Bạn đang xem bài viết Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Toán Tiếp Cận Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông 2022 Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh Tiểu Học được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
13.11.2019 11:21
125204 đã xem
Chương trình tổng thể Ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 nêu rõ “Giáo dục toán học hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học với các thành tố cốt lõi: năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình học toán học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương tiện học toán; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn, giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa toán học với các môn học khác và giữa toán học với đời sống thực tiễn’’.
Về phương pháp dạy học Toán: Thực hiện dạy học phù hợp với tiến trình nhận thức của học sinh (đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến khó); Quán triệt tinh thần “lấy người học làm trung tâm”, chú ý nhu cầu, năng lực nhận thức, cách thức học tập khác nhau của từng cá nhân học sinh; Tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạ o, trong đó học sinh được tham gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề; Linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo với việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học truyền thống; Kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành trải nghiệm, vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn.
Về đánh giá kết quả giáo dục môn Toán: Mục tiêu đánh giá là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về sự phát triển năng lực và sự tiến bộ của học sinh trên cơ sở yêu cầu cần đạt ở mỗi lớp học để điều chỉnh các hoạt động dạy học, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục môn Toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, kết hợp với đánh giá của giáo viên các môn học khác, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp hoặc đánh giá của cha mẹ học sinh, đi liền với tiến trình hoạt động học tập của học sinh, bảo đảm mục tiêu đánh giá vì sự tiến bộ trong học tập của học sinh. Việc đánh giá định kì là đánh giá kết quả giáo dục sau một giai đoạn học tập. Kết quả đánh giá định kì được sử dụng để chứng nhận cấp độ học tập, công nhận thành tích cho người học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khuyến khích vận dụng kết hợp nhiều phương pháp đánh giá (quan sát, ghi lại quá trình thực hiện, vấn đáp, trắc nghiệm khách quan, tự luận, kiểm tra viết, bài tập thực hành, các dự án học tập, thực hiện nhiệm vụ thực tiễn,…); đồng thời hướng dẫn giáo viên lựa chọn các phương pháp, công cụ đánh giá phù hợp với từng thành phần năng lực toán học.
Sử dụng đủ và hiệu quả các phương tiện, thiết bị dạy học tối thiểu theo quy định đối với môn Toán. Coi trọng việc sử dụng các phương tiện truyền thống, tăng cường thiết bị dạy học tự làm đồng thời khuyến khích sử dụng các phương tiện nghe nhìn, phương tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ quá trình dạy học. Khi có điều kiện, giáo viên nên hướng dẫn học sinh cách tìm kiếm thông tin, tư liệu trên Internet hoặc chương trình truyền hình có uy tín về giáo dục để mở rộng vốn hiểu biết và năng lực tự học.
I. ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC
Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn Toán ở trường phổ thông góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn; tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học và hoạt động giáo dục khác, đặc biệt với các môn Khoa học, Khoa học tự nhiên, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Công nghệ, Tin học để thực hiện giáo dục STEM. Nội dung môn Toán thường mang tính logic, trừu tượng, khái quát. Do đó, để hiểu và học được Toán, chương trình Toán ở trường phổ thông cần bảo đảm sự cân đối giữa “học” kiến thức và “vận dụng” kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể. Trong quá trình học và áp dụng toán học, học sinh luôn có cơ hội sử dụng các phương tiện công nghệ, thiết bị dạy học hiện đại, đặc biệt là máy tính điện tử và máy tính cầm tay hỗ trợ quá trình biểu diễn, tìm tòi, khám phá kiến thức, giải quyết vấn đề toán học.
Chương trình môn Toán tiểu học hình thành, phát triển ở học sinh năng lực toán học với các thành tố: tư duy và lập luận toán học; mô hình hoá toán học; giải quyết vấn đề toán học; giao tiếp toán học; sử dụng công cụ, phương tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã quy định trong Chương trình tổng thể; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp, rèn luyện nhân cách để trở thành người lao động và người công dân có trách nhiệm.
II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC MÔN TOÁN NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Phương pháp dạy học tích cực: PPDHTC là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV sử dụng một nhóm PP giáo dục và dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học đồng thời chống lại thói quen học tập thụ động của người học.
Các dấu hiệu tích cực trong học toán gồm:
– HS hăng hái phát biểu ý kiến.
- Không bằng lòng lời giải của cô và của bạn
- Không bằng lòng với một cách giải quyết duy nhất
- Thường hay thắc mắc, đặt ra câu hỏi và đòi hỏi được giải đáp, hay chia sẻ suy nghĩ với bạn.
- Học sinh còn tự giác, chủ động làm bài – tự học, trao đổi nhận xét bài cho bạn – hợp tác.
1. Phương pháp trực quan
Là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người giáo viên làm cho HS năm được tri thức kĩ năng của môn toán dựa trên các hoạt động quan sát trực tiếp của trẻ đối với các hiện tượng, các sự vật cụ thể có ở đời sống xung quanh trẻ. Khi sử dụng phương pháp trực quan cần lưu ý đồ dùng trực quan phải đẹp, sặc sỡ, rực rỡ. Đồ dùng trực quan phải phong phú đa dạng.
a) Cách sử dụng
- Phải có mức độ không được lạm dụng, khi trẻ đã hiểu vấn đề thì không dùng trực quan nữa.
Phải nêu được bản chất toán học của tri thức cần dạy.
b) Ví dụ
Dạy số 3 là đưa ba bông hoa liền một lúc, không được đưa ra từng bông một.
- Khi dạy hình thành phép cộng cho học sinh lớp 1 các vật dụng phải các vật di chuyển được như con gà, con thỏ. ….. vì phép cộng là phép hợp của 2 vật di chuyển được lại với nhau.
- Không sử dụng các đồ vật vô tri vô giác như bông hoa, cái kẹo, cái ô…..
- Tăng cường đưa trẻ vào quan sát thực tiễn.
- Cho trẻ tham gia vào thao tác đồ dùng trực quan
2. Phương pháp gợi mở – vấn đáp
a) Định nghĩa
PPGMVĐ là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người giáo viên không đưa ra kiến thức trực tiếp mà giáo viên dùng hệ thống câu hỏi cho HS suy nghĩ trả lời từng câu.
b) Lưu ý khi sử dụng phương pháp này
- Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác.
- Câu hỏi không được quá dễ hay quá khó.
- Câu hỏi phải làm cho HS suy nghĩ.
Cấm đưa ra những câu hỏi mà học sinh chỉ phải trả lời ở dạng: Có, không, đúng, sai.
c) Ví dụ : 6 + 4 = a
Hỏi có bao nhiêu bạn kết quả a.
Bao nhiêu kết quả b.
- Làm cho trẻ hiểu được điều sai để nhận ra đúng.
- Không nên kết luận quá sớm.
- Cho trẻ giải thích kết quả của mình.
- Ứng xử cho phù hợp không áp đặt.
d) Cách hỏi
- GV đưa ra câu hỏi trước để HS suy nghĩ rồi mới yêu cầu cách trả lời.
- Khi hỏi không nên để HS trả lời đồng thanh, nói leo hoặc “vuốt đuôi”.
- Khi HS trả lời GV cần chú ý lắng nghe đẻ sửa chữa sai lầm về mặt ngôn ngữ hoặc về mặt toán.
- Cần khuyến khích HS tự sửa chữa sai lầm của mình với của bạn.
- Cấm: mắng mỏ, mạt sát, chỉ trích, chửi bới chê bai khi HS trả lời sai.
3. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề
a) Định nghĩa: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV tạo ra các tình huống có vấn đề, rồi điều khiển học sinh tự phát hiện vấn đề hoạt động tự giác và tích cực để giải quyết vấn đề thông qua đó đạt được mục tiêu học.
b) Thế nào là một vấn đề đối với người học
- Người học chưa thể thực hiện được yêu cầu đặt ra
- Người học chưa được học một qui tắc có tính chất thuật giải để giải đáp câu hỏi hoặc để thực hiện yêu cầu đặt ra.
c) Thế nào là một tình huống có vấn đề
- Tồn tại một vấn đề theo nghĩa trên.
- Tình huống phải gửi nhu cầu nhận thức.
- Phải tạo được niềm tin ở khả năng người học
d) Các bước tiến hành
- Bước 1: GV nêu vấn đề, thường là đưa ra tình huống có vấn đề để học sinh trực tiếp chỉ ra vấn đề hoặc là HS sau khi tìm hiểu sẽ tự tìm ra vấn đề.
- Bước 2: GV hướng dẫn HS tìm các chiến lược để giải quyết vấn đề.
- Bước 3: GV theo dõi và giúp đỡ HS.
- Bước 4: Hướng dẫn HS cách trình bày giải quyết vấn đề.
- Trình bày khả năng ngôn ngữ và khả năng toán học được hình thành
Ví dụ: Dạy bài diện tích hình tam giác; Học sinh chuẩn bị 1 tờ giấy a4 hình chữ nhật, dùng thước và bút chì kẻ 1 đoạn thẳng nối 2 góc đối diện và cắt đôi thành 2 hình tam giác vuông. Cho học sinh tìm mối liên hệ giữa chiều cao hình tam giác vuông và chiều rộng hình chữ nhật, giữa 2 hình tam giác vuông khi ghép lại sẽ như thế nào so với hình chữ nhật. Diện tích hình chữ nhật là chiều dài nhân chiều rộng. Vậy tại sao khi tính diện tích hình tam giác vuông ta lại lấy chiều dài cạnh đáy nhân chiều cao chia 2. Đây là một số vấn đề giáo viên nêu ra cho học sinh giải quyết.
4. Phương pháp luyện tập thực hành
Định nghĩa: Là phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV tổ chức cho HS giải quyết các nhiệm vụ hay các bài tập để tự HS khắc sâu kiến thức đã học hoặc phát triển kiến thức đó trở thành kiến thức mới hoặc vận dụng kiến thức đó làm tính giải toán và áp dụng thực tế.
- Lưu ý: ¾ tổng số tiết toán là luyện tập thực hành.
- Phải có sự chuẩn bị tốt cho việc luyện tập thực hành.
- Tôn trọng tính độc lập của trẻ em, để cho trẻ suy nghĩ tìm ra biện pháp thực hành.
5. Phương pháp giảng giải – minh hoạ: PPGGMH là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV dùng lời nói để giải thích tài liệu toán có kết hợp với phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.
- Chú ý: Bất đắc dĩ mới dùng phương pháp này
- Khi dùng phương pháp này không giảng giải quá 5 phút
III. Đổi mới đồng bộ PPDH và ĐGHS trong dạy học Toán ở tiểu học
Để “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học”, “bồi dưỡng PP tự học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy độc lập”, có thể góp phần “phát triển toàn diện NL và PC” của HS tiểu học, định hướng dạy học toán ở tiểu học cần vận dụng một cách đa dạng các hình thức tổ chức với các phương pháp dạy học; chú trọng thực hành, ứng dụng, gắn kết kiến thức toán học với thực tế cuộc sống hằng ngày của các em, với các môn học khác và các hoạt động giáo dục trong hay ngoài nhà trường; chú trọng tổ chức hoạt động tự học (cá nhân, cặp, nhóm, cả lớp, ở nhà…) cho HS (với sự hướng dẫn, giám sát, đánh giá của GV, cha mẹ HS); GV cần đặc biệt chú ý, quan tâm đến việc dạy học phù hợp từng đối tượng HS; kết hợp việc giúp các em tự lĩnh hội được kiến thức toán học (thông qua hoạt động học) với việc hình thành, phát triển NL, PC của HS. GV cần chuyển quá trình thuyết giảng thành quá trình tổ chức hoạt động học cho HS, có thể thông qua các hoạt động: Gợi động cơ, tạo hứng thú; Trải nghiệm, khám phá; Phân tích, rút ra bài học; Thực hành; Ứng dụng. Qua quá trình thực hiện các hoạt động học toán (cá nhân, cặp, nhóm, cả lớp, ở nhà…), ngoài việc HS hình thành và phát triển NL tư duy, năng lực tính toán thì HS cũng có thể phát triển một số NLPC như tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề.
IV. ĐỔI MỚI LẬP KẾ HOẠCH DẠY HỌC TOÁN
Giáo viên thiết kế Kế hoạch dạy học (KHDH) Toán theo tinh thần đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học với tinh thần “dạy học là tổ chức cho học sinh hoạt động để tự tiếp thu kiến thứcvà phát triển năng lực”. Cải tiến cách thiết kế KHDH đảm bảo yêu cầu tinh giản, vững chắc các kiến thức, các hoạt động cơ bản của tiết dạy, đảm bảo cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng phù hợp với trình độ học sinh, nhất là đối với học sinh là dân tộc thiểu số. Mục tiêu cần đạt cho từng đối tượng học sinh của lớp, những việc giáo viên cần phải làm, những yêu cầu cụ thể dành cho các nhóm học sinh khác nhau và phát triển năng lực học sinh theo yêu cầu.
Để đổi mới phương pháp dạy học Toán tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo định hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học cần thực hiện như sau:
- Trước hết Giáo viên phải dành thời gian đọc, nghiên cứu kĩ chương trình tổng thể và chương trình môn học, trong đó yêu cầu phải nắm vững mục tiêu môn Toán và các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh. Nắm vững mục tiêu của môn toán trong cả cấp học trước khi xác định mục tiêu bài học. Điều này giúp giáo viên nhận biết khả năng tư duy của trẻ, nhận biết khiếm khuyết ở một phần nào của nội dung để có biện pháp phù hợp.
- Theo nội dung sách giáo khoa, xác định mục tiêu cụ thể cho từng bài.
- Từ mục tiêu và nội dung sách giáo khoa thiết kế các hoạt động dạy học, mỗi hoạt động dạy học phải xác định được đạt mục tiêu, phát triển năng lực nào cho học sinh, mỗi hoạt động dạy học giáo viên phải thiết kế và lựa chọn sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học nào cho phù hợp, trong mỗi phương pháp ấy giáo viên sử dụng kỹ thuật, hình thức đánh giá nhận xét như thế nào nhằm phát triển năng lực học sinh.
1. Chuẩn bị cho việc lập kế hoạch dạy học
– Kế hoạch dạy học không có kiểu giáo án mẫu như trước đây dùng chung cho mọi giáo viên.
- Giáo viên thật sự tâm huyết, cầu tiến, đổi mới trong Kế hoạch DH môn học từng bài nên có một phần ghi những kinh nghiệm thành công, những nội dung cần điều chỉnh sau khi dạy hoc cũng như ghi các nhận xét với những học sinh nhằm làm cơ sở cho việc nhận xét đánh giá thường xuyên theo Thông tư 22.
- Nói chung, kế hoạch dạy- học toán ghi lại cách tổ chức, hướng dẫn cho học sinh học trong một tiết dạy cụ thể, không phải là bài soạn nội dung để truyền thụ đến học sinh.
2. Kế hoạch dạy học cần chỉ rõ vai trò, mối tương tác giữa các chủ thể (Giáo viên – Học sinh) trong tiết dạy.
Vậy Kế hoạch dạy-học cần thể hiện điều gì?
Thể hiện rõ mục tiêu bài dạy:
- Kiến thức cơ bản
- Kĩ năng cơ bản.
- Yêu cầu giáo dục phát triển.
- Các Phẩm chất, năng lực được hình thành và phát triển.
- Về cơ bản, nội dung, chương trình, mục tiêu dạy học có yêu cầu đáp ứng 2 nhiệm vụ: Phổ cập cho các đối tượng học sinh trong lóp và phát triển cho các học sinh cao hơn.
– Mục tiêu bài dạy thể hiện rõ tính phù hợp cho nhiều đối tượng.
3. Quá trình tổ chức dạy- học
Bao gồm: Mỗi quy trình cần thể hiện:
- Phương pháp đặc trưng, trọng tâm – phương pháp phối hợp.
+ Các hoạt động chủ yếu của Thầy và Trò (hình thức hoạt động, giải quyết nhiệm vụ nào? Yêu cầu của mỗi nhiệm vụ là gì? Hệ thống các lệnh hướng dẫn của Thầy và hoạt động đáp ứng của Trò …)
+ Lưu ý: Các hình thức tổ chức hoạt động (Nhóm 2, nhóm 4, ……, các trò chơi học tập, …) đều trập trung vào phương pháp chủ yếu, đặc trưng.
VD: Giáo viên có thể cho nhóm 4 học sinh cùng tham gia hoạt động (hợp tác) để thực hiện việc xác định một nội dung học tập nào đó bằng phương pháp quan sát, so sánh, phân tích, quy nạp, … thông qua các lệnh điều khiển hoạt động cho học sinh để hướng dẫn học sinh phương pháp tiếp cận vấn đề, phương pháp học tập (phương pháp khác hình thức hoạt động ).
+ Thể hiện sự hoạt động đồng bộ giữa Thầy với Trò, sự tương ứng giữa các hoạt động, sự hợp tác làm việc; sự theo dõi – kiểm soát; tư vấn thúc đẩy các hoạt động của cá nhân, nhóm, của cả lớp.
V. Cấu trúc kế hoạch dạy – học Toán
1. Hoạt động 1: Hoạt động sư phạm hoặc Khởi động, kết nối
- Tổ chức, thiết lập môi trường làm việc, quan trọng là chuẩn bị tâm thế, tư thế cho học sinh bắt đầu học toán.
- Tổ chức kiểm tra, có thể tái hiện kiến thức cũ đã học hoặc lồng ghép tùy giáo viên; đánh giá nhiệm vụ học tập (tổng quát, toàn diện, không chỉ thiên về kiến thức, kĩ năng cơ bản).
- Tổ chức kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.
- Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học, bảng lớp, giới thiệu bài học mới.
2. Hoạt động 2: Khám phá
- Giúp học sinh khám phá nội dung kiến thức mới và cơ bản.
- Ơ hoạt động này, giáo viên lên kế hoạch đầy đủ (bao gồm: tiến trình các bước dạy, phương pháp chủ yếu, hoạt động của Thầy và Trò, sử dụng các phương tiện, công cụ dạy học; hệ thống lệnh điều hành các hoạt động, … )
3. Hoạt động 3: Hoạt động luyện tập cơ bản
- Mục đích chủ yếu là tạo sự nối kết giữa kiến thức vừa khám phá với luyện tập đơn giản.
- Ở hoạt động này, giáo viên chỉ cần nêu các lệnh điều hành:
+ Nêu nhiệm vụ tổng quát
+ Yêu cầu cần thực hiện.
VD:
+ Nhiệm vụ tổng quát: thực hiện bài tập số …… trang ……
+ Yêu cầu:
* Hình thức hoạt động: Hoạt động theo nhóm … (2, 3, 4, …)
- Tìm hiểu đề bài, những đặc điểm cơ bản của đề bài và tìm phương pháp giải.
* Hình thức hoạt động: nhóm 2:
- Trao đổi cách làm, kết quả, đánh giá kết quả lẫn nhau.
- Báo cáo, thông tin lại kết quả làm việc của nhóm (kết quả, các sai sót, nguyên nhân, cách giải quyết).
4. Hoạt động 4: Hoạt động luyện tập thực hành
- Mục đích chủ yếu là giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã nắm bắt ở hoạt động 2, 3 vào những nội dung luyện tập, những tình huống khác nhau ở mức độ cao hơn.
- Ở hoạt động này, giáo viên cũng chỉ nêu các lệnh điều hành như ở hoạt động 3.
Nhưng có dự kiến thêm về số lượng bài thực hành cho các đối tượng khác nhau (theo mục tiêu hoàn thành khác nhau).
5. Hoạt động nối tiếp sau tiết học
- Mục đích chủ yếu: Tạo cơ hội cho các em gắn các nội dung đã học vào hoạt động thực tiễn, thích ứng và tự lực hoặc tự xây dựng kế hoạch hợp tác (với anh chị, cha mẹ hoặc bạn bè hoặc với những điều kiện khác nhau, …)
- Ở hoạt động này GV nên có bảng hướng dẫn thực hiện công việc:
VD: Tìm hiểu vấn đề này ở từ điển (tên, nhà xuất bản), hoặc tìm hiểu vấn đề này thêm ở tạp chí, tập san, chuyên san … ở thư viện, tiệm sách; hoặc ở website ……; hoặc sưu tầm các mẫu vật có ở vườn nhà, …… nên ghi chép những nội dung quan sát được; nên nhờ sự cộng tác của anh chị, người thân, bạn bè, ……
Mỗi hoạt động đều nên có lưu ý về tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm, củng cố, nêu giải pháp khắc phục.
MINH HỌA
KẾ HOẠCH DẠY- HỌC MÔN TOÁN
I. Mục tiêu
– Là mục tiêu cần đạt, phải đạt được sau tiết dạy.
– Mục tiêu phải đánh số thứ tự 1, 2, 3…..
– Từng mục tiêu phải chỉ rõ mức độ cần đạt của HS lớp mình.
– Mục tiêu cần ghi rõ thành câu
– Yêu cần cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh….
– Các mục tiêu phải phủ kín cả nội dung bài mình dạy bao gồm phần khung xanh trong SGK và hệ thống bài tập áp dụng
II. Hoạt động sư phạm
– Tổ chức, thiết lập môi trường làm việc, chuẩn bị tâm thế cho học sinh học toán, tư thế cho học sinh.
– Tổ chức kiểm tra, tái hiện kiến thức cũ đã học; đánh giá nhiệm vụ học tập (tổng quát, toàn diện, không chỉ thiên về kiến thức, kĩ năng cơ bản).
– Tổ chức kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.
– Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học, bảng lớp, giới thiệu bài học mới.
III. Các hoạt động dạy – học chủ yếu
1. Hoạt động 1
– Nhằm đạt mục tiêu số mấy……….
– Hoạt động lựa chọn …………………………………………..
– Hình thức tổ chức……………………………………………………………
– Phương pháp lựa chọn ……………………………………….
– Phẩm chất, năng lực hình thành và phát triển……….
Hoạt động của GV
Hoạt động mong đợi ở HS
Dự kiến kỹ thuật, hình thức nhận xét đánh giá thường xuyên
– Ghi câu hỏi
– Câu lệnh
– Không ghi câu kể lể
Vd:Em cho biết tranh vẽ gì?
Các hoạt động tiếp theo
ghi như HĐ1
IV. HĐ tiếp nối: Củng cố, nhận xét, dặn dò…..
V. Chuẩn bị ĐDDH
– GV
– HS
HOẶC
Hoạt động …….
Mục tiêu hoạt động
Phương pháp
Hình thức
tổ chức
Hoạt động
giáo viên
Hoạt động
Học sinh
Để góp phần “phát triển toàn diện NL và PC” của HS tiểu học, trong quá trình dạy học Toán, GV cần phải tổ chức cho HS hoạt động học (theo cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp) cùng với hoạt động tự nhận xét và nhận xét sản phẩm của bạn hay nhóm bạn, qua đó HS có thể tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức, rèn kĩ năng cần thiết.Khi HS thực hiện hoạt động học thì GV thực hiện các hoạt động ĐG (quan sát, tư vấn, hướng dẫn HS, nhận xét…). Để có thể tổ chức cho HS hoạt động học được hiệu quả, GV cần phải xác định rõ mục tiêu hay yêu cầu cần đạt và nội dung bài học, từ đó thiết kế thành các hoạt động học và hoạt động ĐG (nhận xét, tự nhận xét…) để HS thực hiện. GV tổ chức hoạt động dạy học Toán cùng với hoạt động ĐG để góp phần hình thành, phát triển NLPC HS. Trong quá trình tổ chức hoạt động học Toán và ĐGHS trong giờ học Toán, để thực hiện yêu cầu “vì sự tiến bộ của HS”, GV phải được chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong toàn bộ giờ học nói riêng và quá trình giảng dạy nói chung. Với trách nhiệm của mình, cùng với năng lực sẵn có và sự tâm huyết nghề nghiệp, yêu thương HS, việc đổi mới đồng bộ PPDH và ĐGHS trong DH môn Toán ở tiểu học sẽ giúp HS tiến bộ trong học tập môn Toán, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học./.
Nguyễn Duy Hải – Trưởng phòng GDTH Sở GDĐT
Đổi Mới Kiểm Tra Đánh Giá Theo Định Hướng Tiếp Cận Năng Lực Học Sinh
1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung (kiến thức, kĩ năng) và đánh giá tiếp cận năng lực
Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh.
Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội) để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.
Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:
3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh
Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.
Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.
Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau:
(ii) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;
(iii) Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;
(iv) Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.
Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:
– Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học sinh của cấp học.
– Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.
– Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.
– Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.
Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:
Tài liệu tham khảo
b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:
(i) Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,…); lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,…) căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,…); thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật (câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,…); tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.
(ii) Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,… được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.
Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.
1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014.
3. Website: https://tusach.thuvienkhoahoc.com.
Phát Triển Văn Hóa Đọc Cho Học Sinh Thông Qua Việc Đổi Mới Hoạt Động Tổ Chức Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ rõ “Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Dạy cách đọc sách là một cách thức dạy học sinh tự học, tự phát huy tiềm năng, tự phát triển toàn diện theo sở thích, nhu cầu của mỗi cá nhân theo định hướng phát triển năng lực người học là giúp học sinh phát triển năng lực tự học, biết thu thập và xử lý thông tin từ các nguồn khác nhau và ngày càng đa dạng, phong phú để có năng lực học tập suốt đời. Để phát triển năng lực tự học cho học sinh theo định hướng đổi mới đúng theo chỉ đạo của ngành, chúng tôi thiết nghĩ, giải pháp cho văn hóa đọc, xây dựng và phát triển văn hóa đọc phải bắt đầu từ các nhà trường, đặc biệt là các trường Tiểu học. Từ kinh nghiệm chỉ đạo hoạt động chuyên môn ở đơn vị công tác, tôi xin mạnh dạn trao đổi “Một vài biện pháp góp phần phát triển văn hóa đọc cho học sinh thông qua việc đổi mới hoạt động tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho người học ở trườngTiểu học”
1. Rèn luyện thói quen đọc Sách giáo khoa nhằm hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh.
Sách giáo khoa (SGK) là công cụ quan trọng không thể thiếu được trong trường học vì đó là tài liệu chính thống do Bộ GD&ĐT biên soạn vừa là cơ sở tạo nên thống nhất trong cách phối hợp giữa giáo viên và học sinh. Hơn nữa SGK được xem là người thầy thứ hai, sau người thầy trên lớp giúp học sinh tiếp cận, chiếm lĩnh tri thức. Một trong những tác động lớn nhất tạo dần thói quen đọc sách đó là sử dụng SGK để giúp học sinh tự học, đây chính là phương pháp giảng dạy theo định hướng đổi mới giáo dục hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng SGK trong việc hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh, đơn vị chúng tôi đã chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt các việc sau:
1.1. Hướng dẫn học sinh cách đọc SGK chuẩn bị bài trước khi lên lớp
Giáo viên phải giúp học sinh thấy được sự khác biệt giữa việc có chuẩn bị đọc bài trước trong SGK theo yêu cầu của GV khi học tập trên lớp. Một trong những lý do quan trọng khiến học sinh không chuẩn bị bài trước SGK ở nhà theo yêu cầu của GV là các em không thấy sự khác biệt giữa việc có chuẩn bị và không chuẩn bị trước ở nhà theo dặn dò của GV. Cứ như thế, từ bài này qua bài khác, từ môn này qua môn khác, lâu dần thành thói quan xấu: từ chỗ đọc chiếu lệ lúc đầu, dần dần các em không buồn đọc nữa. Sở dĩ như thế là do giáo viên khi lên lớp không có biện pháp kiểm tra thường xuyên, đúng mức, hợp lý đối với yêu cầu đọc bài trước ở nhà. Để khắc phục thực trạng này, tùy tình hình thực tế và trình độ học sinh từng lớp học, người giáo viên phải thường xuyên có ý thức kiểm tra việc đọc SGK, chuẩn bị bài học trước ở nhà của học sinh bằng các biện pháp sau:
– Không để học sinh mở SGK ngay từ đầu tiết học mà chỉ mở ra theo yêu cầu của giáo viên
– Đặt những câu hỏi để học sinh nêu cảm nghĩ hay suy nghĩ của các em về nội dung hay vấn đề mà giáo viên yêu cầu đọc trước trong SGK.
– Trước khi giảng bài mới, giáo viên yêu cầu học sinh nêu những vấn đề mà các em cho là hay nhất, mới nhất mà các em thu thập được sau khi đọc SGK ở nhà theo yêu cầu của GV trước đó. Phần này GV nên có nhận xét đánh giá động viên vì đây cách đọc tích cực cần khuyến khích.
– Trước khi giảng bài mới, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu hỏi (có thể là điều mà các em muốn biết hoặc muốn được giải thích sau khi đọc) và GV dùng câu hỏi này để yêu cầu học sinh trên lớp tham gia trả lời. Sự tham gia trả lời của các em vừa là tích cực hóa hoạt động của học sinh vừa giúp cho giáo viên theo dõi một cách giáp tiếp sự chuẩn bị đọc bài trước ở nhà của học sinh.
– Giáo viên yêu cầu một vài học sinh trình bày trước lớp một cách tóm tắt về nội dung đã thu hoach được sau khi đọc trong SGK theo yêu cầu của GV.
1.2. Hướng dẫn học sinh cách đọc SGK trên lớp học, biết cách đọc sao cho vừa tiết kiệm được thời gian vừa đạt hiệu quả.
Trên thực tế, phần lớn học sinh chưa hiểu hết ý nghĩa của từ “đọc” SGK. Đối với các em đọc chỉ đơn thuần đưa mắt xem qua các câu chữ đôi khi kèm theo phát âm và khi xem đến dòng chữ cuối cùng trong phần có nhiệm vụ đọc thì xem như đã hoàn thành nhiệm vụ. Còn đối với kênh hình thì các em có thể không xem hoặc có xem thì chỉ nhìn lướt qua chứ không có sự nghiền ngẫm đối chiếu song hành với bài học (nhất là bản đồ Lịch sử; Địa lý lớp 4,5, hình ảnh trong sách Tự nhiên xã hội lớp 1,2,3; Khoa học lớp 4,5; sách Tiếng Việt, Toán…được đưa vào SGK nhằm minh họa hay cụ thể hóa bài học). Kết quả là học sinh chỉ biết được cái vỏ của kiến thức mà chưa thấy được mối liên hệ bên trong của các kiến thức cần học.
Hướng dẫn học sinh sử dụng SGK là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên. Học sinh biết cách đọc (đọc có mục đích, có định hướng), sử dụng SGK hợp lý là góp phần phát huy tính chủ động học tập, tính tích cực của tư duy từ đó tạo được thói quan tự học cho học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
2. Rèn luyện cho học sinh thói quen đọc sách, tận dụng các nguồn thông tin ngoài sách giáo khoa, nhất là thông tin từ thư viện nhà trường để hỗ trợ cho việc học tập có hiệu quả.
Đọc sách là nhu cầu của tất cả mọi người là nhu cầu cần thiết đối với mỗi học sinh, sách không chỉ giúp các em nâng cao nhận thức, hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại mà còn hình thành ở các em những kỹ năng cần thiết cho tương lai. Đối với các em học sinh tiểu học, ở giai đoạn đang hình thành thói quen, nhân cách thì việc đọc sách lại càng có một ý nghĩa quan trọng. Rèn luyện thói quen đọc sách có thể giúp cho việc học của học sinh có ý nghĩa và dễ dàng hơn. Bởi vậy, mỗi giáo viên phải luôn có ý thức phát triển văn hóa đọc của học sinh bằng cách trong mỗi bài giảng của mình thì phải chú ý đến việc yêu cầu các em phải đọc sách, đến các buổi học sau thì phải kiểm tra xem các em đã đọc sách như thế nào; thậm chí tạo ra các buổi tranh luận về sách đối với các em, tạo ra không khi sôi nổi. Quan trọng nhất là giáo dục cho các em kỹ năng đọc, bởi vì thà đọc ít mà tốt, còn hơn là đọc nhiều mà không hiểu.
Để nâng cao chất lượng văn hóa đọc các thầy cô giáo và cán bộ thư viện cần hướng dẫn học sinh cách đọc sách sao cho khoa học và hiệu quả, các kỹ năng đọc sách cơ bản cũng như định hướng cho học sinh cách chọn lựa các đầu sách hay. Để hình thành phương pháp đọc sách, bước đầu hướng dẫn học sinh áp dụng quy trình sau đây:
Bước 1: Xác định mục đích đọc sách.
Mục đích đọc sách sẽ chi phối toàn bộ quá trình đọc sách. Xác định được mục đích đọc sách sẽ giúp học sinh tránh được đọc tràn lan, tốn công sức và thời gian. Mục đích đọc còn giúp các em có cách đọc hợp lí, phù hợp với nhiệm vụ và thời gian có thể dành cho đọc sách. Xác định mục đích đọc sách là trả lời câu hỏi: “Đọc để làm gì?”. Từ đó mới trả lời được câu hỏi: “Đọc sách gì, chỗ nào, và đọc như thế nào?”.
Bước 2: Tìm hiểu địa chỉ cuốn sách.
Hướng dẫn học sinh đọc hai trang đầu và trang cuối của cuốn sách để biết: Tên cuốn sách; Tên tác giả; Tên nhà xuất bản; Năm xuất bản; Lần xuất bản.
Những thông tin này còn rất tiện lợi khi học sinh tìm sách trong thư viện hoặc trên mạng Internet. Học sinh sẽ cung cấp những thông tin về quyển sách cần tìm cho người thủ thư, và họ sẽ giúp các em tìm quyển sách đó một cách dễ dàng.
Bước 4: Xem lời giới thiệu, lời tựa, lời nói đầu.
Hướng dẫn các em đọc lời giới thiệu hay lời tựa để biết cuốn sách đề cập đến vấn đề gì, đối tượng nào sử dụng cuốn sách có ích hơn cả và phương pháp đọc có hiệu quả.
Lời nói đầu do tác giả cuốn sách viết. Qua lời nói đầu, người đọc dễ dàng hiểu được ý đồ của tác giả, hình dung được một cách khái quát vấn đề cơ bản được đề cập và tác dụng; mục đích của cuốn sách mà tác giả mong muốn; biết vấn đề quan trọng nhất cuốn sách sẽ trình bày. Đôi khi, qua lời mở đầu, chúng ta còn thu lượm được cả lời khuyên của tác giả nên tìm hiểu và nghiên cứu cuốn sách như thế nào.
Bước 5: Xem lời kết luận và tóm tắt ở cuối sách.
Mục đích của việc xem lời kết luận và tóm tắt của cuốn sách là để thấy rõ nội dung cô đọng nhất, những kết luận chính và sự khẳng định của tác giả đối với những vấn đề đã trình bày.
Bước 6: Đọc sách (đọc một vài đoạn hoặc đọc đi sâu) tùy vào nhu cầu tìm hiểu của mỗi cá nhân.
Sau khi đã có được thông tin về nội dung và mục đích cuốn sách, người đọc sẽ trực tiếp tìm hiểu vào nội dung bằng cách đọc qua một số đoạn, phát hiện những đoạn lí thú, có giá trị. Nhờ đọc qua một vài đoạn như vậy, những nhận định về nội dung cuốn sách sẽ dần được chính xác hoá, tạo điều kiện cho bước đọc sau. Để lĩnh hội được những tri thức cần thiết, đạt được mục đích đọc sách, bạn cần phải đi sâu nghiên cứu cuốn sách.
Đồng hành với việc hướng dẫn học sinh có phương pháp đọc sách, với mỗi bài học giáo viên cần giới thiệu cho học sinh những tài liệu cần đọc hiện có trên thư viện, trên mạng Interet, những tài liệu bổ trợ, nâng cao mà các em cần đọc. Giúp học sinh nhận thức được khi đứng trước một cuốn sách hay cần phải đọc như thế nào cho hiệu quả, cách sắp xếp sách khoa học sau khi đọc, cách tóm tắt nội dung cuốn sách và ghi lại những tri thức cần thiết trong sách.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh bất kể sử dụng sách tham khảo với mục đích gì, đều cần phải tìm ra nội dung trọng điểm ở bên trong, nếu không chỉ thấy đó là những kiến thức lẫn lộn, phức tạp, không có tác dụng gì. Sau khi tìm ra trọng điểm, hướng dẫn học sinh có thể gạch chân hoặc làm kí hiệu, chỗ không hiểu lại dùng một loại bút màu khác để chú ý, đồng thời hỏi thêm giáo viên.
Sử dụng bút màu để đánh dấu những chỗ khó hiểu, chỗ trọng điểm, lần sau, khi ôn tập nhìn một cái là các em sẽ thấy rõ ràng ngay, tiết kiệm rất nhiều thời gian. Sách tham khảo, nếu ta chỉ đọc lướt một lần, nội dung trong sách sẽ không thể đọng lại trong đầu, do đó khi đọc sách tham khảo nhất định phải chuẩn bị một quyển sổ tay bổ trợ ghi nhớ ghi lại những điều cần chú ý, để giúp cho việc ghi nhớ sau này.
Thực hiện theo tinh thần “chuyển giao nhiệm vụ học tập cho mỗi học sinh”, trên cơ sở rà soát và đối chiếu với nội dung chương trình các bộ môn và hoạt động giáo dục, các giáo viên đã hướng dẫn học sinh cách khai thác nguồn tài nguyên của thư viện; từ đó hướng dẫn học sinh kết nối và bổ sung giữa nguồn tài nguyên trong thư viện với nội dung chương trình môn học, thúc đẩy ý thức tự giác đọc sách, hình thành thói quen đọc sách để giải quyết nhiệm vụ học tập.
Thực tiễn cho thấy, khi được hướng dẫn phương pháp đọc sách và kĩ năng lựa chọn tài liệu phục vụ học tập, lúc đầu các em còn bỡ ngỡ nhưng dần dần dưới sự hướng dẫn của giáo viên và tổ công tác viên thư viện đa số học sinh đã rèn được thói quen đọc sách có mục đích, có định hướng. Qua đó, giúp học sinh phát triển năng lực tự học, biết thu thập và xử lý thông tin từ các nguồn khác nhau và ngày càng đa dạng, phong phú; hình thành thói quen đọc,góp phần hình thành và phát triển văn hóa đọc trong nhà trường và cộng đồng; đồng thời khuyến khích học sinh tìm hiểu, thực hành vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn.
Phaghe đã từng nói “Nghệ thuật đọc sách là nghệ thuật tư duy với ít nhiều sự giúp đỡ của người khác… “. Đúng vậy, xây dựng văn hóa đọc sách cho học sinh trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết. Để giúp học sinh phát triển được văn hóa đọc lên tầm nghệ thuật của đọc sách đòi hỏi sự vào cuộc một cách đồng bộ của nhà trường, gia đình và xã hội, trong đó vai trò chủ đạo và quan trọng nhất chính là các thầy giáo, cô giáo – người kĩ sư tâm hồn, người thắp lên những ngọn nến ước mơ của học sinh bắt đầu từ những trang sách. Với ý nghĩa như vậy, hi vọng rằng nội dung trong bài viết nhỏ này có thể giúp được các CBQL, các thầy cô giáo, các nhân viên thủ thư ở các nhà trường bổ sung thêm một ít kinh nghiệm nhỏ vào hành trang xây dựng và phát triển văn hóa đọc cho học sinh ở các trường Tiểu học. .
Trần Thị Kiều Liên Trường Tiểu học Sơn Tây- Huyện Hương Sơn – Tỉnh Hà Tĩnh
Trần Thị Kiều Liên @ 15:41 25/10/2019 Số lượt xem: 1299
Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới: Lo Thiếu Phòng Học Chức Năng
Tuy nhiên, nhiều người lo ngại sẽ không đủ không gian trải nghiệm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
“Một lớp hát cả trường nghe”
Trong năm học mới, cả nước có gần 75% trong tổng số hơn 567.000 phòng học đủ tiêu chuẩn kiên cố (đạt tỷ lệ 90%). Theo quyền Vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học (Bộ GD&ĐT) TS Thái Văn Tài, với 15.525 trường (1,39 trường tiểu học/xã, phường), tỷ lệ học sinh (HS) tiểu học trên toàn quốc học 2 buổi/ngày hiện đạt gần 80%.
Trung bình chung cả nước, tỷ lệ phòng học của cấp tiểu học là 0,89%, chưa đảm bảo mỗi lớp có một phòng học riêng, trong khi đó để tổ chức dạy học 2 buổi/ngày thì điều kiện tối thiểu là 1 lớp/phòng học.
Trong chương trình giáo dục hiện hành, nhiều trường học, đặc biệt ở các địa phương nghèo vẫn chưa đủ phòng học, thiết bị dạy học và thậm chí thiếu không gian trải nghiệm. Thực tế, vì thiếu phòng dành riêng cho nghệ thuật nên giờ học Âm nhạc, HS phải học ở phòng chính khóa, nhiều lúc một lớp hát cả trường nghe thấy.
Chương trình GDPT mới yêu cầu có các loại phòng chức năng riêng biệt như phòng Giáo dục Nghệ thuật, phòng Khoa học – Công nghệ, Tin học, Ngoại ngữ… Nhiều mối lo được đặt ra khi một năm nữa các trường khó có thể chuẩn bị được phòng học này.
Là trường ngoài công lập được đánh giá cao về chất lượng, tuy nhiên trường THCS – THPT Lê Quý Đôn (quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của Chương trình GDPT mới khi thiếu khu thể dục và phòng học bộ môn Công nghệ, Nghệ thuật… Trường Tiểu học Hồng Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội có 20 lớp và 18 phòng học.
Hiệu trưởng Nguyễn Hữu Tuấn cho biết, theo Chương trình GDPT mới, các trường phải đáp ứng phòng học để đảm bảo 2 buổi/ngày, với số phòng học của nhà trường như vậy sẽ không đáp ứng đủ yêu cầu. Hiện nhà trường đang thiếu phòng Tin học, Ngoại ngữ, Nghệ thuật và khu tập thể dục…
Phải chuẩn bị ngay từ bây giờ
Bên cạnh việc xây dựng thêm phòng học mới, đảm bảo cơ sở vật chất, nhiều chuyên gia nhấn mạnh đến yêu cầu các địa phương cần bổ sung phòng học bộ môn và phòng học chức năng. Tuy nhiên, ngoài việc chuẩn bị đầy đủ thì phải có cơ chế giám sát, phối hợp chặt chẽ để tránh lãng phí.
Bộ GD&ĐT cho phép nâng tầng nếu trường học đủ điều kiện. Hệ thống phòng chức năng, hiệu bộ, hành chính được chuyển lên tầng cao, dành các tầng thấp làm phòng học cho HS. Các trường xem xét và bỏ quy định về diện tích phòng học, có thể đưa ra một vài phương án, linh động với tình hình thực tế địa phương.
Hiệu trưởng trường THCS – THPT Lê Quý Đôn Nguyễn Quốc Bình cho biết, hiện nhiều trường còn thiếu phòng học, đồ dùng, các thiết bị thí nghiệm… Từ nay đến khi thực hiện Chương trình GDPT mới không còn nhiều thời gian, do đó Bộ GD&ĐT cần có kế hoạch triển khai cụ thể đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Bộ GD&ĐT có nhiệm vụ triển khai Chương trình GDPT mới và sách giáo khoa, còn nguồn kinh phí phụ thuộc vào từng địa phương và các bộ, ngành. Điều này đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa Bộ GD&ĐT với các bộ, ngành khác để đáp ứng yêu cầu đổi mới.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội Phạm Tất Thắng cho rằng, để chuẩn bị đầy đủ phục vụ Chương trình GDPT mới, trách nhiệm liên ngành, thống nhất từ T.Ư xuống địa phương là điều cần thiết.
Theo đó, ngoài đảm bảo trường lớp, trang thiết bị dạy học, còn phải bảo đảm các điều kiện hạ tầng về giao thông, không gian trải nghiệm thực tế ngoài nhà trường (bảo tàng, thư viện…) để hỗ trợ việc học tập của HS.
“Không chỉ ở vùng sâu, vùng xa mà tại Hà Nội cũng là thách thức lớn. Để chuẩn bị cho năm học mới, Hà Nội đã xây dựng 70 trường học và sửa chữa 387 trường nhưng ở những nơi đông dân cư vẫn thiếu trường, lớp. Không chỉ vậy, nhiều nơi cơ sở vật chất xuống cấp, trang thiết bị phục vụ dạy học còn thiếu và lạc hậu.” – GS Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên Chương trình GDPT mới
Cập nhật thông tin chi tiết về Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Toán Tiếp Cận Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông 2022 Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh Tiểu Học trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!