đầy đủ và tự giác chấp hành Luật NVQS. Trước hết, các địa phương cần chú trọng thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân nắm chắc các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, về chiến tranh nhân dân BVTQ trong tình hình mới; trong đó, chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho các công dân trong độ tuổi NVQS nhận thức đầy đủ việc thực hiện Luật NVQS là vinh dự, tự hào của tuổi trẻ; đồng thời, cũng là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Mặt khác, để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục Luật NVQS, các địa phương cần kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục thường xuyên với tuyên truyền, giáo dục có trọng tâm, trọng điểm, nhất là vào trước và trong mỗi giai đoạn tuyển quân, nhân dịp các ngày lễ, hội, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước và địa phương… Trong công tác tuyên truyền, giáo dục, cần vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp phù hợp với điều kiện, đặc điểm, nhiệm vụ cụ thể ở mỗi địa bàn; trong đó, coi trọng tuyên tuyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình); lồng ghép nội dung Luật NVQS vào trong chương trình giáo dục quốc phòng-an ninh chính khóa, các hoạt động ngoại khóa ở các nhà trường, nhất là từ cấp trung học phổ thông trở lên, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho thế hệ trẻ đối với sự nghiệp BVTQ. Thông qua các hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên, thi tìm hiểu truyền thống của địa phương nhân ngày Hội Quốc phòng toàn dân để tuyên truyền, giáo dục cho đoàn viên, thanh niên và thế hệ trẻ về Luật NVQS cũng là cách làm có tác dụng tốt. Cùng với đó, các địa phương cần phát huy cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, đoàn thể xã hội: Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Mặt trận Tổ quốc…, tạo sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về Luật NVQS cho nhân dân; đồng thời, hết sức chú trọng phát huy dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương châm “dân chủ, công khai, công bằng” trong công tác tuyển quân.

Thực tế cho thấy, địa phương, đơn vị nào thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về Luật NVQS và phát huy được tính “dân chủ, công khai, công bằng” ở cơ sở, thì công tác tuyển quân ở địa phương, đơn vị đó được thực hiện tốt và đạt chất lượng cao. Ví như: trong công tác tuyển quân đợt 1 (năm 2010) của Quân khu 1, có trên 4.000 thanh niên nhập ngũ, trong đó có 60% thanh niên viết đơn tình nguyện, 70% có sức khỏe loại 1, trình độ trung học phổ thông chiếm 70%. Trong số quân nhân nhập ngũ của Quân khu 7, có 332 đảng viên; Quân khu 9 có 378 đảng viên. Tỉnh Thừa Thiên- Huế có hơn 500 thanh niên nhập ngũ; trong đó: 100% viết đơn tình nguyện; sức khỏe loại 1 và loại 2 chiếm 92%; hơn 80% có trình độ văn hóa trung học phổ thông.

2- Chủ động phối hợp, hiệp đồng giữa địa phương với đơn vị nhận quân trong quá trình thực hiện công tác tuyển quân. Phương thức tuyển quân mới đòi hỏi địa phương phải nêu cao vai trò, trách nhiệm, sự chủ động, tích cực trong suốt quá trình tuyển quân; trong đó, giữa địa phương và đơn vị nhận quân cần phải có sự thống nhất cao và phối hợp chặt chẽ mới đạt hiệu quả.

3- Cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chính sách đối với quân nhân và gia đình quân nhân. Thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về chế độ, chính sách, nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển quân phù hợp với tình hình mới, như: giảm thời gian phục vụ tại ngũ đối với quân nhân từ 3 năm xuống còn 2 năm và hiện nay là 1,5 năm (đơn vị chuyên môn kỹ thuật là 2 năm); đồng thời, cải cách chính sách hậu phương quân đội với nhiều tiêu chuẩn, chế độ ưu tiên, ưu đãi; hỗ trợ quân nhân học nghề trước khi hoàn thành NVQS trở về địa phương…

Tuy nhiên, có một thực tế khá phổ biến hiện nay là, dù đã được đơn vị, chính quyền địa phương tạo điều kiện, giúp đỡ, song không ít quân nhân sau khi hoàn thành NVQS trở về địa phương vẫn không xin được việc làm ổn định và đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm nảy sinh tư tưởng né tránh trách nhiệm thực hiện Luật NVQS của một số công dân. Để giải quyết vấn đề này, phải có giải pháp đồng bộ. Trước hết, cùng với tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chính sách đối với các quân nhân và gia đình quân nhân, cần nghiên cứu, bổ sung chính sách hỗ trợ quân nhân sau khi xuất ngũ, đảm bảo hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Nếu Nhà nước có các chính sách đảm bảo quyền lợi (vấn đề nghiên cứu, sắp xếp, bố trí việc làm, chính sách hỗ trợ hay tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế) đối với các quân nhân sau khi đã hoàn thành NVQS phù hợp với chiều hướng phát triển của xã hội, thì điều đó sẽ trực tiếp động viên, khích lệ mọi công dân trong xã hội tự nguyện thực hiện tốt Luật NVQS. Theo đó, quán triệt Quyết định số 121/2009/QĐ-TTg, ngày 09-10-2009 của Thủ tướng Chính phủ, Công văn liên Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính về chính sách cấp thẻ học nghề-hỗ trợ bộ đội xuất ngũ, từng địa phương trên cơ sở điều kiện, khả năng của mình, cần có chính sách cụ thể, thiết thực, tạo điều kiện thuận lợi để quân nhân và gia đình họ tự nguyện chấp hành tốt Luật NVQS; trong đó, cần chú trọng kết hợp hài hòa giữa lợi ích của quân nhân, gia đình gắn với nghĩa vụ cống hiến cho xã hội và cho Tổ quốc. Bên cạnh đó, Nhà nước và Bộ Quốc phòng cũng cần có chính sách phù hợp để tận dụng nguồn lực, ngành nghề của số quân nhân thuộc các đơn vị kỹ thuật, nhất là: Đặc công, Hải quân, Vận tải…, tham gia đăng ký quân dự bị động viên và tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác tuyển quân, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng-an ninh, BVTQ trong tình hình mới.

và Trung tá VƯƠNG VĂN YÊN

1- 3 gặp: gặp chính quyền, gặp gia đình, gặp công dân; 4 biết: biết tình trạng sức khỏe, biết trình độ văn hóa, biết phẩm chất đạo đức, biết hoàn cảnh gia đình công dân nằm trong diện thực hiện Luật NVQS.

Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Cán Bộ Đoàn Hiện Nay

Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ Đoàn hiện nay

TTBD – Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Ban bí thư Trung ương Đoàn, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, công tác cán bộ Đoàn ở các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là từ khi Quy chế cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ban hành kèm theo Quyết định số 289 – QĐ/TW ngày 08/2/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công tác cán bộ Đoàn các cấp trong tỉnh, các khâu tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và luân chuyển cán bộ Đoàn từng bước được nâng lên, đội ngũ cán bộ Đoàn từ Tỉnh tới cơ sở được chuẩn hóa, trẻ hóa, năng động, nhiệt huyết và được đào tạo bài bản, góp phần rất quan trọng trong nâng cao chất lượng công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi Tỉnh nhà. Nhiều cán bộ Đoàn trường thành được tin tưởng, trao giữ những vị trí chủ chốt, những trọng trách quan trọng của Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị-xã hội.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác cán bộ Đoàn vẫn còn một số hạn chế nhất định: một số cán bộ Đoàn chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ công tác thanh vận, thiếu thực tiễn phong trào Đoàn, Hội, Đội; Công tác quy hoạch, rà soát bổ sung quy hoạch cán bộ Đoàn ở một số nơi chưa tốt, chưa đảm bảo tính kế thừa, chưa thường xuyên theo dõi nguồn trong quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kịp thời, nhất là về trình độ chính trị; một số cán bộ Đoàn thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, chuyên môn nghiệp vụ; thiếu hụt nguồn cán bộ Đoàn kế cận ở một số nơi… Hạn chế đó có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan, nhưng chủ quan là chính, trong đó việc chủ động báo cáo, tham mưu, đề xuất giải pháp của các cấp bộ Đoàn cho cấp ủy cùng cấp chưa kịp thời và còn hạn chế.

Nâng cao chất lượng công tác cán bộ Đoàn là nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa thường xuyên, liên tục, lâu dài, có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của tổ chức Đoàn. Xuất phát từ ý nghĩa đó và tình hình thực tế như trên, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ: “Cán bộ là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém” (trích Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”), các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh cần chủ động hơn nữa trong thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau:

Một là, định kỳ 6 tháng, 01 năm, BTV Đoàn các cấp cần chủ động rà soát, đánh giá tổng thể cán bộ Đoàn-Hội-Đội của địa phương, đơn vị mình, để từ đó có giải pháp tham mưu, tổ chức thực hiện, trong đó, đánh giá cụ thể về số lượng, chất lượng (trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, ngạch, bậc, tin học, ngoại ngữ), điều kiện, hoàn cảnh của cán bộ Đoàn; Nếu qua rà soát, chúng ta xét thấy đội ngũ cán bộ Đoàn-Hội-Đội còn thiếu về số lượng theo quy định, nhanh chóng tham mưu kiện toàn kịp thời, để phân công nhiệm vụ trên các mảng công tác; nếu xét thấy đối ngũ cán bộ còn thiếu tiêu chuẩn chính trị hoặc phát hiện cán bộ Đoàn lớn tuổi so với quy chế, các cấp bộ Đoàn chủ động tham mưu cho cấp ủy cùng cấp; nếu xét thấy cán bộ còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ thanh vận, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngay, chú trọng thường xuyên việc bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cơ bản về công tác Đoàn – Hội – Đội cho Bí thư Đoàn cấp xã và tương đương(mới được bầu); cán bộ chuyên trách các cấp….

Hai là, hàng năm các cấp bộ Đoàn chủ động thực hiện việc rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ. Thực hiện quy hoạch phải bảo đảm đúng quy trình, khoa học, chặt chẽ, dân chủ, công khai, minh bạch, tạo môi trường bình đẳng để xem xét, đánh giá, lựa chọn cán bộ; cần tích cực, kiên trì, chủ động tham mưu cấp ủy, cơ quan có thẩm quyền trong việc phê duyệt quy hoạch cán bộ Đoàn cấp mình và theo dõi, giám sát công tác quy hoạch cán bộ Đoàn cấp dưới, để làm căn cứ triển khai việc thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ được quy hoạch cho phù hợp.

Ba là, qua các phong trào hoạt động của Đoàn, BTV Đoàn các cấp, nhất là Bí thư Đoàn phát hiện, gắn kết chặt chẽ với nguồn đội viên xuất sắc trưởng thành, cán bộ Đội, cán bộ Hội, đoàn viên là học sinh, sinh viên, cán bộ trẻ các ngành khác có tố chất, năng khiếu thanh vận có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn làm cán bộ Đoàn; kịp thời động viên, thăm hỏi cán bộ có hoàn cảnh khó khăn, tuyên dương, khen thưởng cán bộ đạt thành tích xuất sắc.

Ngày 19/5/2018, Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã có tác động trực tiếp tới đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp. Mặt khác, công tác cán bộ Đoàn là bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, cán bộ Đoàn là nguồn cung cấp cán bộ cho hệ thống chính trị. Vì vậy, để xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, trưởng thành từ phong trào thanh thiếu nhi, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức Đoàn các cấp là việc rất quan trọng và rất cần thiết, đòi hỏi sự tập trung cao độ, chủ động, tích cực và kiên trì tham mưu của các cấp bộ Đoàn, nhất là Bí thư Đoàn các cấp.

Nguyễn Thị Ngọc Xuân – Bí thư Tỉnh Đoàn Bình Dương

Các tin đã đưa

Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Nữ Công

Nâng cao chất lượng công tác nữ công trong hoạt động công đoàn; Đẩy mạnh phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ CNVCLĐ, triển khai tổng kết 10 năm phong trào thi đua Giỏi việc nước Đảm việc nhà giai đoạn 2010-2020 là các hoạt động nữ công CĐ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đang thực hiện.

Hiện nay, toàn ngành Nông nghiệp và PTNT có khoảng 65.000 lao động, trong đó lao động nữ chiếm tỉ lệ 40%. Nữ CNVCLĐ tham gia ở tất cả các lĩnh vực công tác của ngành. Trình độ, năng lực cán bộ nữ ngày càng được nâng cao, đáp ứng cơ bản các yêu cầu công việc và phát triển ngành. Những năm qua, lực lượng nữ CNVCLĐ trong ngành đã không ngừng phát huy vai trò, vị trí, năng lực của mình trên tất cả các lĩnh vực công tác; từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, góp phần tích cực trong sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước.

Nhận thức rõ vai trò của phong trào nữ CNVCLĐ và hoạt động nữ công trong phong trào CNVCLĐ và hoạt động công đoàn ngành Nông nghiệp và PTNT, thời gian qua, Ban Thường vụ Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam đã tập trung chỉ đạo công đoàn các cấp triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình công tác nữ công, tạo điều kiện để nữ CNVCLĐ yên tâm lao động, học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình.

Ban Nữ công công đoàn các cấp vận động nữ CNVCLĐ tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua, các cuộc vận động, trọng tâm là các phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; động viên nữ CNVCLĐ vượt qua khó khăn, vừa lao động sản xuất, học tập, công tác, vừa tích cực cập nhật kiến thức mới, tích lũy kinh nghiệm hay, tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động sản xuất.

Công đoàn ngành tăng cường chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên công đoàn và người lao động, nhất là đối với lao động nữ bằng nhiều hình thức và việc làm cụ thể. Năm 2019, Ban Thường vụ Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam tiếp tục triển khai Quyết định 323/QĐ-CĐN ngày 25/12/2018 về phân công nhiệm vụ các ủy viên Ban Thường vụ Công đoàn Ngành tăng cường chỉ đạo củng cố tổ chức; quản lý, phát triển đoàn viên mới; bảo vệ quyền lợi người lao động và thực hiện các nghĩa vụ tài chính công đoàn. Trong đó chú trọng công tác xây dựng, ký kết thỏa ước lao động tập thể cấp ngành, quan tâm bổ sung các điều khoản có lợi hơn cho người lao động, đặc biệt đối với lao động nữ. Tổ chức các chương trình ký kết “Phúc lợi cho đoàn viên công đoàn” tại Công ty TNHH MTV Dịch vụ khai thác hải sản Biển Đông, Tổng công ty Cà phê Việt Nam…

Hoạt động từ thiện năm 2019 từ nguồn xã hội từ thiện, CĐ Ngành đã chi hỗ trợ thăm hỏi 468 nữ CNLĐ nghèo mỗi suất quà trị giá 500.000 đồng, chi thăm hỏi 8 nữ CNLĐ mắc bệnh hiểm nghèo mỗi suất quà 2.000.000 đồng; hỗ trợ sửa chữa 5 nhà ở. Công tác chăm lo sức khoẻ cho lao động nữ được các đơn vị quan tâm thường xuyên: đảm bảo điều kiện vệ sinh, an toàn nơi làm việc; 100% phụ nữ có thai được khám thai đủ 5 lần và được tiếp cận với dịch vụ y tế; trên 95% đơn vị tổ chức khám sức khoẻ định kỳ, tổ chức khám và điều trị phụ khoa cho các chị em lao động nữ; thực hiện tốt chế độ, chính sách chăm sóc sức khoẻ cho lao động nữ khi mang thai, sinh đẻ, nuôi con; đặc biệt có đơn vị còn hỗ trợ chi phí bồi dưỡng thêm cho lao động nữ sau khi sinh, tạo điều kiện vật chất cho lao động nữ trong thời gian mang thai và cho con bú.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác nữ công, trong thời gian tới các cấp Công đoàn Ngành cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau: Ban Chấp hành Công đoàn các cấp cần quan tâm, thường xuyên củng cố, kiện toàn Ban Nữ công quần chúng; chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các hình thức hoạt động nữ công như tọa đàm, giao lưu, tổ chức các diễn đàn, câu lạc bộ, sinh hoạt chuyên đề nhằm thu hút đông đảo nữ CNVCLĐ tham gia. Tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Tổng LĐLĐ Việt Nam về thực hiện toàn diện và chất lượng công tác nữ công ở các cấp công đoàn. Triển khai Đề án “Đổi mới hoạt động nữ công trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước”; Tập huấn nghiệp vụ công tác nữ công cho công đoàn các đơn vị.

Hàng năm, trên cơ sở hướng dẫn nhiệm vụ trọng tâm công tác nữ công của Ban Thường vụ Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam, Ban Nữ công Công đoàn các cấp cần tham mưu Ban Chấp hành Công đoàn cùng cấp xây dựng kế hoạch, tổ chức các hoạt động; tạo điều kiện để cán bộ nữ công trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm hoạt động nữ công, tạo mối liên kết mật thiết giữa nữ CNVCLĐ với hoạt động nữ công.

Đẩy mạnh phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ CNVCLĐ, nhất là ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách đối với lao động nữ; thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể với những quy định có lợi hơn cho lao động nữ so với quy định của pháp luật;

Đẩy mạnh các hoạt động xã hội từ thiện, vận động nguồn lực giúp đỡ cho đối tượng là nữ CNVCLĐ, con CNLĐ có hoàn cảnh khó khăn; Tăng cường phối hợp với Ban vì sự tiến bộ phụ nữ cùng cấp trong việc tổ chức các hoạt động trong nữ CNVCLĐ; Củng cố kiện toàn ban nữ công công đoàn các cấp, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tham mư­­­u cho BCH công đoàn cùng cấp về công tác vận động nữ CNVCLĐ. Phát hiện, bồi dư­­ỡng và đào tạo quy hoạch cán bộ nữ, tăng khả năng tiếp cận của phụ nữ đối với quá trình ra quyết định ở các đơn vị chủ chốt.

Tổng LĐLĐ Việt Nam đã trao tặng 1 cờ, bằng khen cho 4 tập thể, cá nhân; Ban Thường vụ Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam trao tặng 1 cờ, 21 bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Đồng chí Lê Thị Tươi- Trưởng ban Nữ công Công đoàn Công ty TNHH MTV Cà phê 52 thuộc Công đoàn Tổng công ty Cà phê Việt Nam đại diện cho cán bộ nữ công ngành Nông nghiệp được biểu dương, khen thưởng tại Hội nghị biểu dương Trưởng ban nữ công do Tổng LĐLĐ Việt Nam tổ chức vào tháng 2/2019. Trong năm học 2018-2019, Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam tặng 1 cờ thi đua, 1 bằng khen; Ban Thường vụ Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam tặng 11 bằng khen cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua “Giỏi việc nước, Đảm việc nhà”.

Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Đảng Viên Trong Giai Đoạn Hiện Nay

Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Thực tiễn hơn 87 năm hoạt động lãnh đạo của Đảng cho thấy: việc tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của Đảng, sự thành bại của cách mạng nước ta.

Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”(1). Người căn dặn: để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên tốt. Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng đội ngũ đảng viên; gắn xây dựng, củng cố tổ chức đảng với xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

Bước vào thời kỳ đổi mới, trong từng nhiệm kỳ Đảng đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã cụ thể hóa việc chỉ đạo công tác phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, đưa ra các mục tiêu, giải pháp thực hiện. Trên cơ sở đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng những kế hoạch, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng để thực hiện, nhằm tăng cường xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở đảng, xây dựng hệ thống chính trị và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, đội ngũ đảng viên đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước được chuyển biến theo hướng tích cực, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; tỷ lệ đảng viên ở lứa tuổi thanh niên, đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số, đảng viên trong các tôn giáo đều tăng lên qua các năm; tuổi đời bình quân của đội ngũ đảng viên ngày càng được trẻ hóa. Thực tiễn qua hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước cho thấy: sự phát triển lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên còn những hạn chế. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình, phê bình còn yếu; tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tùy tiện, vô nguyên tắc; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân, chấp hành kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy vị trí công tác, chạy tội, chạy bằng cấp… còn xảy ra ở nhiều nơi; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, còn những diễn biến phức tạp, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự trong sạch vững mạnh vừa là đòi hỏi tất yếu, vừa là yêu cầu cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển, sàng lọc đảng viên”(2)

Để thực hiện được những nội dung, yêu cầu trên, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp cần chú trọng quán triệt và thực hiện tốt những biện pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, ý nghĩa của đảng viên, xây dựng đội ngũ đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Tập trung sức để xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch vững mạnh; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành các nhiệm vụ được giao; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và tính tự nguyện, tự giác của người đảng viên, để mọi đảng viên vững vàng trước những khó khăn, thử thách của cách mạng.

Thứ hai, không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên, làm cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải gắn liền với nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực tế cho thấy, trình độ trí tuệ và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ đảng viên là yếu tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, là đạo đức, là văn minh xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới, phải thật sự mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng, làm cơ sở để mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội; phải dựa vào dân và phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đó là, vừa đẩy mạnh kết nạp vào Đảng những quần chúng thật sự ưu tú, tiêu biểu và có đủ tiêu chuẩn, đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng viên. Đây là hai mặt có quan hệ biện chứng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong công tác phát triển đảng viên, cần bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với quần chúng ưu tú để thấy rõ động cơ, mục đích vào Đảng trước khi xem xét kết nạp vào Đảng; chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ, kiến thức các mặt của đội ngũ đảng viên; khắc phục tình trạng chạy theo số lượng. Bên cạnh đó, phải làm tốt việc sàng lọc đội ngũ đảng viên, kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh những đảng viên thoái hóa về chính trị, tư tưởng, vi phạm đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thứ tư, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung nhằm nâng cao chất lượng đảng viên; cần tập trung đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về tư tưởng chính trị; về trình độ kiến thức và năng lực công tác thực tiễn; về phẩm chất, đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch, lành mạnh; về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Quán triệt tốt những nội dung cơ bản về xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng và kỷ luật đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Thứ năm, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, đưa công tác quản lý đảng viên vào nề nếp. Cấp ủy các cấp cần thực hiện đúng các quy định, nguyên tắc, thủ tục, quy trình về công tác quản lý hồ sơ đảng viên; giới thiệu sinh hoạt đảng, giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với đảng ủy, chi ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; thực hiện nghiêm túc việc chuyển sinh hoạt đảng đối với những đảng viên nghỉ hưu về sinh hoạt với tổ chức đảng nơi cư trú, tích cực sử dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý cơ sở dữ liệu về đảng viên.

Thứ sáu, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở. Cấp ủy cấp trên phải hướng về cơ sở và đi sâu, đi sát cơ sở; thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác đảng viên ở cơ sở; phân công ủy viên thường vụ, cấp ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở; có kế hoạch, quy định thời gian làm việc với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị ở cơ sở để nắm chắc tình hình, cùng cơ sở tháo gỡ khó khăn. Định kỳ sơ kết, tổng kết công tác đảng viên, qua đó chấn chỉnh và đưa công tác đảng viên vào nề nếp; thực hiện việc giao cấp ủy cơ sở tự kiểm tra, rà soát các mặt công tác đảng viên và báo cáo kết quả với cấp ủy cấp trên.

Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh, làm cơ sở, nền tảng nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước hết là của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 395, tháng 5-2017

Tác giả : NGUYỄN THẾ THÁI

Ý kiến bạn đọc

Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Tuyển Chọn, Gọi Công Dân Nhập Ngũ Hiện Nay trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!