Xu Hướng 12/2023 # Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Sữa # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Sữa được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Sức hấp dẫn từ thị trường Trung Quốc

Báo cáo từ Cục Chăn nuôi cho thấy, hiện tốc độ tăng trưởng đàn bò sữa là 2,09%/năm. Cùng đó, tốc độ tăng trưởng sản lượng sữa giai đoạn 2023 – 2023 là 8,52%. Theo ước tính của cục này, năng suất sữa trung bình của đàn bò sữa trong cả nước năm 2023 đạt trên 5.000 kg sữa/con/năm là khá cao. So sánh với năng suất sữa của các nước trên thế giới và trong khu vực, năng suất này là cao hơn các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, NewZealand, Brazil… Bởi vậy, sữa và các sản phẩm sữa của Việt Nam đang có rất nhiều cơ hội cạnh tranh khi đẩy mạnh xuất khẩu (XK).

Sữa của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm của Australia và NewZealand tại thị trường Trung Quốc

Theo Cục Chăn nuôi, sữa và các sản phẩm sữa của Việt Nam được XK đến 46 quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, đến nay, Trung Quốc đã hoàn tất báo cáo đánh giá rủi ro mở cửa thị trường sữa cho Việt Nam. Sau hơn 6 năm đàm phán, ngày 26/4/2023, Nghị định thư về XK sữa và các sản phẩm sữa của Việt Nam sang Trung Quốc đã được ký kết, tạo cơ hội mở rộng cho sữa và các sản phẩm sữa của Việt Nam XK vào thị trường 1,4 tỷ dân này.

Báo cáo thị trường sữa toàn cầu 2023 của FAO cho thấy, Trung Quốc sản xuất 25,6 triệu tấn sữa, giảm 1,1% so với năm 2023 và để đáp ứng tiêu dùng sữa và sản phẩm sữa trong nước, nước này đã nhập 14,6 triệu tấn sữa quy đổi. Đây là quốc gia có tiềm năng rất lớn cho XK các sản phẩm sữa của Việt Nam trong những năm tới.

Đánh giá về cơ hội XK sữa sang thị trường Trung Quốc, ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, đến năm 2023, nước này cần tới 11 tỷ lít sữa, nhưng ngành sữa của Trung Quốc hiện có chi phí sản xuất còn cao cũng như các hạn chế nước và thức ăn chăn nuôi bò sữa sẽ tiếp tục tạo nên bất lợi cho ngành sản xuất sữa nội địa, vì vậy phải nhập khẩu các sản phẩm từ sữa chế biến là tất yếu.

Hơn nữa, kể từ khi xảy ra vụ sữa bột nhiễm melanine, chính người dân Trung Quốc cũng vẫn còn nghi ngại khi sử dụng sữa trong nước; chất lượng bò sữa hiện cũng có vấn đề do đồng cỏ bị ô nhiễm.

Tuy nhiên, điều ông Chinh lo ngại nhất là hiện nay sữa của Australia và New Zeland đang chiếm thị phần lớn trên thị trường sữa Trung Quốc, do đó sữa của Việt Nam vào Trung Quốc sẽ phải cạnh tranh gay gắt với 2 “ông lớn” này.

Ở góc độ DN, ông Ngô Minh Hải – Chủ tịch Tập đoàn TH đánh giá, cánh cửa XK sữa vào thị trường Trung Quốc bước đầu đã mở nhưng không phải DN trong ngành sữa Việt Nam sẽ có thể dễ dàng đi qua. Các DN sữa phải đảm bảo được 2 yêu cầu quan trọng gồm duy trì chất lượng, tiêu chuẩn sản phẩm và đảm bảo được nguồn gốc xuất xứ.

Chăn nuôi theo chuỗi giá trị

Thực tế hiện nay cho thấy, việc đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn sản phẩm sữa là không hề dễ dàng do chăn nuôi bò sữa chủ yếu vẫn dừng ở quy mô nông hộ. Ông Tống Xuân Chinh cho biết, số lượng bò sữa nuôi trong nông hộ là 199.941 con, chiếm 70,65% tổng đàn bò sữa của cả nước. Quy mô nuôi dao động từ 5,4  – 10 con/hộ đối với chăn nuôi bò sữa.

Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, năm 2023, cả nước có 28.695 hộ chăn nuôi bò sữa. Trong đó, có 17.792 hộ nuôi dưới 5 con bò sữa/hộ, chiếm 62% tổng số hộ chăn nuôi bò sữa của cả nước; có 5.622 hộ nuôi từ 5-10 con bò sữa/hộ, chiếm 19,89% tổng số hộ chăn nuôi bò sữa của cả nước; có 3.564 hộ nuôi từ 10 – 20 con/hộ, chiếm 12,42% tổng số hộ chăn nuôi bò sữa của cả nước. Các hộ chăn nuôi quy mô trên 20 con/hộ còn hạn chế, chỉ chiếm 5,98% tổng số hộ chăn nuôi bò sữa của cả nước.

Sở dĩ các nông hộ chưa thể tăng quy mô đàn bò sữa là do chưa có cơ chế hỗ trợ. Đại diện HTX Nông nghiệp Evergrowth (Sóc Trăng) cho biết, việc phát triển chăn nuôi bò sữa tại địa phương này là rất có tiềm năng, nhưng cần tạo điều kiện cho nông dân, cần cho họ một cơ hội thực sự để phát triển nghề nuôi bò sữa.

Để ngành sữa Việt Nam phát triển, ông Chinh kiến nghị Bộ NN&PTNT xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa giai đoạn 2023-2030 để tăng cường phát triển ngành sữa, thúc đẩy XK sữa và các sản phẩm từ sữa.

Cùng với đó, cần đẩy mạnh liên kết giữa nông dân và các DN XK sữa. Hay nói cách khác là tổ chức lại sản xuất của DN, HTX và người nông dân theo chuỗi giá trị. Có hai hình thức liên kết. Một là DN cung cấp giống, thức ăn đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật cho bà con, sau đó thu mua sữa từ các hộ dân này với giá sau khi đã trừ chi phí.

Hai là người dân trồng cỏ sau đó bán lại cho DN, đây là hình thức rất hữu hiệu, đặc biệt là những khu đất nông nghiệp không hiệu quả nên chuyển sang trồng cỏ.

Đây không chỉ là giải pháp giúp đẩy mạnh XK sữa mà còn giúp ngành sữa Việt chiếm lĩnh thị trường trong nước. Hiện nay, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 4 về năng suất của đàn bò vắt sữa nhưng sản xuất trong nước vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu và hàng năm nước ta vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn sữa và sản phẩm sữa về để phục vụ tiêu dùng trong nước.

Tính riêng trong năm 2023, nước ta đã nhập khẩu 962 triệu USD sữa và sản phẩm từ sữa. Điều đó cho thấy ngành chăn nuôi bò sữa của nước ta có rất nhiều cơ hội phát triển.

4 Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Nông Sản Việt

Theo Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2023, tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 1,7 tỷ USD. Với giá trị này, mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chỉ chiếm 5,9% thị phần, đây là một con số khá nhỏ so với nhu cầu của thị trường 51 triệu dân và có GDP đứng thứ 12 trên thế giới, với thu nhập bình quân 30.600USD.

Phát biểu tại Diễn đàn xúc tiến Thương mại sản phẩm Nông sản Việt Nam – Hàn Quốc, ông Trần Thanh Nam – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, hiện nay có khoảng 7000 doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư các dự án FDI tại Việt Nam, đứng đầu trong danh sách các quốc gia có vốn đầu tư FDI tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư thương mại trên 68 tỷ USD.

Đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, các sản phẩm Việt Nam xuất sang thị trường Hàn Quốc chủ yếu là đồ gỗ, thủy sản và trái cây; với 5 loại trái cây tươi là dừa, dứa, chuối , xoài và thanh long. Trong khi đó, Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc các sản phẩm thức ăn chăn nuôi, phân bón.

” Tuy nhiên, hiện nay kim ngạch XNK giữa hai nước chưa tương xứng với quan hệ hợp tác. Theo thống kê, kim ngạch XNK của 2 nước tương đương khoảng 2 tỷ USD, đây là một con số rất thấp, trong khi tiềm năng và nhu cầu của thị trường còn rất lớn”. Thứ trưởng Trần Thanh Nam chia sẻ.

Nhận định về tình hình hiện tại của nông sản Việt Nam, ông Hong Sun – Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam, cho biết, Việt Nam hiện đang có rất nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy sản.

Tuy nhiên, để có thể xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là đối với thị trường Hàn Quốc cần phải đáp ứng được các yêu cầu như: đồng bộ về chủng loại, chất lượng, kích cỡ, màu sắc, giống sản phẩm và phải có thương hiệu mạnh. Đối với giá, phải xây dựng được mức giá đảm bảo tính cạnh tranh so với các nước như Philippines, Indonesia, Thái Lan, Mexico…

Ông Hong Sun cũng cho rằng, nông sản Việt Nam đang có nhiều lợi thế và tiềm năng phát triển vì Việt Nam có diện tích đất nông nhiệp lớn, có điều kiện khí thuận lợi để đa dạng hóa các loại cây trồng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có một vị trí thuận lợi, có nhiều cảng, cửa khẩu và có nguồn nhân lực trẻ dồi dào.

“Hiện nay, tại phía Bắc vẫn chưa có nhà máy chiếu xạ, để xử lý chiếu xạ đối với nông sản dành cho thị trường Mỹ. Các doanh nhiệp phải vận chuyển vào miền Nam để xử lý chiếu xạ, dẫn đến giá cả nông sản sẽ tăng cao vì phải tốn thêm chi phí vận chuyển. Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam, nhất là ở các tỉnh phía Bắc, Chính phủ cần hỗ trợ xây dựng nhà máy chiếu xạ tại khu vực này”. Ông Hong Sun đề xuất.

Ngoài ra, ông Hong Sun cũng đưa ra 4 giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam ra nước ngoài.

Một là: Đẩy nhanh việc xây dựng và tạo lập một nền nông nghiệp Hữu cơ với các sản phẩm hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ra quốc tế.

Hai là: Chính sách tư vấn cho người nông dân về kỹ thuật, đảm bảo đầu ra cho người nông dân, nâng cao chất lượng cũng như sản lượng sản phẩm.

Ba là: Chính phủ cần hỗ trợ xây dựng nhà máy chiếu xạ tại miền Bắc đối với mặt hàng như quả Vải xuất sang thị trường Mỹ.

Bốn là: Hỗ trợ về chi phí máy bay để các doanh nghiệp xuất khẩu qua đường hàng không, thay vì chỉ xuất khẩu qua đường biển, giảm bớt thời gian và thu lại hiệu quả nhiều hơn cho các doanh nghiệp cũng như người nông dân.

Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Gạo Ở Việt Nam

2. Vai trò của xuất nhập khẩu gạo Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu , khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập, ngoại tệ cho đất nước.

2.1. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Quá trình công nghiệp hoá cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kĩ thuật công nghệ cao để có thể theo kịp nền công nghiệp hiện đại của các nước đã phát triển.Nguồn vốn cho nhập khẩu được hình thành từ rất nhiều nguồn vốn khác nhau: – Đầu tư nước ngoài – Vay nợ, viện trợ – Thu từ hoạt động du lịch – Xuất khẩu… Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu , xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Hiện nay các nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn chủ yếu là các nước đang phát triển: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan…Chính vì thế nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là rất quan trọng.

II. ĐẶC ĐIỂM XUẤT KHẨU GẠO

1. Đặc điểm về sản xuất Về mặt sinh thái, sức đề kháng sâu bệnh và khả năng chịu đựng của lúa kém do vậy sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến xu hướng phát triển chung cũng như mùa màng thu hoạch trong từng thời điểm cụ thể. Do sản xuất lúa gạo phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên do đó lúa chỉ được trồng phổ biến ở các nước có đồng bằng châu thổ, khí hậu nhiệt đới ẩm, nắng lắm, mưa nhiều, những nước này chủ yếu là các nước đang phát triển như : Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ , Pakistan…Hiện nay do trình độ đô thị hoá, việc tăng dân số quá nhanh cũng như việc xây dựng các khu công nghiệp ồ ạt nên diện tích nông nghiệp hay diện tích trồng lúa ngày càng bị hu hẹp. Do đó việc tăng sản lượng lúa phụ thuộc vào khả năng tăng năng suất, vì thế mà yêu cầu cần có trình độ thâm canh cao, khoa học tiến bộ trong sản xuất lúa. Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm với hai đồng bằng châu thổ rộng lớn, với lượng dân số tập trung ở nông thôn khá cao (80% dân số) do đó rất thuận lợi cho phát triển lúa nước. Nhưng đồng thời với những thuận lợi là các khó khăn như: bão , lũ lụt, hạn hán, hay các biến động bất thường của thời tiết luôn đe doạ tới hoạt động sản xuất. Hiện nay lúa gạo đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam do đó sản xuất lúa gạo rất được chú trọng cả về tăng năng suất và diện tích bằng các biện pháp như thâm canh, xen canh, gối vụ hay áp dụng các biện pháp khoa học trong khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và tạo giống chất lượng tốt… 2. Đặc điểm xuất khẩu lúa gạo – Tính thời vụ trong trao đổi: Sản xuất lúa gạo mang đặc điểm cố hữu của sản xuất nông nghiệp tính thời vụ do vậy mà hình thành tính thời vụ trong trao đổi sản phẩm trên thị trường. Tức là số lượng lúa gạo cung cấp trên thị trường là không đều vào mỗi thời điểm trong năm , điều này phụ thuộc vào thời gian gieo trồng. Để khắc phục đặc điểm này yêu cầu các nước xuất khẩu phải luôn có kế hoạch bảo quản, dự trữ hợp lý tránh tình trạng lúc thừa lúc thiếu sẽ dẫn tới bị ép giá. – Phần lớn gạo được tiêu thụ tại chỗ: Tình hình đó là do một mặt, năng lực sản xuất của các nước này bị hạn chế mặt khác do quy mô dân số và tốc độ tăng dân số nhanh. Vì vậy phần lớn lúa gạo còn lại đem trao đổi trên thị trường gạo thế giới chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Các nước đang phát triển sản xuất 53-55% sản lượng gạo thế giới, các nước Châu Á, Châu Phi sản xuất nhiều nhất chiếm 85% sản lượng gạo tiêu thụ trên thế giới. Trong khi đó các nước này chỉ cung cấp 4-5% lượng gạo được trao đổi trên thế giới, Châu Á là khu vực sản xuất nhiều nhất và cũng tiêu thụ lượng gạo lớn nhất. Năm 1995 trừ số lượng đã xuất khẩu đi các lục địa khác, mức tiêu thụ gạo còn lại của Châu Á vẫn gấp 21,4 lần Châu Mỹ, 23,2 lần Châu Phi và 80,5 lần Châu Âu. – Buôn bán giữa các chính phủ là phương thức chủ yếu vì thế xuất khẩu sản phẩm lúa gạo ổn định hơn so với hàng công nghiệp. Nguyên nhân , thứ nhất, là do yếu tố chính trị quốc gia. Mỗi nước đều phải đảm bảo an ninh lương thực, nếu lương thực không được đảm bảo sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới chính trị quốc gia đó. Vì thế buốn bán chủ yếu được ký kết giữa các chính phủvới nhau thông qua các hiệp định, các hợp đồng có tính nguyên tắc, dài hạn và định lượng cụ thể hàng năm vào đầu các niên vụ. Thứ hai, một số nước dùng xuất khẩu gạo để thực hiện các ý đồ chính trị thông qua viện trợ, cho không, bán chịu dài hạn…điều này được thực hiện giữa các chính phủ là chủ yếu. – Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới: Trên thế giới chỉ một vài nước là xuất khẩu với một lượng gạo lớn và có uy tín: Thái Lan, Mỹ, Ttung Quốc, Việt Nam…. Nếu lượng gạo xuất khẩu của các nước này có sự biến động có thể ảnh hưởng đến giá cả của gạo dẫn tới những biến động trong cung – cầu gạo, hay có thể ảnh hưởng đến tình hình sản xuất đến các loại hàng hoá khác. – Trong mậu dịch gạo thế giới, có rất nhiều loại gạo khác nhau của các nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Tương ứng với mỗi loại gạo , tuỳ thuộc chất lượng, phẩm cấp khác nhau lại hình thành một mức giá cụ thể phù thuộc vào các tiêu chuẩn cụ thể về chọn giá quốc tế mà trong nhiều thập kỷ qua, người ta vẫn lấy giá gạo xuất khẩu của Thái Lan làm giá gạo quốc tế. Vì gạo có rất nhiều loại nên khi nói giá gạo xuất khẩu thường nói rõ cấp loại nào (5% tấm, 10% tấm…) vào điều kiện giao hàng nào (FOB. CIF,C&F…) Tuy có giá gạo quốc tế nhưng giá gạo của một cấp gạo cụ thể, giữa các nước xuất khẩu là không đồng nhất: như giá gạo của việt nam thường thấp hơn của Thái Lan hoặc của một số nước khác mặc dù cùng cấp. Điều này là do chất lượng của từng loại, do uy tín sản phẩm , do điều kiện tự nhiên, nguồn giống tạo nên loại gạo đó.

III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU GẠO.

1. Nhân tố thị trường. Nhân tố thị trường có ảnh hưởng rất lớn chi phối toàn bộ hoạt động xuất khẩu gạo của mỗi quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó co thể xét trên các yếu tố cơ bản sau: – Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: Gạo là hàng hoá thiết yếu, cũng giống như các loại hàng hoá khác nó cũng phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu… Khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo giảm nhưng trong đó cầu về gạo chất lượng cao có xu hươngs tăng lên (ở các nước phát triển: Nhật, Châu âu, ..) ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi chính vì thế tỷ trọng tiêu dùng cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng. – Cung gạo trên thị trường là một nhân tố quan trọng trong xuất khẩu. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần phải tìm hiểu kỹ về khả năng xuất khẩu từng loại gạo của mình cũng như khả năng của các đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường thế giới sản phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, nhu cầu về gạo co giãn ít so với mức giá do đó nếu lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư cung điều đó là bất lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. – Giá cả là một yếu tố quan trọng là thước đo sự cân bằng cung – cầu trong nền kinh tế thị trường. Tuy cầu về gạo là ít biến động nhưng với những sản phẩm đặc sản thì gái có quyết định khá lớn.

Những Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Cho Ngành Lúa Gạo Việt Nam

Lúa gạo đóng vai trò chiến lược trong an ninh lương thực của Việt Nam. Trong năm 2023, mặc dù thị trường xuất khẩu gạo không hoàn toàn thuận lợi, Việt Nam đã xuất khẩu được 6,3 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 2,7 tỷ USD. Tuy nhiên, cái được đáng kể nhất là bằng sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự vào cuộc tích cực cùng các Bộ, ban, ngành… đã giải quyết được bài toán xuất khẩu gạo trong giai đoạn cam go. Bài viết này sẽ phân tích những thách thức, cơ hội, cùng các chính sách quyết liệt của Chính phủ hỗ trợ cho ngành Lúa gạo, thông qua đó đề xuất một số gợi ý cho phát triển xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: Xuất khẩu, ngành Lúa gạo Việt Nam, giải pháp.

1. Những thách thức với ngành Lúa gạo Việt Nam

Việt Nam có những lợi thế đặc biệt trong sản xuất lúa gạo và đây cũng là hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), diện tích lúa của nước ta chiếm 82% diện tích đất canh tác ở Việt Nam. Trong đó, có khoảng 52% sản lượng lúa được sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long và 18% ở đồng bằng sông Hồng. Sinh kế của hơn 15 triệu nông dân nhỏ lẻ dựa vào nguồn thu từ cây lúa ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.

Là nước xuất khẩu gạo đứng trong top đầu trên thế giới, với trung bình 6 – 7 triệu tấn gạo xuất khẩu một năm, Việt Nam đã góp phần rất lớn trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước nói riêng và thế giới nói chung.

Sau kỷ lục xuất khẩu hơn 8 triệu tấn vào năm 2012, năm 2023, ngành Lúa gạo của Việt Nam tiếp tục gặt hái thành công lớn khi đạt sản lượng xuất khẩu cao nhất kể từ năm 2013, lên gần 7 triệu tấn. Tổng sản lượng ngành Lúa gạo cả nước đạt hơn 44 triệu tấn lúa, tăng 1,2 triệu tấn so với 2023, xuất khẩu gạo đạt giá trị 3,03 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2023. Điểm nổi bất là giữa lúc thị trường số 1 là Trung Quốc giảm sút đến 40%, Việt Nam lại xuất khẩu được gạo vào 2 thị trường là Philipine và Indonesia.

Duy trì sản lượng gạo xuất khẩu trung bình 6 – 7 triệu tấn mỗi năm, Việt Nam đã vươn lên vị trí nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới.

Khu vực đồng bằng sông Cửu Long được xem là kho lúa gạo của cả nước và thế giới, với hơn 50% sản lượng gạo và chiếm 90% sản lượng xuất khẩu gạo của cả nước. Với kết quả tích cực của năm 2023, ngành Công Thương các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã tự tin đặt mục tiêu xuất khẩu cho năm 2023 cao hơn.

Song, thị trường xuất khẩu gạo những tháng đầu năm 2023 lại có những diễn biến không thuận lợi. Nhu cầu tiêu thụ gạo trong năm 2023 cho thấy là rất lớn, tập trung vào các sản phẩm gạo chất lượng cao. Tuy nhiên, cùng với việc nhu cầu tăng cao, các thị trường nhập khẩu cũng ngày càng yêu cầu khắt khe hơn về chất lượng và vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam đã ghi nhận sự quay đầu sụt giảm giá mạnh, khi khối lượng gạo xuất khẩu tháng 1/2023 ước đạt 373.000 tấn, với giá trị đạt 167 triệu USD, giảm 24,2% về khối lượng và giảm 30% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Thị trường lớn nhất là Trung Quốc chững lại. Tính đến giữa tháng 1/2023, Việt Nam mới chỉ xuất khẩu sang Trung Quốc được 132.000 tấn gạo, giảm 31,75% so với cùng kỳ và là mức thấp nhất kể từ năm 2023. Các thị trường khác chưa có nhiều khởi sắc. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm so với Thái Lan và Ấn Độ, do đang bước vào vụ thu hoạch lớn nhất trong năm là vụ Đông Xuân. Bên cạnh đó, các giao dịch xuất khẩu cũng ít hơn trong thời gian cận Tết.

Trong bối cảnh đó, những khó khăn nội tại của ngành Lúa gạo Việt Nam càng được đặt ra một cách cấp thiết, nhất là khi Việt Nam chưa có thương hiệu gạo xuất khẩu quốc gia, trong khi phải cạnh tranh gay gắt với các nhà xuất khẩu lớn là Thái Lan, Ấn Độ và một số nước mới nổi như Campuchia, Myanmar và Pakistan với những loại gạo đạt chất lượng vượt trội… liên tiếp gây áp lực đối với tình hình xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam.

2. Nhiều chính sách ưu đãi đặc thù hỗ trợ cho ngành Lúa gạo Việt Nam

Để hỗ trợ vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và cho người dân, doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh xuất khẩu lúa gạo nói riêng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi đặc thù.

Các chính sách luôn được sửa đổi bổ sung hoàn thiện phù hợp với thực tế phát triển của ngành như Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, sau đó được thay thế bởi Nghị định số 55/2023/NĐ-CP ngày 09/6/2023 và gần đây nhất là Nghị định số 116/2023/NĐ-CP ngày 07/9/2023 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2023/NĐ-CP với nhiều cơ chế ưu đãi đột phá, phù hợp với thực tiễn, như: nâng mức cho vay không có tài sản bảo đảm, chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu mối tổ chức mô hình liên kết với nông dân từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao gia tăng giá trị sản phẩm.

Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành cơ chế hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân khi vay vốn ngân hàng để mua máy móc, thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất, chế biến lúa gạo… nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo các Quyết định số 63, 65 và 68.

Trước những tín hiệu bất lợi cho xuất khẩu gạo, Bộ Công Thương đã chủ động bám sát diễn tiến thị trường chủ động có các giải pháp điều hành cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu gạo theo hướng mở. Theo đó, tự do hóa thị trường tập trung, không quản lý đầu mối nữa mà các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng được các yêu cầu đêu có thể tham gia xuất khẩu bình thường. Về mặt chính sách, đã chủ động “mở” sớm Nghị định số 107/2023/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo.

Đặc biệt, Bộ Công Thương đã tổ chức hội nghị nhằm chủ động tìm cách tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo cả nước, sơ kết tình hình xuất khẩu gạo, cũng như nhận diện các khó khăn, thuận lợi từ đó đưa ra giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo.

Theo các chuyên gia, những năm gần đây, nhiều nước tiêu dùng, nhập khẩu gạo đã có những sự thay đổi sâu sắc về chính sách đối với mặt hàng lúa gạo, như: thực hiện thuế hóa mặt hàng gạo; thay đổi phương thức nhập khẩu gạo cho phép nhiều nguồn cung tham gia các đợt thầu G2P để có nguồn cung gạo với giá cạnh tranh và chất lượng cao hơn.

Cùng đó, các nước nhập khẩu cũng nỗ lực nâng cao năng lực sản xuất trong nước hướng đến tự chủ về lương thực. Các nước sản xuất tập trung tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, điều kiện canh tác để sản xuất gạo có chất lượng và có thương hiệu. Các động thái và tình hình trên đã làm gia tăng lượng cung gạo toàn cầu, tăng tồn kho tại các nước xuất khẩu và làm thay đổi sâu sắc quan hệ cung – cầu theo hướng thị trường thuộc về người mua.

Ba chính sách lớn đã được ban hành là: Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2023-2023, định hướng đến năm 2030; Đề án tái cơ cấu ngành Lúa gạo Việt Nam đến năm 2023 và tầm nhìn đến năm 2030; Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030 và Nghị định quy định về kinh doanh xuất khẩu gạo.

Đặc biệt, ngày 15/8/2023, Nghị định số 107/2023/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo đã được ban hành thay thế Nghị định số 109/2010/NĐ-CP. Có thể đánh giá, Nghị định 107 đã thể hiện tư duy quản lý mới theo hướng giảm đáng kể chi phí gia nhập thị trường cho thương nhân, tạo động lực giải phóng mạnh mẽ năng lực kinh doanh thương mại, năng lực thị trường, thúc đẩy tiêu thụ, xuất khẩu thóc, gạo hàng hóa cho người nông dân.

Nghị định số 107/2023/NĐ-CP cũng bổ sung, điều chỉnh nhiều quy định về hợp đồng tập trung, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả các quy định về cơ chế hợp đồng tập trung, thúc đẩy xuất khẩu gạo.

Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và giảm tổn thất trong nông nghiệp, ngành Ngân hàng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm triển khai chủ trương của Chính phủ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung và lúa gạo nói riêng được tiếp cận vốn với lãi suất ưu đãi hợp lý và giảm áp lực tài sản đảm bảo đối với hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp, trong đó có ngành Lúa gạo.

Sau 2 năm (2023 – 2023) thành công liên tiếp của ngành Lúa gạo Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, trước diễn biến không thuận lợi của thị trường xuất khẩu lúa gạo trong những tháng đầu năm 2023, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động chỉ đạo các ngân hàng thương mại cân đối nguồn vốn, tập trung cho vay, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn để doanh nghiệp thu mua thóc, gạo cho nông dân. Ngành Ngân hàng cam kết sẵn sàng đáp ứng đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ lúa gạo.

3. Cơ hội cho ngành Lúa gạo Việt Nam

Năm 2023, ngành Lúa gạo Việt Nam được đánh giá gặp nhiều khó khăn, song với sự quan tâm chỉ đạo khẩn trương của Chính phủ, sự vào cuộc kịp thời của các Bộ, ban, ngành và sự nỗ lực vượt khó của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, những tín hiệu vui từ hoạt động xuất khẩu lúa gạo cuối năm 2023 và tình hình xuất khẩu gạo năm 2023 được dự báo có nhiều khời sắc, khi hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) được thực thi mở ra một hướng phát triển mới trong tương lai.

Một doanh nghiệp xuất khẩu gạo hàng đầu của Việt Nam cho biết, doanh nghiệp đã đẩy mạnh sản xuất và XK gạo bền vững bằng cách xây dựng các chuỗi sản xuất lúa gạo khép kín. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, doanh nghiệp này đã sản xuất lúa gạo theo chuỗi giá trị, tạo vùng nguyên liệu, xây dựng các cánh đồng lớn ở nhiều địa phương khu vực đồng bằng sông Cửu Long với sự hỗ trợ của lực lượng kỹ sư 3 cùng (cùng ăn, cùng ở và cùng làm với bà con nông dân). Bên cạnh đó, liên kết chặt với các hợp tác xã kiểu mới, kiểm soát chặt quy trình từ khâu trồng trọt đến phân loại lúa khi thu hoạch, chế biến tại nhà máy và xuất khẩu gạo.

Với định hướng chỉ xuất khẩu gạo chất lượng và độ thuần cao, doanh nghiệp đã từng bước giảm dần gạo đóng bao 25 kg hoặc 50 kg, chủ yếu đưa ra sản phẩm đóng gói 5 – 10 kg. Đây là một trong những lý do giúp doanh nghiệp ngày càng mở rộng được thị trường và nâng cao kim ngạch xuất khẩu trong suốt thời gian qua.

Về cơ hội thị trường, khi FTA Việt Nam – EU (EVFTA) vừa được Nghị viện châu Âu thông qua, các chuyên gia của ngành Nông nghiệp nhận định: “EVFTA có hiệu lực có thể không khiến kim ngạch xuất khẩu gạo tăng đột biến, song sẽ là cơ hội rất lớn để đa dạng hóa thị trường cho gạo xuất khẩu. Việc có mặt ở một trong những thị trường có đòi hỏi cao nhất thế giới cũng là cơ hội cho gạo Việt Nam quảng bá thương hiệu và vào được nhiều thị trường khác”.

Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang kỳ vọng mở rộng thị trường trong năm 2023 sau năm 2023 gặp rất nhiều khó khăn. Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, năm 2023, Việt Nam xuất khẩu 6,37 triệu tấn gạo, trị giá 2,8 tỷ USD, tăng 4,2% về lượng và giảm 8,3% giá trị. Tuy nhiên, bước vào tháng đầu tiên của năm 2023, tình hình xuất khẩu gạo đang có dấu hiệu khả quan hơn. Cụ thể, dù rơi vào thời điểm nghỉ Tết, nhưng xuất khẩu gạo tháng 1/2023 vẫn đạt 559,61 nghìn tấn, trị giá 270,26 triệu USD, tăng 28,05% về lượng và 38,38% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2023.

Xuất khẩu gạo cũng có nhiều khả năng tăng trưởng tốt trong các tháng tới khi theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Nông nghiệp Nước ngoài thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), Philippines – thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam trong năm 2023 sẽ tiếp tục là nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới với khoảng 2,5 triệu tấn gạo. Bên cạnh đó, đại diện của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cũng cho biết, năm 2023, triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam là khá tốt khi tiêu thụ tại châu Phi tương đối khả quan.

Đặc biệt, năm 2023, Việt Nam có một số thuận lợi do các FTA đã đi vào thực thi. Cụ thể, trong khuôn khổ tham vấn song phương với Hàn Quốc về việc nước này thuế hóa mặt hàng gạo trong khuôn khổ WTO, Việt Nam đã ký kết với Hàn Quốc hai văn bản là Thỏa thuận nhiều bên giữa Hàn Quốc và 5 đối tác WTO (gồm Australia, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam), về việc phân bổ hạn ngạch thuế quan; Thư trao đổi song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc về phân bổ hạn ngạch thuế quan. Như vậy, kể từ ngày 1/1/2023, bên cạnh việc phân bổ 20 nghìn tấn gạo cho tất cả thành viên WTO, Hàn Quốc sẽ dành cho Việt Nam hạn ngạch riêng là 55.112 tấn gạo. Lượng hạn ngạch phân bổ cho Việt Nam bao gồm các loại gạo mà Việt Nam có thể trồng và xuất khẩu. Với thị trường EU, EVFTA khi có hiệu lực sẽ mở hạn ngạch khoảng 40 nghìn tấn gạo (trong tổng số 85 nghìn tấn hạn ngạch theo cam kết)… Đây là cơ hội để nhiều loại gạo của Việt Nam, đặc biệt là gạo chất lượng cao, gạo hữu cơ vào được thị trường này.

Ngoài ra, sau hơn 1 năm thực thi Nghị định số 107/2023/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, Bộ Công Thương đã cấp thêm 47 Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh XK gạo, nâng con số thương nhân XK gạo lên 182 thương nhân, mở ra cơ hội cho nhiều doanh nghiệp cùng được tham gia xuất khẩu gạo trong bối cảnh nhiều FTA đã và đang chuẩn bị có hiệu lực.

4. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cho ngành Lúa gạo Việt Nam

Cơ hội cho ngành Lúa gạo là có, song khó khăn chưa kết thúc. Trước mắt, tình trạng hạn mặn xảy ra tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã và đang tác động trực tiếp đến tình hình sản xuất lúa gạo. Trong tháng 2/2023, các doanh nghiệp vẫn chưa có hợp đồng tập trung nào lớn. Đặc biệt, dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp đã và đang tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu gạo khi các giao dịch xuất khẩu gạo từ Việt Nam sang Trung Quốc gặp nhiều khó khăn.

Tuy vậy, ở góc độ tích cực, do từ vài năm gần đây, Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp để trở thành quốc gia xuất khẩu gạo, đồng thời đang trong tình hình dịch bệnh cũng khiến lượng cung gạo từ Trung Quốc giảm đi, tạo cơ hội cho gạo Việt Nam chiếm lĩnh các thị trường xuất khẩu gạo Trung Quốc để lại.

Để tận dụng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong năm 2023, lãnh đạo Bộ Công Thương lưu ý các DN cần chú ý khi ký kết hợp đồng phải có điều khoản bảo hiểm, tránh rủi ro. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải tập trung giữ vững thị trường Philippines, đáp ứng những tiêu chuẩn của nước bạn đưa ra.

Về phía Hiệp hội Lương thực Việt Nam cũng khuyến cao thêm, ngành Lúa gạo cần phải phát triển các loại gạo mới có chất lượng, thương hiệu, bên cạnh việc chú trọng tới khâu sản xuất, xây dựng quảng bá hình ảnh. Sau bài học từ cơn sốt gạo ngon nhất thế giới ST25 cho thấy, người tiêu dùng đang ngày càng quan tâm hơn đến những sản phẩm có giá trị cao, có uy tín trên thị trường. Hiệu ứng từ gạo ST25 đã khiến loại gạo ST24 của nhiều DN xuất khẩu được quan tâm, tiêu thụ mạnh hơn, kéo theo giá thành được đẩy lên rất cao từ 22 ngàn đồng/kg lên 34.000 – 35.000 đồng/kg. Chính vì thế, doanh nghiệp cần nghiên cứu đầu tư sâu giống mới, cũng như sản xuất mặt hàng lúa thơm có lợi nhuận cao, thay vì trồng các loại gạo trắng bình thường có giá trị thấp.

Về lâu dài, tái cơ cấu sản xuất lúa gạo cũng như các sản phẩm nông nghiệp khác được khuyến cáo cần phải đi theo hướng lấy tín hiệu thị trường để định đướng quy hoạch và tổ chức sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, xuất khẩu, nhằm ổn định hoạt động tiêu thụ với giá có lợi cho người nông dân, nâng cao thu nhập của người nông dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2023), Nghị định số 55/2023/NĐ-CP ngày 09/6/2023 quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. 2. Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2023), Nghị định số 107/2023/NĐ-CP ngày 15/8/2023 về kinh doanh xuất khẩu gạo. 3. Thủ tướng Chính phủ (2023), Quyết định số: 942/QĐ-TTg, phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2023-2023, định hướng đến năm 2030”. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2023), Quyết định số 1898/QĐ-BNN-TT, ngày 23/5/2023, phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành Lúa gạo Việt Nam đến năm 2023 và tầm nhìn đến năm 2030″. 5. Thủ tướng Chính phủ (2023), Quyết định số 706/QĐ-TTg năm 2023, ngày 21/5/2023, phê duyệt “Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030”.

Solutions for developing Vietnam’s rice industry

Department of Economics, Trade Union University

Rice plays a strategic role in Vietnam’s food security. Despite difficulties in the export market, Vietnam still exported 6.3 million tons of rice with a turnover of US $ 2.7 billion in 2023 thanks to the close attention from the Government of Vietnam, the active participation of ministries, departments and units. This paper analyzes the challenges, opportunities and drastic policies of the government to support the rice industry, thereby suggesting some suggestions for the development of Vietnam’s rice export in the next period.

Keywords: Exports, Vietnam’s rice industry, solution.

Nhiều Giải Pháp Thúc Đẩy Xuất Khẩu Năm 2023

Năm nay, đích đến của xuất khẩu Việt Nam là 300 tỷ USD, riêng Đồng Nai là 21,7 tỷ USD. Để hoàn thành kế hoạch ngoài nỗ lực của doanh nghiệp (DN), Chính phủ, các tỉnh, thành tập trung vào những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN, thực hiện công tác phòng vệ thương mại để bảo vệ hàng Việt.

Sản xuất mặt hàng dệt may xuất khẩu tại Công ty cổ phần Tổng công ty may Đồng Nai (TP.Biên Hòa). Ảnh: H.Giang

Theo Sở Công thương, Đồng Nai đã có 6 năm liền xuất siêu, đi trước cả nước 2 năm. Năm 2023, xuất siêu của tỉnh chiếm hơn 30% xuất siêu của cả nước. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu, Đồng Nai hướng đến tăng kim ngạch xuất siêu.

* Giảm thời gian, thủ tục xuất nhập khẩu

Tại nhiều buổi họp bàn về tình hình xuất nhập khẩu hiện nay, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh lưu ý, năm 2023, thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng hơn nữa. Trong đó, sẽ đan xen giữa thuận lợi và thách thức, muốn vượt qua được những khó khăn DN phải tiến hành tái cơ cấu sản xuất. Mục tiêu để đáp ứng được các thị trường truyền thống và tiếp tục mở rộng các thị trường mới.

Năm 2023, Đồng Nai tiếp tục chính sách đồng hành cùng DN và dự kiến trong tháng 2-2023, UBND tỉnh sẽ tổ chức hội nghị gặp gỡ DN trong nước, DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để nắm bắt những vướng mắc, kịp thời tháo gỡ giúp sản xuất, xuất khẩu ổn định hơn. Ngành thuế, hải quan của tỉnh cũng có kế hoạch gặp gỡ DN theo từng quý để ghi nhận những phản ảnh về thủ tục, chính sách tìm hướng giải quyết cho DN.

Ông Wu Minh Ying, Hội trưởng Hiệp hội Doanh nghiệp Đài Loan tại Đồng Nai bày tỏ: “Năm 2023, tỉnh và các sở, ngành đã có nhiều hỗ trợ với DN Đài Loan trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu nên đa số hoạt động hiệu quả. Năm nay, các DN mong chính quyền tỉnh tiếp tục hướng dẫn DN các chính sách mới, rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu để giảm chi phí cho DN”.

Vấn đề nhiều DN mong muốn là các thủ tục xuất, nhập khẩu giải quyết nhanh gọn để có nguyên liệu sản xuất kịp thời, hàng xuất đi nhanh, giảm chi phí lưu kho…

Cục trưởng Cục Hải quan Đồng Nai Phùng Thị Bích Hường cho biết: “Năm 2023, ngành hải quan tiếp tục cải cách hành chính, tăng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, thực hiện cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại cho DN. Ngành hải quan phối hợp chặt chẽ với các cơ quan kiểm tra chuyên ngành, thực hiện đổi mới phương pháp kiểm tra, giảm thời gian thông quan hàng hóa”.

* Tăng xúc tiến thương mại

Mỗi năm, Đồng Nai đều có những đợt xúc tiến thương mại sang các nước để tạo điều kiện cho DN phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu. Qua đó, giúp DN củng cố và tạo bước đột phá ở những thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng. Những quốc gia, vùng lãnh thổ xuất khẩu trọng điểm của Đồng Nai trong năm nay là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Liên minh châu Âu, ASEAN, Úc, Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Ông Lê Văn Lộc, Phó giám đốc Sở Công thương chia sẻ: “Để đạt kế hoạch tăng trưởng xuất khẩu của năm, tỉnh sẽ hỗ trợ giao thương giữa các DN, cơ sở sản xuất công nghiệp và nhà phân phối, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, lợi thế thương mại cho một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh”. Theo ông Lộc, tỉnh sẽ tập trung xúc tiến thương mại tìm kiếm thị trường mới, tận dụng tốt các cơ hội mở cửa của nước ngoài và lộ trình cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang các thị trường đã ký các thỏa thuận thương mại tự do.

Uyển Nhi

Luận Văn Đề Án Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Gạo Ở Việt Nam

Sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam đã và đang đạt được những thắng lợi rất khả quan, trước hết phải kể đến thắng lợi của mặt trận nông nghiệp. Trong nông nghiệp, thắng lợi lớn nhất là bước ngoặt phát triển về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Từ một nước nông nghiệp thiếu đói kéo dài, Việt Nam không chỉ tự túc được lương thực ổn định, mà còn vươn lên đẩy mạnh xuất khẩu và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Đó là một kỳ tích mà cả thế giới biết đến. Thành tựu đó chứng minh đường lối đổi mới nông nghiệp của Đảng nói chung, định hướng chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo nói riêng là đúng đắn. Tuy nhiên, chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có nhiều biến đổi, cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế toàn cầu diễn ra hết sức gay gắt, thì vấn đề sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó, đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển khôn ngoan, có sự tính toán kỹ càng, cẩn trọng trong một tổng thể chiến lựơc phát triển chung mới dành được thắng lợi và đạt được hiệu quả tối ưu. Đối với nước ta xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ngoại tệ thu được từ xuất khẩu là nguồn vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng thu nhập đặc biệt đối với người nông dân. Cùng với Việt Nam, trên thị trường gạo thế giới còn có nhiều nước khác tham gia như:Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc, Pakistan đó là những đối thủ cạnh tranh lớn của nước ta. Mười bốn năm qua xuất khẩu gạo cuả Việt Nam đã thu được những thành tựu nhất định nhưng bên cạnh đó còn nhiều bất cập cần giải quyết như vấn đề thị trường, giá cả, chất lượng gạo, vấn đề đầu ra Nếu những vấn đề trên được giải quyết một cách hợp lý thì xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có bước phát triển cao hơn trong thời gian tới. Với đề tài ” Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam” em xin được đưa ra một vài đánh giá về thực trạng xuất khẩu gạo và cách giải quyết để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta. Nội dung của đề án gồm 3 chương: Chương I: Lý luận về xuất khẩu gạo. Chương II: Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu gạo. Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam.

TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC

TIN KHUYẾN MÃI

Thư viện tài liệu Phong Phú

Hỗ trợ download nhiều Website

Nạp thẻ & Download nhanh

Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay

Nhận nhiều khuyến mãi

Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay

NẠP THẺ NGAY

DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN

Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Sữa trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!