Xu Hướng 6/2023 # Gia Lai: Nhiều Giải Pháp Phát Triển Lâm Nghiệp Bền Vững # Top 11 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Gia Lai: Nhiều Giải Pháp Phát Triển Lâm Nghiệp Bền Vững # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Gia Lai: Nhiều Giải Pháp Phát Triển Lâm Nghiệp Bền Vững được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

(GLO)- “Phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững, tăng cường sinh kế, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng thích ứng với biến đổi khí hậu” là 1 trong 4 chương trình trọng tâm được Đảng bộ tỉnh Gia Lai đề ra trong nhiệm kỳ 2020-2025. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân với những giải pháp đồng bộ, thiết thực.  

Hội thảo về phát triển bền vững ngành nông-lâm nghiệp Tây Nguyên

Quản lý sản xuất, kinh doanh giống cây trồng lâm nghiệp

Hiệu quả bước đầu Phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững là hướng đi đúng đắn của tỉnh trong nhiều năm qua. Nhờ thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của kế hoạch tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, trong 5 năm (2016-2020), diện tích rừng trồng mới trên toàn tỉnh đạt 25.271 ha, bằng 276,5% so với kế hoạch, gấp 6,3 lần so với Nghị quyết đề ra; góp phần nâng độ che phủ rừng (kể cả cao su và các cây đặc sản khác) lên 46,7%. Diện tích rừng khoán quản lý đến năm 2020 đạt 153.890 ha (tăng 25.906 ha so với năm 2015). Công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng cũng được các ngành, địa phương quan tâm chỉ đạo.

Việc giao khoán rừng cho người dân quản lý bảo vệ góp phần hạn chế tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng. Ảnh: Quang Tấn

Kbang là một trong những địa phương có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn của tỉnh với hơn 128.000 ha (chiếm gần 70% diện tích tự nhiên), phân bố ở 13/14 xã, thị trấn. Trong đó, rừng tự nhiên hơn 122.000 ha, rừng trồng hơn 1.800 ha và đất chưa có rừng là 4.300 ha. Đứng chân trên địa bàn huyện có 14 đơn vị chủ rừng, gồm 7 công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp, Ban Quản lý rừng phòng hộ xã Nam, Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng, Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh, Trung tâm Lâm nghiệp nhiệt đới và 3 xã: Đông, Kon Pne, Nghĩa An.

Xác định công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là nhiệm vụ chính trị quan trọng, những năm qua, UBND huyện tập trung chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, lực lượng chức năng cũng như đơn vị chủ rừng triển khai quyết liệt, đồng bộ, thường xuyên, liên tục các giải pháp; đồng thời huy động cả hệ thống chính trị cùng nhân dân tham gia công tác này. Phát biểu tham luận tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI mới đây, ông Phan Trần Thọ-Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Kbang-cho hay: “Nhờ việc chỉ đạo triển khai một số giải pháp mang tính đột phá trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng nên lĩnh vực này đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Phần lớn các vụ vi phạm đều được phát hiện và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, từng bước ngăn chặn tình trạng khai thác, mua bán, vận chuyển và lấn, phá rừng làm nông nghiệp trái pháp luật; tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng bền vững. Việc giao khoán bảo vệ rừng cũng đã phát huy tinh thần, trách nhiệm của người dân trong công tác bảo vệ rừng”. Tương tự, công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cũng được huyện Kông Chro chú trọng. Đây cũng là địa phương đi đầu toàn tỉnh về tiến độ thu hồi đất lâm nghiệp bị lấn chiếm và triển khai trồng rừng. Trong 5 năm (2015-2020), huyện đã thu hồi đất rừng bị lấn chiếm và tiến hành trồng mới gần 4.000 ha rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 55,76%. Đặc biệt, chủ trương trồng rừng nhận được sự đồng thuận và tích cực tham gia từ phía người dân. Anh Đinh Văn Poi (làng Tnùng 1, xã Ya Ma, huyện Kông Chro) chia sẻ: “Sau khi được chính quyền xã, Hạt Kiểm lâm huyện vận động kê khai đất lâm nghiệp để chuyển sang trồng rừng, gia đình mình đã tự nguyện chuyển 1 ha đất trồng lúa cạn sang trồng bạch đàn vào năm 2017. Dù đất đồi núi nhưng cây rừng phát triển rất tốt, mình hy vọng đến thời kỳ khai thác sẽ cho sản lượng cao”.

Cũng theo anh Poi, nhiều hộ dân trong làng chuyển sang trồng rừng, nhiều hộ có thu nhập khá nhờ trồng rừng. Do đó, thời gian tới, anh sẽ tiếp tục chuyển phần diện tích trồng lúa cạn kém hiệu quả sang trồng rừng để vừa có thu nhập cao, vừa góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Hướng đến những mục tiêu cao hơn

Gia Lai phấn đấu đến năm 2025 nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 47,75%. Ảnh: Quang Tấn

Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, đồng chí Trần Quốc Vượng-Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng-nhấn mạnh: Trong nhiệm kỳ 2020-2025, Gia Lai phải tăng cường bảo vệ, phát triển rừng, phấn đấu nâng độ che phủ rừng lên trên 50%. Tỉnh cần xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà trước mắt là giữ rừng, bảo đảm tái sinh rừng, phục hồi nhanh hệ sinh thái rừng bền vững, trong đó có hệ sinh thái rừng đặc trưng Kon Hà Nừng. Việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ rừng không chỉ là bảo vệ cuộc sống của đồng bào trong tỉnh mà còn góp phần quan trọng bảo vệ an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên.

Để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Kbang lần thứ IX (nhiệm kỳ 2020-2025) cũng xác định đây là 1 trong 4 chương trình trọng tâm. Theo đó, huyện sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và mọi người dân đối với công tác bảo vệ và phát triển rừng; xây dựng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm, có hiệu quả nghị quyết chuyên đề về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn và phát triển vốn rừng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Đồng thời, huyện tiếp tục triển khai các giải pháp đột phá đã thực hiện khá hiệu quả trong thời gian qua. “Trong nhiệm kỳ 2020-2025, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xác định chỉ tiêu nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 70,13% năm 2020 lên 70,5% vào cuối năm 2025. Để triển khai thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu này, huyện sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác trồng rừng mới, trồng rừng thay thế, trồng lại rừng trên diện tích rừng trồng sau khai thác. Trong đó, chú trọng trồng mới rừng trên quỹ đất nương rẫy có độ dốc lớn, bạc màu, quỹ đất trên cốt ngập lòng hồ Ka Nak, thu hồi đất lâm nghiệp bị lấn chiếm để trồng rừng; trồng cây mắc ca, cây giổi xanh xen canh cây nông nghiệp; nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường đối với rừng sản xuất; khai thác có hiệu quả, hợp lý các nguồn lợi từ rừng; thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của người dân từ tài nguyên rừng”-Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Kbang thông tin. Bên cạnh chăm sóc tốt diện tích rừng hiện có, huyện Kông Chro cũng sẽ tiếp tục phủ xanh những diện tích đất còn khả năng phát triển lâm nghiệp. “Mục tiêu đặt ra đến năm 2025, toàn huyện trồng mới được trên 2.100 ha rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 56%. Cùng với đó, huyện sẽ đẩy mạnh công tác giao đất trồng rừng, giao khoán và bảo vệ rừng cho người dân sống và sản xuất gần rừng để hạn chế nạn phá rừng, lấn chiếm đất rừng; tập trung hỗ trợ, khuyến khích người dân tại các xã phía Đông của huyện là Đak Pling, Đak Song, Sró và Đak Kơ Ning phát triển kinh tế rừng; qua đó giúp người dân tăng thêm thu nhập, ổn định cuộc sống”-ông Phan Văn Trung-Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Kông Chro-nhấn mạnh.

Giai đoạn 2015-2020, huyện Kông Chro đã trồng mới gần 4.000 ha rừng. Ảnh: Hồng Thi

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đưa ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2025 trồng mới 40.000 ha rừng (tương đương mỗi năm trồng khoảng 8.000 ha), nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 47,75%. Để đạt được điều đó, tỉnh sẽ khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, bảo vệ rừng; đồng thời đẩy mạnh thu hút doanh nghiệp trồng rừng gắn với chế biến gỗ rừng trồng và sinh kế dưới tán rừng. Trao đổi với P.V, ông Lưu Trung Nghĩa-Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT-cho biết: Giai đoạn 2015-2020, toàn tỉnh đã trồng mới trên 25.000 ha rừng (gấp 6,3 lần so với Nghị quyết). Đây được xem là thành công rất lớn không phải tỉnh nào cũng làm được, tạo tiền đề cho nhiệm kỳ mới.

Từ chương trình trọng tâm đề ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, ngành sẽ tham mưu giúp Tỉnh ủy, UBND tỉnh huy động các nguồn lực để tập trung đầu tư nâng cao hạ tầng sản xuất lâm nghiệp; cùng với các doanh nghiệp hỗ trợ người dân trồng rừng theo tiêu chuẩn FSC (hệ thống các tiêu chuẩn chứng nhận nguồn gốc gỗ cho các nhà khai thác-P.V) để thuận lợi gia nhập thị trường gỗ của thế giới; hướng dẫn, khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhau để hình thành các nhà máy thu mua nguyên liệu mà người dân sản xuất ra; đồng thời, tăng cường năng lực hỗ trợ cho lực lượng tham gia quản lý, bảo vệ rừng và trồng rừng, kể cả người dân. Mục đích hướng đến là nhằm nâng cao tỷ lệ che phủ rừng; tạo sinh kế cho bà con vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa thông qua phát triển kinh tế xanh, kinh tế rừng.

 HỒNG THI-QUANG TẤN  

Giải Pháp Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững

(HNM) – Cùng với việc phát triển các chuỗi sản xuất, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao…, ngành Nông nghiệp Hà Nội đã chú trọng quảng bá, kết nối, xúc tiến tiêu thụ nông sản. Đây là một trong những giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững.

Ít có đơn vị nào như Hợp tác xã Rau an toàn Thụy Hương (xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ), có 100% sản phẩm rau xanh sản xuất ra đều được các trường học, doanh nghiệp, siêu thị ký hợp đồng thu mua. Chủ tịch Hội Nông dân xã Thụy Hương Nguyễn Thị Hường chia sẻ: Hợp tác xã có 20ha trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP, trong đó có 5.000m2 trồng trong nhà lưới, nhà kính và ứng dụng công nghệ cao… Trước đây, chỉ 20% lượng rau của hợp tác xã sản xuất ra được tiêu thụ qua đơn đặt hàng của một số trường học. Nhưng, kể từ khi được ngành Nông nghiệp Hà Nội hỗ trợ, quảng bá, giới thiệu…, lượng rau tiêu thụ qua hợp đồng của hợp tác xã tăng vọt, đến nay không còn phải lo đầu ra.

Tương tự, xã viên Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Tam Hưng (xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai) không còn phải lo đầu ra cho sản phẩm gạo thơm Bối Khê. Giám đốc Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Tam Hưng Đỗ Văn Kiên cho hay: Chuỗi lúa gạo Tam Hưng đang cung ứng cho thị trường hơn 200 tấn gạo chất lượng cao mỗi năm. Toàn bộ sản phẩm đều được doanh nghiệp đặt hàng thu mua. Để có được kết quả này, ngành Nông nghiệp Hà Nội đã giúp hợp tác xã quy trình sản xuất, quảng bá, kết nối với doanh nghiệp, qua đó sản phẩm đến được với người tiêu dùng qua kênh bán hàng uy tín.

Thực tế, thông qua quảng bá, xúc tiến, nông sản đã đến gần hơn với người tiêu dùng là một kết quả tất yếu, tuy nhiên, việc vận dụng quảng bá, kết nối ra sao lại là lộ trình cần được tính toán, sắp xếp hài hòa. Về vấn đề này, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường cho rằng: Sản phẩm được chọn để quảng bá, xúc tiến… phải là những sản phẩm chất lượng, có thương hiệu. Mặt khác, nông dân sản xuất phải theo nhu cầu thị trường, có kế hoạch sản xuất, quảng bá và xúc tiến thương mại cụ thể… Thời gian qua, ngành Nông nghiệp Hà Nội đã tích cực phối hợp với các địa phương, sở, ngành quảng bá, kết nối nông sản…, song đến nay mới có khoảng 15% lượng nông sản an toàn được tiêu thụ thông qua liên kết.

Ở góc độ doanh nghiệp tiêu thụ nông sản, Giám đốc Công ty Big Green Nguyễn Tiến Hưng khẳng định: Sản xuất nông sản an toàn, chất lượng, có chứng nhận, thương hiệu sẽ không lo đầu ra. Tiếc rằng, việc này thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua đã gặp một số khó khăn, vướng mắc. Đây cũng là lý do vì sao dù sản lượng sản xuất rau xanh của Hà Nội đạt gần 600.000 tấn/năm, đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu của người tiêu dùng Thủ đô, 40% còn lại cung cấp từ các địa phương khác, nhưng sản phẩm rau của thành phố vẫn khó tiêu thụ.

Để thúc đẩy kết nối tiêu thụ nông sản, ngoài việc duy trì 80 chuỗi liên kết nông sản an toàn từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, ngành Nông nghiệp Hà Nội sẽ tiếp tục phát triển các chuỗi sản xuất tiêu thụ nông sản, đồng thời xúc tiến tiêu thụ nông sản thông qua chợ nông sản điện tử, sàn giao dịch nông sản an toàn… Ngoài duy trì liên kết, hợp tác với 34 tỉnh, thành phố có nguồn cung nông sản lớn, bảo đảm an toàn, Sở NN&PTNT Hà Nội tiếp tục phối hợp chặt chẽ với 21 tỉnh, thành phố trong Ban Điều phối chương trình phát triển chuỗi cung ứng rau, thịt an toàn cho thành phố Hà Nội trong tiêu thụ nông sản, thực phẩm; tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia hội chợ nông sản thực phẩm an toàn tại các địa phương trong toàn quốc. Sở cũng sẽ xem xét tham mưu thành phố tăng nguồn kinh phí, có nhiều chính sách hỗ trợ người sản xuất, doanh nghiệp trong quảng bá, kết nối sản phẩm nông sản…

Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Gia Cầm Bền Vững

Ngành chăn nuôi trong những năm qua đạt mức tăng trưởng 5-6%/năm. Trong đó chăn nuôi gia cầm đã cơ bản đáp ứng thực phẩm cho nhu cầu trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận lớn nông dân. Con số này sẽ cao hơn nếu ngành chăn nuôi có những giải pháp phát triển bền vững.

Theo Cục chăn nuôi, hiện tổng đàn gia cầm của cả nước khoảng hơn 308 triệu con, trong đó hai vùng có số lượng gia cầm lớn nhất là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, với tốc độ bình quân mỗi năm tăng 4,4 và 6%. Trong đó, các loại giống gia cầm khá phong phú, với hơn 50 loại giống gia cầm các loại, tuy nhiên chủ yếu là tự phát, thiếu sự quản lý và quy hoạch giống.

Để ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi gia cầm nói riêng phát triển bền vững, theo TS Trần Công Xuân, Chủ tịch Hiệp hội gia cầm Việt Nam: Trước hết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp Tổng cục Thống kê để thống nhất phương pháp thống kê sản lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm của ngành chăn nuôi, vì đây là chỉ tiêu cực kỳ quan trọng đối với ngành chăn nuôi nhằm đánh giá đúng vị trí và đóng góp của ngành chăn nuôi, là cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển ngành chăn nuôi.

Hai là, cần đầu tư các cơ sở nuôi giữ, bảo tồn, chọn lọc, nhân các giống gia cầm trong nước quý để làm nguyên liệu lai giữa các giống gia cầm nội và lai giữa các giống gia cầm nội với gia cầm ngoại, tạo con lai thương phẩm có năng suất, chất lượng cao, cung cấp cho thị trường trong nước và hướng xuất khẩu. Khuyến khích phát triển cây nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi để giảm nhập, giảm giá thành thức ăn. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở giết mổ tập trung và kinh doanh thực phẩm có nguồn gốc và động vật, giao đất vĩnh viễn hoặc có thời hạn dài để chủ đầu tư yên tâm đầu tư phát triển cơ sở giết mổ tập trung và công nghiệp. Quy hoạch xây dựng chợ đầu mối để kiểm soát vận chuyển trước khi cung ứng cho các cơ sở giết mổ theo vùng và theo chuỗi cung ứng.

Ba là, khả năng sản xuất của ngành chăn nuôi trong nước rất lớn, không những cung cấp dư thừa cho nhu cầu trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu, do đó cần phải bảo hộ người chăn nuôi trong nước. Muốn vậy, cùng với việc quan tâm đào tạo nghề chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng cho người chăn nuôi kể cả quản lý và khoa học kỹ thuật, các cơ quan chức năng, nhất là ủy ban nhân dân các cấp của các tỉnh biên giới và giáp biên giới cần thực hiện nghiêm túc Công điện 1180 ngày 31-7-2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngăn chặn nhập lậu các sản phẩm chăn nuôi chưa kiểm soát qua biên giới. Nên chăng không khuyến khích các tập đoàn, các cơ sở nước ngoài vào Việt Nam tổ chức sản xuất chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng, cũng như hạn chế nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi kể cả chính ngạch.

Giải Pháp Phát Triển Bền Vững

Moitruong24h – Là cây công nghiệp mũi nhọn của nhiều địa phương, nhưng cây chè đang gặp những khó khăn do việc phát triển manh mún, chất lượng chè ở nhiều nơi còn thấp, chưa phát huy hết tiềm năng. Vì vậy, để sản xuất chè bền vững, các bộ, ngành, địa phương cần có những giải pháp, bước đi phù hợp để nâng cao năng suất, chất lượng. Nông dân xã Thịnh Hưng, huyện Yên Bình (Yên Bái) thu hoạch chè bằng máy, mang lại hiệu quả kinh tế cao Chưa phát huy hết tiềm năng

Theo Cục Trồng trọt, diện tích chè cả nước năm 2016 đạt 133,4 nghìn ha, trong đó diện tích chè kinh doanh là 115 nghìn ha. Về sản lượng, năng suất chè cả nước năm 2016 bình quân đạt 86,9 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi đạt hơn một triệu tấn. Tuy nhiên, việc sản xuất chè vẫn gặp nhiều khó khăn do hàng nghìn hộ sản xuất, chế biến chè xanh và chè đặc sản nhỏ lẻ theo kiểu truyền thống. Hơn nữa, các cơ sở chế biến nhỏ tự phát không theo quy hoạch với công nghệ chắp vá, lạc hậu. Nguyên liệu chè cung cấp cho chế biến chủ yếu từ các giống có chất lượng thấp, quy mô sản xuất nhỏ với bình quân khoảng 0,2 ha/hộ, sản xuất kém bền vững.

Bên cạnh đó, một số nơi doanh nghiệp mua nguyên liệu tự do, không theo phẩm cấp phân loại và không kiểm soát được nguồn gốc, chất lượng nguyên liệu đầu vào cũng như truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Và, mặc dù các loại giống mới đã được trồng đại trà, với bộ giống chè khá đa dạng cho chất lượng, năng suất cao, có hương vị đặc biệt, song hiện vẫn chưa có quy trình kỹ thuật chế biến cụ thể cho từng giống để phát huy hết tiềm năng của giống cũng như lợi thế vùng sinh thái.

Nông dân trồng chè chưa quan tâm kỹ thuật thu hái và chất lượng nguyên liệu, làm ảnh hưởng chất lượng sản phẩm, cũng như tăng chi phí đầu tư và nhân công trong quá trình chế biến. Bên cạnh đó, quá trình vận chuyển, bảo quản nguyên liệu chè búp tươi không bảo đảm yêu cầu kỹ thuật, khiến chất lượng chè nguyên liệu giảm nhanh sau thu hoạch.

Theo Phó Chủ tịch UBND huyện Văn Chấn (Yên Bái) Nông Ích Chấn, với lợi thế về thổ nhưỡng, khí hậu, chè shan tuyết Suối Giàng đã mang lại nguồn thu nhập ổn định cho các hộ sản xuất nơi đây. Nhưng thực tế, một số nơi vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh vốn có để phát huy hiệu quả loại cây trồng này. Nguyên nhân chủ yếu do một số diện tích chè hiện sinh trưởng, phát triển kém, song chưa có giải pháp đầu tư chăm sóc hợp lý. Hướng đi sắp tới của địa phương là áp dụng các quy trình kỹ thuật thâm canh chè, các tiêu chuẩn vào sản xuất, kinh doanh để hình thành các vùng chè an toàn.

Tại tỉnh Phú Thọ, quy mô sản xuất chè nguyên liệu bình quân chỉ khoảng 0,3 – 0,4 ha/hộ, cho nên khó tiếp cận các tiến bộ kỹ thuật và chứng nhận chè an toàn. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng còn hạn chế, phần lớn diện tích chè phụ thuộc vào nước trời, chưa phát huy năng suất của giống. Thêm vào đó, mức đầu tư phân bón cho chè nhìn chung còn thấp, mất cân đối và chưa đáp ứng nhu cầu thâm canh.

Cùng vấn đề trên, Quyền Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tuyên Quang Nguyễn Công Nông cho biết, hiện nay một số vùng trồng chè của tỉnh diện tích còn manh mún, không tập trung, cho nên việc hướng dẫn người dân thực hiện đúng quy trình sản xuất chè bền vững gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, các địa phương vùng núi có đất đai, khí hậu thích nghi với cây chè đặc sản, nhưng trình độ thâm canh của người sản xuất chưa cao, dẫn đến năng suất thấp; đồng thời chưa có nhiều doanh nghiệp đủ năng lực tham gia vào chuỗi sản xuất chè, từ liên kết, thu mua, chế biến đến bao tiêu sản phẩm.

Mặc dù các chương trình IPM, VietGAP giúp việc trồng chè mang lại hiệu quả kinh tế cao, song trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, hầu hết các vùng chè đều không còn tổ chức hợp tác xã, nông dân tự canh tác trên diện tích nhỏ, dẫn đến chất lượng không đồng đều; việc thâm canh tăng năng suất đã làm cân bằng sinh học bị phá vỡ, sâu bệnh hại chè gia tăng, mức độ gây hại ngày càng lớn. Để phòng trừ các loại bệnh dịch chính trên cây chè, phần lớn người dân chỉ sử dụng biện pháp truyền thống là phun thuốc bảo vệ thực vật nhiều lần trong vụ. Theo điều tra, 49% số nông dân sử dụng thuốc với nồng độ cao hơn hướng dẫn, 64% số người dân sử dụng hỗn hợp hai loại thuốc khi phun và 14% số người dân dùng hỗn hợp ba loại thuốc khi phun, trong khi nông dân không hề biết việc sử dụng nhiều loại làm tăng nồng độ thuốc lên rất nhiều lần. Ngoài ra, gần 50% số người dân canh tác chè phun bảy lần/vụ, có những hộ phun bốn lần/tháng gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn thực phẩm cho sản phẩm chè.

Chế biến gắn với quy hoạch

Hiện nay, toàn bộ diện tích trồng chè ở nước ta đang tồn tại một số giống đã thoái hóa có chất lượng thấp. Ngoài ra, diện tích vườn chè già hơn 20 năm chiếm tới 25%, năng suất và chất lượng búp đã suy giảm. Thực trạng ấy đòi hỏi phải trồng lại và loại bỏ hoàn toàn những giống chè chất lượng sản phẩm thấp trong những năm tới. Để cây chè phát huy hết tiềm năng, các bộ, ngành, địa phương cần tập huấn cho người dân về kỹ thuật trồng chè, đốn và tạo tán cây, sử dụng phân bón, áp dụng GAP…, khuyến cáo nông dân không cắt chè bằng liềm; thu hái chè bằng tay đúng quy trình kỹ thuật; sử dụng máy hái chè nhưng bảo đảm điều kiện kỹ thuật trồng và chăm sóc theo yêu cầu của vườn chè hái máy. Một trong những giải pháp cơ bản nữa là tuyên truyền đẩy mạnh an toàn vệ sinh thực phẩm cho nguyên liệu chè búp tươi, bằng cách thực hiện VietGAP/GAP ở tất cả vùng trồng chè trên quy mô toàn quốc.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để cây chè phát triển, các địa phương cần quy hoạch sản xuất chè gắn với lợi thế vùng sinh thái, vùng nguyên liệu và thị trường làm cơ sở để quản lý chất lượng, phát triển bền vững ngành chè. Từ đó, rà soát quy hoạch, xác định các vùng đủ điều kiện sản xuất để đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, loại bỏ các cơ sở chế biến lạc hậu, không bảo đảm an toàn thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường.

Bên cạnh đó, cần thực hiện phương thức quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) để giúp cây chè phát triển bền vững. Chia sẻ với chúng tôi, PGS, TS Nguyễn Văn Toàn, Viện trưởng Khoa học Kỹ thuật nông – lâm nghiệp miền núi phía bắc cho biết, IPM là một phương pháp không thể thiếu trong sản xuất chè an toàn bền vững. Hiện nay, đang có hai thị trường, trong nước chủ yếu là chè xanh (khoảng hơn 20%), còn lại là xuất khẩu. Về tồn dư hóa chất độc hại trên sản phẩm tiêu thụ trong nước, hầu như chưa kiểm soát được.

Ngoài ra, cần đầu tư nghiên cứu và xây dựng quy trình sản xuất phù hợp để nâng cao năng suất, chất lượng cây chè. Đồng thời, phát triển các dự án khuyến nông về sản xuất chè an toàn gắn với tổ chức tiêu thụ sản phẩm chè. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn đến người sản xuất và người tiêu dùng về sản xuất, tiêu thụ chè an toàn. Tăng cường kiểm tra sản xuất, chế biến chè, có giải pháp quản lý, tổ chức, chỉ đạo kịp thời. Thêm vào đó, cần đẩy mạnh liên kết giữa người sản xuất với nhà máy chế biến, hình thành tổ dịch vụ bảo vệ thực vật để sản xuất chè bền vững.

Đến nay, Cục Trồng trọt đã chỉ định 15 tổ chức chứng nhận VietGAP cho chè búp tươi trên cả nước. Các tổ chức chứng nhận VietGAP đã chứng nhận cho 197 cơ sở sản xuất chè, với diện tích gần 10 nghìn ha; trong đó tập trung ở một số tỉnh như Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Lào Cai, Lâm Đồng và Thái Nguyên.

TD (theo nhan dan)

Cập nhật thông tin chi tiết về Gia Lai: Nhiều Giải Pháp Phát Triển Lâm Nghiệp Bền Vững trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!