Bạn đang xem bài viết Đổi Mới Giáo Dục Đại Học Theo Hướng Hội Nhập Quốc Tế Ở Nước Ta Hiện Nay được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, giáo dục đại học Việt Nam cần được đổi mới trên cơ sở vẫn giữ được những nét đặc thù của giáo dục đại học trong nước, đồng thời tiệm cận được các chuẩn chung của thế giới.
Vì sao cần phải đổi mới giáo dục đại học?
Ở nước ta hiện nay, mặc dù chưa có định nghĩa chính thức về giáo dục đại học(1), nhưng qua các văn bản không chính thức, có thể hiểu giáo dục đại học là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc học sau giai đoạn bậc phổ thông với các trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại học đã xuất hiện ở nước ta cách đây trên cả nghìn năm(2). Cho đến nay, lịch sử giáo dục đại học Việt Nam đã trải qua các nền giáo dục khác nhau: phong kiến, thuộc địa và chủ nghĩa thực dân mới (ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975). Sự nghiệp giáo dục đại học từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trải qua gần 70 năm qua và đạt được những thành tựu to lớn, trong đó quan trọng nhất là đã góp phần tạo ra các thế hệ nguồn lực con người Việt Nam, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, nền giáo dục của nước ta ngày càng bộc lộ những bất cập và hạn chế.
Về mục tiêu, trong một thời gian dài, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chúng ta chưa chú trọng đúng mức đến việc đặt ra mục tiêu cho nền giáo dục của đất nước, trong đó có giáo dục đại học. Thời gian gần đây, mục tiêu giáo dục đại học ở nước ta có sự thay đổi, như việc xác định quan niệm, mục đích của giáo dục đại học là đào tạo nhân tài (Luật Giáo dục Việt Nam năm 2012). Tuy nhiên, hiểu thế nào là nhân tài thì cho đến nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất. Nếu coi nhân tài là người có sáng kiến, có khả năng, năng động, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển dù trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận hay hoạt động thực tiễn, nghĩa là nhân tài phải là những người nổi trội và hiếm trong xã hội thì mục tiêu này khó đạt được đối với chất lượng thực tế của giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Trong thực tế, các trường đại học ở Việt Nam hiện nay, nhiều lắm cũng mới chỉ đủ khả năng trang bị cho người học (sinh viên, học viên hay nghiên cứu sinh…) kiến thức cơ bản, trang bị khả năng phân tích độc lập, dám suy nghĩ và biết suy nghĩ (suy nghĩ có phương pháp – tư duy khoa học). Như vậy, rõ ràng là ngay cả khi chúng ta đổi mới mục tiêu giáo dục đại học thì mục tiêu này cũng không phù hợp với khả năng, cũng như chất lượng thực tế của nền giáo dục đại học trong nước. Trong khi đó, rất nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả các quốc gia có nền giáo dục đại học tiên tiến khi đặt ra mục tiêu giáo dục, họ đều nêu lên những mục đích rất thực tế. Một trường đại học danh tiếng ở Mỹ đã xác định mục tiêu của mình như sau: “Mục đích của môi trường giáo dục và sinh hoạt sinh viên là đào tạo những cá nhân thành đạt và công dân có trách nhiệm. Người tốt nghiệp cảm thấy tự tin trong việc tìm hiểu rộng rãi nhiều vấn đề và kinh nghiệm ở môi trường đại học hay ngoài đời, dù là học bất cứ ngành chuyên môn nào”. Chữ “thành đạt” có thể hiểu là có sự hiểu biết về tri thức cơ bản, được sửa soạn kỹ càng để có thể tự tin vào đời và vào thị trường lao động (kiếm sống cũng như phát triển tri thức). Nhưng mục đích đào tạo thành những “công dân có trách nhiệm” thì được thể hiện rất rõ ràng (3). Với những mục tiêu như thế này, hầu hết các trường đại học ở Việt Nam hiện nay ít đặt ra hoặc chưa thực sự coi trọng, nên cũng là một trong những nguyên nhân góp phần làm giảm chất lượng sản phẩm (người học) sau đào tạo.
Về nội dung, mặc dù những năm qua đã có nhiều cố gắng đổi mới, cải cách nội dung giáo dục ở các cấp học theo hướng tiến bộ hơn, song nhìn chung so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nền giáo dục của nước ta vẫn còn lạc hậu, nhất là nội dung giáo dục ở bậc đại học. Nhìn tổng thể, phần lớn nội dung và chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta đều được biên soạn hoặc chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đặc biệt nền giáo dục Xô-viết. Trong một thời gian dài, những nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với nền giáo dục của nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nội dung chương trình giáo dục đại học nước ta đang bộc lộ rất nhiều bất cập và hạn chế:
Một là, nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm đối với người học.
Hai là, chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong nước và quốc tế. Mặc dù được đặt dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhưng trên thực tế, khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay còn rất hạn chế, ít thừa nhận và tiếp nhận các kết quả đào tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển trường, ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và ngoài nước lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và quốc tế (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo thỏa thuận). Điều này không những gây khó khăn cho người học khi muốn chuyển đến cơ sở giáo dục ngoài nước, mà ngay cả việc công nhận văn bằng, chứng chỉ của các cơ sở giáo dục trong nước tại các nước mà người học chuyển đến định cư hoặc công tác cũng không phải dễ dàng.
Ba là, chương trình học còn nặng với thời lượng lớn. Một thống kê và so sánh cho thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học tại Việt Nam là 2.138 giờ so với Mỹ là 1.380 giờ(4). Như vậy chương trình học ở Việt Nam dài hơn 60% so với Mỹ. Thời gian học nhiều như vậy nên người học khó tránh khỏi việc rơi vào trạng thái luôn bị áp lực hoàn thành các chương trình môn học, ít có thời gian để tự học, tự nghiên cứu, hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay tỏ ra bất cập và kém hiệu quả. Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ bản khiến nền giáo dục đại học ở Việt Nam đang có xu hướng tụt hậu.
Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học, các trường đại học ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa tiếp cận với các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học phổ biến của thế giới. Nhằm mục tiêu “nhấn mạnh đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm đầy kiến thức đã có sẵn”, việc áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của các trường đại học trên thế giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh thần đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện tối đa cho người học có thể tự học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, do quan niệm “nền giáo dục cần trang bị cho người học một lượng kiến thức càng nhiều càng tốt để họ có thể có một nền tảng vững chãi khi ra trường”(5) nên vai trò, vị trí của người học chưa thực sự được quan tâm. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học còn khá lạc hậu. Kết quả khảo sát thực địa của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ năm 2006 có phần nhận xét về phương pháp dạy và học đại học của Việt Nam như sau: “Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên trong và ngoài lớp học; quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu; sinh viên học một cách thụ động(6). Mặc dù, những năm gần đây, theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp dụng phương pháp giảng dạy cho sinh viên theo phương thức tín chỉ, nhưng theo đánh giá của nhiều chuyên gia, “Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực sự đúng với tinh thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa thoát khỏi tinh thần niên chế. Tính chủ động của sinh viên còn yếu kém”(7). Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trong các trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Các thiết bị giảng dạy, như máy chiếu, video… chỉ là phương tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy, điều quan trọng hơn cả là sự nhận thức rằng giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến về phương pháp và chương trình học vẫn chưa được chú trọng.
Nguyên nhân của những bất cập
Một là, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Theo kết quả khảo sát tại 60 doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh về “Đánh giá mức độ hài lòng của doanh nghiệp về chất lượng của sinh viên được đào tạo trong 5 năm đầu tiên sau khi tốt nghiệp (đánh giá dựa trên các tiêu chí kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành, trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc và năng lực nghề nghiệp), chỉ có 5% tổng số sinh viên tham gia khảo sát được đánh giá ở mức độ tốt, 15% ở mức độ khá, 30% ở mức độ trung bình và 40% ở mức độ không đạt(8). Kết quả này không chỉ phản ánh sự hạn chế trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay mà còn gián tiếp chỉ báo một nguy cơ lao động Việt Nam sẽ tụt hậu so với các nước khác trong khu vực, trong khi các doanh nghiệp đã và đang sử dụng công nghệ tự động trong quản lý nhân lực.
Hai là, hạn chế về khả năng nghiên cứu và công bố các kết quả nghiên cứu. Hầu hết các nền giáo dục tiên tiến của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới hiện nay đều có khả năng tạo ra một đội ngũ các nhà khoa học đông đảo có trình độ nghiên cứu và công bố các kết quả nghiên cứu trong nước và quốc tế với số lượng lớn. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế, số lượng và chất lượng các công trình công bố trên các ấn phẩm khoa học quốc tế trở thành thước đo quan trọng, chỉ số khách quan không chỉ phản ánh sự phát triển khoa học – công nghệ cũng như hiệu suất khoa học mà còn phản ánh trình độ và chất lượng thực tế nền giáo dục của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, những năm gần đây, mặt dù đã có sự quan tâm của nhiều cơ sở giáo dục trong việc tạo cơ chế khuyến khích các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và công bố các kết quả nghiên cứu trong nước và quốc tế, nhưng kết quả vẫn còn hạn chế, thậm chí có xu hướng ngày càng tụt hậu xa hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ. Theo thống kê của Viện Thông tin khoa học (ISI), trong giai đoạn 1996 – 2011, Việt Nam mới có 13.172 công trình khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Ma-lai-xi-a (75.530), và 1/10 của Xin-ga-po (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần dân số Xin-ga-po, gấp 3 lần Ma-lai-xi-a và gần gấp rưỡi Thái lan. Không chỉ ít về số lượng, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng thấp nhất so với các nước trong khu vực. Thứ hạng khiêm tốn này cũng nhất quán với số bằng sáng chế được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) xếp hạng.
Ba là, làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, sự bất cập, hạn chế trong giáo dục đại học ở nước ta hiện nay không chỉ tác động trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, mà sâu xa hơn có thể làm suy giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Theo Báo cáo về Tính cạnh tranh năng lực toàn cầu 2013 – 2014 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) được thực hiện với 148 nước, tính hiệu quả của hệ thống giáo dục Việt Nam được xếp ở vị trí 67/144. Ở hạng mục giáo dục đại học và đào tạo, Việt Nam đứng thứ 95 trong bảng xếp hạng, thứ 7 trong các nước ASEAN, sau Xin-ga-po (thứ 2), Ma-lai-xi-a (thứ 46), Bru-nây (thứ 55), Thái Lan (thứ 66), In-đô-nê-xi-a (thứ 64), Phi-líp-pin (thứ 67). Điều đáng nói là, trong số 12 tiêu chí then chốt giúp nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế, sức khỏe và giáo dục cơ sở được WEF xếp vào tiêu chí thứ 4, chất lượng giáo dục và đào tạo cấp cao xếp tiêu chí thứ 5.
Có thể những con số so sánh nêu trên chưa phản ánh đầy đủ và thực chất nền giáo dục Việt Nam hiện nay, nhưng nó cũng là hồi chuông nhắc nhở chúng ta cần có ngay các giải pháp để đổi mới có hiệu quả giáo dục nước nhà, trong đó có giáo dục đại học, nếu không muốn ngày càng tụt hậu xa hơn so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học
Thứ nhất, xây dựng triết lý giáo dục cho nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay, đồng thời mỗi trường đại học, mỗi cơ sở giáo dục cũng cần có triết lý giáo dục riêng phù hợp với tôn chỉ, mục đích và hướng tới hội nhập vào dòng chảy phát triển chung của giáo dục quốc tế.
Thứ hai, việc đổi mới tư duy giáo dục hiện nay cần “gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở khu vực”(10) như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng khẳng định. Các cấp, các ngành, trước hết là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có sự thay đổi một cách mạnh mẽ về tư duy trong tổ chức giáo dục đại học, như thay đổi cách tuyển sinh, lựa chọn “đầu vào” theo hướng thoáng hơn, cho phép các cơ sở giáo dục đại học tự đặt ra các tiêu chuẩn tuyển sinh và chịu trách nhiệm với người học bằng chính “uy tín” đào tạo của mình, cho phép hình thành nhiều mô hình đào tạo đại học khác nhau, kiểm soát chặt chẽ “đầu ra” của mỗi cơ sở đào tạo để bảo đảm chất lượng chung…
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng hội nhập quốc tế. Nội dung chương trình và giáo trình cần được tổ chức xây dựng và triển khai theo hướng mở (cho phép cập nhật thường xuyên về kiến thức trong và ngoài nước, sử dụng giáo trình, học liệu trong nước hoặc ngoài nước một cách linh hoạt để giảng dạy cho người học), nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học đang theo đuổi. Về phương pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên cứu. Tất nhiên, các cơ sở đào tạo cần thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan, chặt chẽ để bảo đảm tính hiệu quả của việc dạy và học.
Thứ tư, đổi mới vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Theo đó, về mặt pháp lý, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định về pháp luật đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thay đổi cách tư duy về quản lý đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Thay vì trực tiếp quản lý toàn diện đối với các cơ sở giáo dục đại học, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên đóng vai trò là cơ quan “tài phán”, định hướng các hoạt động theo luật pháp, đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học được độc lập, tự chủ hơn trong các hoạt động. Cần tránh tư duy quản lý theo cách áp đặt, hoặc “bao cấp” đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ năm, tăng cường các hoạt động nghiên cứu và công bố quốc tế, tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động về chuyên môn tại các cơ sở giáo dục đại học. Trước mắt, Nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học cần có các cơ chế chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học nghiên cứu và tích cực công bố kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học quốc tế. Về lâu dài, cần đặt ra lộ trình (đối với mỗi cơ sở giáo dục đại học khác nhau cần có những lộ trình khác nhau) tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động khoa học và các hoạt động về chuyên môn trong tất cả các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời cần coi đây là giải pháp quan trọng để đưa giáo dục đại học Việt Nam hội nhập sâu hơn vào môi trường quốc tế./.
Đề Tài Tăng Cường Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Tình Hình Đổi Mới Ở Nước Ta Hiện Nay
hạm vi thẩm quyền trên cơ sở pháp luật và phù hợp với pháp luật. Đối với cơ quan Nhà nước, cơ quan hành chính, cơ quan kinh tế hay cơ quan tư pháp đều phải như vậy. Các văn bản quy phạm do các cơ quan Nhà nước ban hành không được trái với luật. Ngay đối với cơ quan lập pháp là Quốc Hội khi ban hành luật cũng phải phù hợp với Hiến pháp, đạo luật cơ bản của Nhà nước. (Trừ trường hợp khi Quốc hội thấy cần thiết phải ra luật sửa đổi hoặc bổ xung Hiến pháp). Thực hiện nguyên tắc pháp chế thống nhất trong hoạt động quản lý sẽ làm cho chủ trương, chính sách của Đảng thể hiện trong các văn bản pháp luật được thực hiện đầy đủ và đúng đắn từ Trung ương đến cơ sở, nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động thực tiễn của Chính quyền được củng cố, sức mạnh của Nhà nước chuyên chính vô sản được phát huy và quyền làm chủ tập thể của nhân dân được triệt để tôn trọng. Nguyên tắc pháp chế thống nhất tuyệt đối không thể dung nạp lối quản lý “phép vua thua lệ làng”, một biểu hiện chống lại pháp luật chuyên chế dưới chế độ phong kiến. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi “Lệ làng” phải phù hợp với pháp luật Nhà nước. Nguyên tắc pháp chế thống nhất bác bỏ xu hướng bản vị cục bộ, núp dưới cái bóng gọi là đặc điểm địa phương, đặc điểm của ngành để tuỳ tiện không chấp hành luật hay sai pháp luật; vin vào các đặc điểm địa phương để không thực hiện các quy định trong việc vận dạng các quy luật kinh tế hoặc làm cho kinh tế địa phương phát triển không phù hợp với đường lối phát trỉên kinh tế cả nước, làm lợi ích riêng không phù hợp với lợi ích chung. Nhà nước ta đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc pháp chế thống nhất, nhưng cũng rất coi trọng và khuýên khích những khả năng sáng tạo của địa phương. Trong việc tổ chức hành pháp luật Nhà nước cho phép các địa phương, các ngành, các cơ quan sản xuất và kinh doanh có quyền ra các nội quy, điều lệ thích ứng để quản lý. Nhưng những nội quy, điều lệ ấy không được trái với đường lối, chính sách chung của Đảng và pháp luật của Nhà nước. 2. Tất cả các văn bản pháp luật của Nhà nước đều phải được quán triệt để tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh, không có một ngoại lệ nào đối với các quy phạm còn có hiệu lực, chưa được huỷ bỏ hoặc sửa đổi Một khi pháp luật đã được ban hành theo đúng thẩm quyền và đúng thể thức do Nhà nước quy định thì không có ai có thể nói rằng nên hay không nên tuân theo và chấp hành pháp luật đó. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chấp hành pháp luật một cách triệt để, vô điều kiện. Thái độ tự do , tuỳ tiện trong việc chấp hành pháp luật là trái với nguyên tắc pháp chế và không phù hợp với bản thân cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật là chấp hành đúng lời văn và tinh thần của các quy phạm pháp luật. Coi nhẹ bất kỳ mặt nào cũng dễ dẫn tới sai lầm trong thực tiễn (dù tự giác hay không tự giác). Nhưng nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật không có nghĩa là chấp hành một cách hình thứ, pháp chế xã hội chủ nghia đòi hỏi một mặt phải chấp hành triệt để các quy phạm pháp luật. Mặt khác vận dụng các quy phạm pháp luật ấy sao cho phù hợp với nhiệm vụ kinh tế và chính trị trong từng giai đoạn phát triển tương ứng của xã hội chủ nghĩa. 3. Mọi người phải bình đẳng trước pháp luật – pháp luật bình đẳng trước mọi người Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thừa nhận bất cứ một đặc quyền nào trong lĩnh vực thực hiện pháp luật. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có một pháp luật và mội kỷ luật của Nhà nước cho tất cả mọi người. Đảng viên và những người ngoài Đảng, người lãnh đạo và người bị lãnh đạo không phân biệt dân tộc hay tôn giáo tất cả đều có nghĩa vụ tuân theo pháp luật và có quyền đòi hỏi người khác, cơ quan khác phải tôn trọng và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình. Pháp luật đã ban hành mọi người đều phải thi hành nhưnhau. Ai vi phạm đều bị xử bình đẳng. 4. Bảo vệ các quyền và tự do của công dân đã được pháp luật quy định là một yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa Trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam công dân có những quyền dân chủ đã được Hiến pháp quy định. Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan Nhà nước phải đựơc tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định đảm bảo thực tế của các quyền tự do của công dân, ngăn chặn kịp thời đồi với mọi sự vi phạm các quyền đó là một trong những yêu cầu quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các công dân khi sử dụng các quyền tự do, khi được pháp luật trao cho, không được gây thiêt hại cho lợi ích của Nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của các công dân khác. Nhà nước phải thường xuyên quan tâm tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền và tự do của công dân một cách có hiệu quả. Ngăn chặn kịp thời và nhanh chóng mọi sự vi phạm pháp luật. Bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cũng đều có hại cho Nhà nước, xã hội và lợi ích của công dân, bởi thế các cơ quan Nhà nước phải phản ứng nhanh chóng và phân minh đối với những vi phạm đó. Đảng ta đã chỉ rõ : Phải chỉnh đốn tổ chức thi hành những biện pháp có hiệu lực trừ diệt các tện nạn hối lộ, cửa quyền loại bỏ và nghiêm trị những phần tử biến chất lợi dụng danh nghĩa Đảng, chính quyền để đục khoét nhân dân, áp bức quần chúng. Các cơ quan Viện kiểm sát, Toà án, Thanh tra, An ninh dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật, vi phạm quyền của công dân. III. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới hiện nay ở nước ta 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường pháp chế xa hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam đã khai sinh và xây dựng Nhà nước ta đồng thời hình thành và phát triển nên pháp luật Việt Nam. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lê nin – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của pháp luật, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luận điểm sâu sắc của Hồ Chủ Tịch về xây dựng pháp luật, lê lối làm việc và cuộc sống mẫu mực tuân theo pháp luật của người, thể hiện qua những câu nói đơn giản, dễ hiểu, là những bài học lớn đối với cán bộ, nhân dân ta đồng thời là những đóng góp quý báu cho lý luận về Nhà nước và pháp luật ở nước ta và thế giới. Tư tưởng về luật pháp của Hồ Chủ tịch được nêu lên từ nhiều thập kỷ, đến nay vẫn mang tính chất thời sự tác dụng vẫn còn nguyên vẹn. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết được Đảng đề ra theo hướng chỉ đạo của Hồ Chủ Tịch, để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và bảo đảm quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. Từ sau đại hội lần thứ VI của Đảng, đất nước ta có những biến đổi rõ rệt trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Nhưng tình hình kinh tế xã hội còn khó khăn, gay gắt, kỷ cương pháp luật trong quản lý Nhà nước còn bị buông lỏng. Việc thể chế hoá đường lối, chính sách chậm chạp, pháp luật chưa thực sự được tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh. Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước được thể hiện qua cá văn kiện … Sau khi Nhà nước ban hành pháp luật về việc tổ chức thực hiện pháp luật giữ vị trí quan trọng. Việc quan trọng mà Đảng vầ Nhà nước quan tâm là phải giáo dục nâng cao ý thức pháp luật được Đảng ta nhấn mạnh trong báo cáo chính trị tại đại hội VI: “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của nhà nước (kể cả các trường phỏ thông và đại học) của các đoàn thể nhân dân”. Trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VIII, đồng chí Nguyễn Văn Linh cố vấn BCH Trung ương Đảng đã nhấn mạnh : “Việc soạn thảo và thông qua luật pháp cũng như các Nghị quyết lớn dù quan trọng nhưng cũng chỉ là phần đầu của công việc, khó khăn lớn nhất là đưa chúng vào cuộc sống, biến chúng thành hoạt động thực tiễn hàng ngày của quảng đại quần chúng”. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo kỷ cương, duy trì tật tự xã hội phải kịp thời đấu tranh kiên quyết với những hành vi, vi phạm pháp luật và tội phạm. Đảng cộng sản Việt Nam là người “lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội”, nhưng sự lãnh đạo của Đảng cũng không tách rời nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong cương lĩnh của Đảng đã ghi : “Đảng lãnh đạo, hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên kết mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục tiến hành cương quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Phương hướng cơ bản để khắc phục tệ tham nhũng là phải xây dựng và hoàn chỉnh bộ máy cơ chế quản lý và pháp luật, xử lý nghiêm minh những người vi phạm”. Theo Lê nin tính nghiêm minh của pháp luật “… Hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó nặng, mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt”. 2. Nội dung tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đổi mới hiện nay ở nước ta Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một chế độ xã hội có tổ chức, được xây dựng bằng lao động tự giác tích cực và sáng tạo của nhân dân lao động nhằm đạt tới những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Để đạt được những mục tiêu đó phải thường xuyên tăng cường vai trò và phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, trong đó việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có vị trí vai trò quan trọng. Tăng cường pháp chế là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với những điều kiên, những đặc điểm và những nhiệm vụ phải thực hiện trong từng giai đoạn cách mạng. Vì vậy, việc tăng cường pháp chế trong giai đoạn cách mạng hiện nay, vừa cơ bản, vừa cấpbách, trong bài phát biểu về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội tại kỳ họp thứ X. Quốc hội khoá VIII, đồng chí Võ Văn Kiệt – Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã chỉ rõ “Một điều hết sức cơ bản, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của mỗi nhiệm vụ chủ trương chính sách là phải thiết lập cho được trật tự kỷ cương theo cơ chế mới”. Tình trạng coi thường phép nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã nghiêm trọng đến mức nguy hiểm. Trật tự kỷ cương đã hết sức lỏng lẻo, chẳng những đã gây thiệt hại về vật chất mà còn làm suy thoái bản chất vốn có của người Việt Nam. Nếu không tăng cường pháp chế, ngăn chặn, chấn chỉnh, xoá bỏ tình trạng vô tổ chức, vô chính phủ, vô kỷ luật, không chấp hành nghiêm chỉnh và đầy đủ pháp luật Nhà nước thì chảng những sự nghiệp đổi mới không thực hiện được mà còn có thể bị biến dạng đưa xã hội tới kết quả rất xấu không lường trước được. Xuất phát từ yêu cầu trên nội dung tăng cường pháp chế trong giai đoạn hiện này là: a- Kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước và tư pháp: Quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 tại Hội nghịcán bộ toán quốc, đồng chí Phan Văn Khải – Phó Thủ tướng Chính phủ nói: “Cải cách nền hành chính là trọng tâm nhưng không phải tách rời mà phải gắn chặt với việc đổi mới hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới và chỉnh đốn Đảng ; kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan lập pháp phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân”. Đổi mới tổ chức và cách làm việc của Chính phủ, sẵpếp lại cán bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ một cách hợp lý gọn nhẹ. Sửa đổi cơ cấu tổ chức, phương thức hoạtđộng và chế độ làm việc của UBND các cấp, sắp xếp lại các Sở, Phòng, Ban chuyên môn một cáh hợp lý gọn nhẹ, có hiệu quả. Việc kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước và tư pháp phải gắn liền với việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý Nhà nước và xét xử. Cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ tư pháp nhất thiết phải là những người nắm vững pháp luật, để quản lý Nhà nước theo đúng pháp luật Nhà nước, phải đấu tranh khắc phục những nhận thức không đúng đắn, không đầy đủ về pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. b. Đẩy mạnh xây dựng pháp luật và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật, phải có một hệ thóng pháp luật tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Hiện nay, trong xã hội còn nhiều những quan hệ xã hội cần sự điều chỉnh của pháp luật, nhưng chưa có pháp luật để điều chỉnh; trong số những văn bản đã có, còn nhiều văn bản dưới luật hoặc chồng chéo, hoặc lỗi thời, tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải “Từng bước bổ xung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật”, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác hệ thống hoá pháp luật, loẩi ngoài hệ thống pháp luật những văn bản không còn thích hợp với thực tế cuộc sống, đồng thời chú trọng việc xây dựng và ban hành những đạo luật mới nhất là các đạo luật lệ về kinh tế, về an ninh xã hội; trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng pháp luật, điều hết sức quan trọng là pháp luật phải phản ánh đúng quy luật khách quan và nhu cầu xã hội xã hội chủ nghĩa, phản ánh đúng và phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và có thể thực hiện được trong thực tế cuộc sống xã hội đang phát triển. Xây dựng pháp luật phải theo đúng thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp, đồng thời phải bảo đảm mở rộng dân chủ xã hội chủ nghãi. Cần phải tránh khuynh hướng cho rằng kinh tế – xã hội ta còn biến động, phải chăng chỉ xây dựng những văn bản pháp luật mang tính chất định hướng chung. Nhưng cũng cần phải tránh những quan điểm ban hành pháp luật không thếit thực đối với cuộc sống và quan điểm lấy chủ trương, chính sách của Đảng thay cho pháp luật của Nhà nước. Quan điểm này cho rằng đường lối, chính sách của Đảng linh hoạt để vận dụng sáng tạo hơn pháp luật Nhà nước. Để mọi người thực hiện tốt pháp luật, trước hết phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm mục đích hình thành cho mọi người có ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, ý thứ pháp luật là tiên đề tư tưởng trực tiếp nhất cho việc xây dựng và thự hiện pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, Nhà nước, kể cả trường phổ thông, trung học, đại học, các trường của đoàn thể, cán bộ quản lý các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở, đơn vị phải có kiến thức quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật, pháp chế. Cần sử dụng nhiều hình thứ và biện pháp để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân. Các cấp, các ngành, các đơn vị cởơ phải thường xuyên lo củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế để tạo điều kiện cho việc nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh những chế độ quy định của Nhà nước ban hành. Phải bảo đảm tuân thủ, thi hành vấp dụng đúng đắn pháp luật. Tuân thủ là tự kiềm chế không vi phạm điều cấm thực hiện của pháp luật. Sử dụng là thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép. Thi hành là thực hiện nghĩa vụ pháp lý. Áp dụng pháp luật là đặc quyền của các cơ quan Nhà nưcớ có thẩm quyền, áp dụng pháp luật là hành vi của các cơ quan Nhà nước mà chủ yếu là cơ quan hành chính Nhà nước và tài phán. Nhà nước, để ban hành các quyết định cá biệt dưới hình thức văn bản cá biệt hoặc văn nỏia lệnh, đưa ra một tình trạng pháp lý cho công dân hoặc tổ chức công dân, tổ chức Nhà nước, là sự cho phép, cấm đoán, bắt buộc hành động, quy định điều kiện, chế tài v.v… Các quyết định cá biệt có tính đơn phương và chấp hành, buộc thi hành ngay, trong trường hpj cần thiết cơ quan có thẩm quyền huy động công lực để cưỡng chế thi hành các quyết định cá biệt đo, áp dụng pháp luật là hoạt động không thể thiếu được trong tổ chức thực hiện pháp luật và bảo đảm pháp chế. Thực hiện pháp luật phải bảo đảm nguyên tắc : công dân được làm tấtcả những gì mà pháp luật không cấm, còn Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. d. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật: Quan lý nhà nước là sự tác động có tổ chức, có hệ thống bằng pháp luật nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước. Trong quá trình tác động điều chỉnh pháp luật Nhà nước phải thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát loại trừ những hành vi không hợp phẩp khỏi đời sống pháp chế Nhà nước. Có thể hiểu công tác kiểm tra, giám sát là một khâu nằm trong quá trình quản lý nhà nước, thiếu khâu này bất thành quản lý. Mục đích của công tác kiểm tra, giám sát là phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật để kịp thời uốn nắn, sửa chữa những sai sót đó. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát nằm trong quá trình điều chỉnh pháp luật của Nhà nước. Kiểm tra giám sát là trách nhiệm chung của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, cac tập thể lao động và mọi công dân, nhưng trực tiếp là các cơ quan dân cử, các cơ quan kiểm sát, thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân. Phải tăng cường vai trò, vị trí, chức năng và kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của cơ quan trên, nhằm phát huy vai trò của chúng trong củng cố, bảo vệ pháp chết xã hội hủ nghĩa. Trong công tác kiểm tra, giám sát chấp hành pháp luật phải được đặc biệt coi trọng, đảm bảo quyền khiếu nại tố cáo của công dân đối với những hành vi vi phạm pháp luật, việc kiểm tra, giám sát phải quán triệt nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa, phối hợp tốt hoạt động của các cơ quan chuyên trách, với hoạt động của các đoàn thể xã hội và từng công dân. Phải dùng sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống những hành vi vi phạm pháp luật. e. Mọi hành vi vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm minh : Có xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật mới phát huy được hiệu lực của pháp luật, mới giữ vững và củng cố được pháp chế xã hội chủ nghĩa. Lê nin đã nói : “Ai tưởng rằng bước chuyển từ chủ nghãi tư bản lên chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện được mà không cần đến cưỡng chế thì sẽ phạm một điều dại dột lớn nhất và tỏ ra không tưởng một cách hết sức vô lý”. Trong xử lý những vi phạm pháp luật phải quán triệt quan điểm của Đảng ta. Mọi vi phạm đều phải được xử lý, không làm theo kiểu phong kiến; dân phải chiuu hình phạt, quan thì xử theo lệ. Mặt khác, phải tôn trọng nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nhà nước. g- Sự lãnhđạo của Đảng trong công tác tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa : Công tác tăng cường pháp chế phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, mặt khác cá cấp uỷ Đảng từ trên xuống dưới phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế, tăng cường cán bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp chế và kiểm tra chặt chẽ cho hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan pháp chế. CHƯƠNG II PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở ĐỊA PHƯƠNG I. Phương hướng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa hiện nay ở địa phương Trong thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, trong điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể của địa phương. Để ngăn chặn tình hình vi phạm pháp luật và các loại tội phạm có xu hướng ngày một tăng, để đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng ở đất nướcta hiện nay, phương hướng tăng cường pháp chế địa phương cần tập trung : 1. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương, khi ban hành văn bản pháp quy phải bảo đảm đúng pháp luật. Tổ chức thi hành pháp luật của Nhà nước thống nhất và thông suốt ở địa phương Pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường trên cơ sở của một hệ thống pháp luật ngày cang phát triển và hoàn thiện, kịp thời thể chế hoá các chủ trương chính sách, đường lối củaĐảng, phản ánh đúng những đặc điểm kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể. Để có cơ sở sống và làm việc tuân theo pháp luật, đòi hỏi các tổ chức Đảng, chính quyền nhà nước phải đẩy mạnh việc triển khai các văn bản pháp luật của Nhà nước cấp trên. Đồng thời dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật của Trung ương, địa phương cần phải ban hành những quy định, quyết định để thực hiện những văn bản luật của Nhà nước. Đối với nướcta hiện nay những điều kiện kinh tế xã hội còn những biến động, chưa thuần nhất thì việc ban hành những quyết định cho phù hợp bước đầu có gặp nhiều khó khăn. Vì ậy, trong khi ban hành các quyết định thực hiện cần phải tránh hai khuynh hướng: Chủ quan nóng vội muốn quyết định của mình phải có hiệu quả ngay tức khắc; mặt khác cũng cần tránh khuynh hướng không nhận thức đúng vai trò tích cực của các văn bản Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân nêu ra, dẫn đến cái gì cũng trông vào việc cụ thể hoá của Trung ương. Đối với các văn bản Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành trong nội bộ cần dựa vào chiến lược xây dựng pháp luật lâu dài của Nhà nước Trung ương. Đồng thời phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của nước ta để ban hành những văn bản quan trọng, cấp bách kịp thời điều chỉnh đối với sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội. 2. Các tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước Đảng cộng sản Việt Nam là hạt nhân “lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội” nhưng sự lãnh đạo của Đảng không được tách rời nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nguyên tắc này Đảng đòi hỏi các tổ chức Đảng và Đảng iên phải gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước. Tỉnh, thành phố phải chỉ thị các tổ chức cơ sở Đảng và đảng iên phải tuân theo pháp luật và hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, không được tự coi mình là người có quyền muốn làm gì cũng được bất chấp pháp luật. Cần chỉ đạo các ngành chức năng, nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định pháp luật làm cơ sở cho việc tuyên truyền giáo dục pháp luật đạt kết quả tốt, đồng thời đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền giáo dục pháp luật cả chiều sâu và chiều rộng, nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết pháp luật, nâng cao kiến thức, pháp lý tạo điều kiện để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện chức năng quản lý kinh tế xã hội trên địa bàn khi cụ thể hoá các chủ trương của cấp trên và Nghị quyết của tỉnh, thành phố cần ban hành các văn bản pháp quy quản lý cụ thể trên từng lĩnh vực phải đúng thẩm quyền và thể thức do Nhà nước quy định. Khi đãban hành xong bản thân mìnhvà các nhà chức trách viên chức, công chức phải gương mẫu chấp hành và lãnh đạo nhân dân thực hiện trên cơ sở phổ biến tuyên truyền. Cần chống thái độ tự do, tuỳ tiện trong việc chấp hành pháp luật. Tỉnh, thành phố tăng cường sự lãnh đạo và quản lý với các doanh nghiệp Nhà nước, các thành phần kinh tế khác phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác cần khuyến khích tính năng động sáng tạo trong hoạt động, biết vận dụng các quy phạm pháp luật sao cho phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế và chính trị trong từng giai đoạn tương ứng của tỉnh, thành phố và cả nước. Nhưng phải đề phòng sai lầm chuyên môn đơn thuần, áp dụng pháp luật một cách máy móc, đồng thời chống tư tưởng tự do, tuỳ tiện, dựa vào lý do này, lý do khác để bất chấp pháp luật. II. Các giải pháp cơ bản về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay phải áp dụng một lúc nhiều biện pháp cơ bản như : tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, thành phố đối với công tác pháp chế, kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật đảm bảo đủ điều kiện tổ chức triển khai thực hiện pháp luật, đổi mới công tác tổ chức cán bộ, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật. 1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế ở nước ta Đây là một biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong quá trình củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnhđạo của Đảng bộ tỉnh, thành phố trước hết ở việc Đảng bộ đề ra kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời đề ra kế hoạch toàn diện về công tác pháp chế của địa phương trên cơ sở hiến pháp và luật của Nhà nước, tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân; đào tạo bồi dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường cho các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế của địa phương, nhằm chống vi phạm pháp luật. Đó là Đảng lãnh đạo toàn diện, có ý nghĩa quyết định đối với kết quả công tác pháp chế trong địa phương. Tuy nhiên sự nghiệp tăng cường pháp chế của toàn dân. Vì vậy, Đảng bộ thực sự lãnh đạo của mình đối với công tác này không có nghĩa là Đảng làm thay cho chính quyền Nhà nước địa phương mà Đảng bộ chỉ vạch ra những hướng chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền nhà nước trên địa bàn địa phương đối với công tác pháp chế. Để công tác pháp chế của địa phương đạt đạt được hiệu quả thiết thực, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương phải dựa trên phương hướng đường lối của Đảng đề ra các biện pháp cụ thể, phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh trong mỗi giai đoạn cụ thể của địa phương. Sự lãnh đạo của địa phương đối với công tác pháp chế còn được thực hiện thông qua sự gương mẫu của các đảng viên và tổ chức đảng ở cơ sở trong việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước. 2. Kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan tư pháp trong đ
Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Của Việt Nam Trong Bối Cảnh Hiện Nay
Thực hiện chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, những năm qua, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt một tầm cao mới. Nguồn: internet
Chủ động đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện
Trong hơn 30 năm đổi mới, các chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) được đề cập tại nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng và Nhà nước, cụ thể tại Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế (trong đó xác định HNKTQT là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế) và Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình HNKTQT, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và ban hành các chương trình, hành động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc thù của từng bộ, ngành, địa phương và được triển khai rộng rãi với nhiều hình thức phong phú; Tăng cường thực thi hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết, góp phần đưa kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.
Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, công tác HNKTQT của Việt Nam đang phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa bảo hộ ngày càng nổi lên rõ nét hơn. Mất cân đối thương mại toàn cầu vẫn chưa được cải thiện, làm gia tăng xung đột thương mại, cạnh tranh chiến lược và cọ sát kinh tế, đặc biệt giữa các nền kinh tế chủ chốt… Mặc dù, tình hình kinh tế thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì chủ trương HNKTQT toàn diện với trọng tâm là HNKTQT, coi HNKTQT và tự do hóa thương mại là xu thế tất yếu khách quan. Một số thành tựu của tiến trình HNKTQT toàn diện của Việt Nam gồm:
Một là, HNKTQT đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) ngày càng phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.
Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có triển vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tạo môi trường, động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Quy mô kinh tế Việt Nam năm 2019 dự báo đạt 5,5 triệu tỷ đồng, tương đương 240,5 tỷ USD, gấp trên 1,3 lần so với năm 2015, hiện đứng thứ 44 trên thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 34 theo sức mua tương đương.
Hai là, HNKTQT tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH. GDP bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018), khoảng 7.650 USD theo sức mua tương đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tăng trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Tuy nhiên, 4 năm sau đó, do ảnh hưởng từ những biến động của kinh tế thế giới, nên tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 – 2013 giảm xuống còn 5,6%. Đáng chú ý những năm tiếp theo, kinh tế khởi sắc hơn. Cụ thể, năm 2014 đạt 5,98%, năm 2015 đạt 6,68%; 2016 đạt 6,1%, năm 2017 GDP đạt 6,81%, năm 2018 đạt 7%, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 240 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 2.540 USD, mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (2008-2018).
Ba là, HNKTQT thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK), mở rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia XNK. Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng XNK, thậm chí là xuất siêu. Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên của WTO, Việt Nam đã được 71 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ…
Bốn là, HNKTQT sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới (gồm 12 FTA đã ký và đang thực thi; 2 Hiệp định đã ký kết, 4 FTA đang đàm phán bảo đảm cho kết nối thương mại tư do, ưu đãi cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam); đồng thời, tạo động lực mới và cả “sức ép” mới để thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thông thoáng hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới.
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển đánh giá, Việt Nam nằm trong 12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp (DN) FDI đang hoạt động ở Việt Nam, với số vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam trong giai đoạn 2018-2020. Việt Nam từng bước trở thành một trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt may, da giầy, điện thoại di động…
Một số vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, tiến trình HNKTQT của Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn. Cụ thể như:
– Chính sách, pháp luật về HNKTQT còn thiếu và chưa đồng bộ. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về HNKTQT chưa nghiêm và quyết liệt. Trình độ năng lực điều hành, quản lý kinh tế của DN trong nước còn yếu kém. Hạn chế đó tác động tiêu cực tới việc làm tăng nguồn lực cho phát triển KT-XH đất nước.
– Chiến lược HNKTQT chưa toàn diện, dẫn đến chưa tận dụng được hết lợi ích của HNKTQT trong thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH đất nước. Trong một số trường hợp, HNKTQT còn bị động, chưa phù hợp với thực trạng phát triển đất nước, chưa phát huy được đầy đủ các hiệu quả và lợi ích của hội nhập mang lại.
– Trong nền kinh tế còn tồn tại một số hạn chế nội tại như: Cân đối vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế chưa vững chắc; Môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện; Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc; Tình hình sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn; Số lượng DN giải thể, ngừng hoạt động lớn; Năng lực tài chính, quản trị của phần lớn DN trong nước còn hạn chế…
– Một bộ phận đầu mối về HNKTQT tại một số bộ, ban, ngành và địa phương còn chưa chú trọng đến khâu phối hợp và tham vấn với các chương trình hành động về HNKTQT. Chính vì vậy, việc triển khai công tác HNKTQT chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế
Mặc dù, tiến trình HNKTQT đã đạt được những kết quả tích cực, song trong bối cảnh thế giới diễn biến khó lường như hiện nay, Việt Nam cần chủ động triển khai HNKTQT lên mức toàn diện, sâu rộng, đổi mới sáng tạo và hiệu quả hơn. Trước mắt, cần chú trọng vào một số nội dung trọng tâm sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và chỉ có thể thành công khi có sự tham gia hưởng ứng của các DN và người dân. Do vậy, cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành cần quyết liệt vào cuộc, để tiếp tục đẩy mạnh HNKTQT trên tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 và các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch công tác hội nhập của Chính phủ.
Thứ hai, cùng với đẩy mạnh các hoạt động thương mại, đầu tư, Việt Nam cần nâng cao năng lực phòng chống, giải quyết, xử lý các tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về thương mại, đầu tư quốc tế, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ luật sư, cán bộ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và DN.
Thứ ba, nhận diện các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới, từ đó có điều chỉnh đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển, tận dụng triệt để những cơ hội mới mở ra. Tại phiên họp thứ nhất năm 2019 (tháng 6/2019), Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế đã đề nghị: Các bộ, ngành, địa phương cần coi trọng, tăng cường nghiên cứu, đánh giá, dự báo các vấn đề mới của HNKTQT tác động tới Việt Nam…
Thứ tư, cần nắm bắt cơ hội và nhận diện rõ những thách thức của các FTA để có hội nhập phù hợp song không để bị lệ thuộc và bị cuốn theo các trào lưu ngắn hạn, các xu hướng loại trừ và hình thành những liên kết khép kín trong làn sóng FTA.
Thứ năm, thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và hiện đại vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu của hội nhập. Để có được điều này cần có những chính sách củng cố quyền sở hữu nhằm thúc đẩy đầu tư dài hạn; thực hiện hiệu quả cải cách hành chính công nhằm tăng tính minh bạch, giảm quan liêu và hạ chi phí giao dịch vốn có ảnh hưởng không nhỏ đến các DN nhỏ và vừa.
Thứ sáu, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, của DN trong công tác HNKTQT. Dư địa phát triển lớn nhất nằm ngay trong sự nỗ lực không ngừng, sức sáng tạo của mỗi DN, mỗi người dân. Địa phương, DN là chủ thể trung tâm của hội nhập, phải được thụ hưởng thành quả của hội nhập. DN, người dân phải chủ động hơn, thực thi đầy đủ, nghiêm túc các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về hội nhập, không để tình trạng vi phạm quy định pháp luật tiếp diễn, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
1. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; 2. Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030; 3. Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 23/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; 4. Quyết định số 27/QĐ-BCĐHNQT ngày 26/4/2014 của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; 5. Quyết định số 04/QĐ-BCĐLNKT ngày 09/1/2015 của Ban Chỉ đạo liên ngành kinh tế ban hành Quy chế tổ chức, hoạt động của Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế; 6. Vũ Văn Hiền (2018), Đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, Hội đồng Lý luận Trung ương; 7. Thanh Giang (2019), Hội nghị tăng cường hội nhập quốc tế chủ động, sáng tạo, hiệu quả vì phát triển nhanh và bền vững, Báo Nhân dân diện tử; 8. Lê Hoài Trung (2019), Đối ngoại đa phương góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước; 9. Hoàng Xuân Hòa (2019), Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn lại, Văn phòng Chính phủ.
Chức Năng Quản Lý Văn Hóa, Giáo Dục Của Nhà Nước Việt Nam Giai Đoạn Hội Nhập Quốc Tế
Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.
Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
Tóm tắt: Chức năng quản lý văn hóa, giáo dục là chức năng rất quan trọng, có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến hầu hết các hoạt động của Nhà nước Việt Nam và nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa, xã hội. Mặt khác, văn hóa, giáo dục luôn là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, vì vậy, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế luôn cần phải có sự xem xét để điều chỉnh kịp thời. Abstract: Cultural, educational management function is a very important function which directly affects and impacts on most of the activities of the Vietnamese State and different fields of the life, culture and society. On the other hand, the culture, education have been always sensitive and complicated fields. Therefore, the form and method of implementation of management function of culture, education in the phase of international integration, should always be reviewed for timely adjustment.
Trong giai đoạn bùng nổ của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, dưới tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của các nền văn hóa, giáo dục đến từ các quốc gia khác nhau, chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam đang gặp những khó khăn, thách thức. Để quản lý nền văn hóa, giáo dục của Việt Nam phù hợp và thích ứng với các biến động của xu thế hội nhập, đòi hỏi chức năng quản lý văn hóa, giáo dục phải đổi mới về hình thức và cả phương pháp thực hiện. Tuy nhiên, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay như thế nào, hiệu quả mang lại trên thực tế ra sao là những vấn đề rất cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu. Trên cơ sở này, tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
1. Các hình thức chủ yếu thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế
Hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế bao gồm hai nội dung chính đó là: Hình thức mang tính pháp lý và hình thức không mang tính pháp lý.
Thứ nhất, Nhà nước xây dựng chính sách pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế
Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục là hoạt động tổ chức mang tính bắt buộc của Nhà nước. Bên cạnh Nhà nước là người trực tiếp thực hiện, còn có sự trợ giúp của cả xã hội nhằm đưa các quy phạm pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục vào thực tiễn đời sống xã hội. Các công việc chủ yếu của nội dung hoạt động tổ chức này gồm: Tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục; tạo mọi điều kiện cần thiết để thi hành chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục[1]…
Hoạt động này bao gồm hai nội dung chính, đó là kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục và công tác xử lý các vi phạm chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục. Đối với từng công tác đều có những yêu cầu và nhiệm vụ riêng: – Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục và bảo vệ chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục là những hình thức hoạt động đặc trưng của Nhà nước. Hoạt động này được tiến hành nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục được đúng với tinh thần và mục tiêu do Nhà nước đề ra. Mục đích của hoạt động này là nhằm phát hiện nhanh chóng các sai lầm, thiếu sót để kịp thời khắc phục, xử lý[2]. – Công tác xử lý các vi phạm chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục cũng đang được tiến hành khẩn trương, liên tục. Trên thực tế, đã phát hiện nhiều vi phạm như hành vi ăn cắp bản quyền tác giả trong nhiều lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh, nghệ thuật… Về cơ bản, chúng ta đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn và áp dụng những chế tài xử lý thích đáng nhằm xử lý những hành vi này. Mặc dù vậy, trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật vẫn có xu hướng gia tăng.
Bên cạnh việc áp dụng chính thức các hình thức pháp lý thì Nhà nước cũng luôn tiến hành song song các hình thức không mang tính pháp lý khác. Các hình thức không mang tính pháp lý này bao gồm tổ chức hội thảo khoa học về văn hóa, giáo dục; hội nghị thi đua ngành văn hóa, giáo dục; hội nghị triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục; hay hội nghị tổng kết hoạt động các phong trào văn hóa, giáo dục… Nhìn chung, các hình thức này rất cần thiết để có thể nhanh chóng đưa các chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục vào đời sống và cũng có thể thông qua những buổi hội thảo hay phong trào này, từ đó, rút ra những sáng kiến kinh nghiệm quý giá, để có thể hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục.
2. Các phương pháp chung thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế
Các chức năng của Nhà nước được thực hiện thông qua các phương pháp hoạt động nhất định của bộ máy nhà nước[3]. Phương pháp thực hiện chức năng của Nhà nước là những biện pháp, cách thức mà Nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý các lĩnh vực quan hệ xã hội. Phương pháp thực hiện chức năng do yêu cầu, mục tiêu chức năng của Nhà nước quyết định. Nói cách khác, tùy theo yêu cầu, mục tiêu, nội dung chức năng của Nhà nước mà có những cách thức thực hiện phù hợp. Trong lĩnh vực quản lý văn hóa, giáo dục, Nhà nước thường sử dụng phương pháp giáo dục – thuyết phục và phương pháp cưỡng chế. Hai phương pháp này luôn được Nhà nước sử dụng và kết hợp chặt chẽ với nhau.
Trong nhà nước dân chủ thì phương pháp cưỡng chế vốn không được xem là phương pháp đặc trưng. Tuy nhiên, hiện nay, do ảnh hưởng của hội nhập quốc tế nên xã hội Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng du nhập văn hóa lai căng, hay từ những sản phẩm độc hại cho tâm hồn và nhân cách con người hoặc những biểu hiện lạc hậu, bất cập, xa rời thực tế của hệ thống giáo dục đào tạo. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực quản lý văn hóa, giáo dục còn tồn tại khá nhiều chủ thể thường xuyên tìm cách vượt rào, trốn tránh sự quản lý của Nhà nước với âm mưu, thủ đoạn và cách thức tinh vi hơn trước. Bởi vậy, để có thể quản lý lĩnh vực văn hóa, giáo dục thì tùy từng trường hợp, Nhà nước sẽ phải sử dụng cả phương pháp cưỡng chế. Mặc dù vậy, Nhà nước và cả xã hội cùng cố gắng sử dụng sức mạnh của mình nhằm duy trì các hoạt động quản lý văn hóa, giáo dục sao cho các hoạt động này không vượt ra khỏi hành lang của cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì đó cũng có thể được quan niệm là sự cưỡng chế. Nói cách khác, cưỡng chế không nhất thiết phải là trừng trị, loại bỏ đối tượng. Đây thật sự là một cuộc “đấu tranh” đầy thử thách nhằm thiết lập, duy trì trật tự trên các lĩnh vực xã hội nói chung và hoạt động quản lý văn hóa, giáo dục nói riêng. Duy trì trật tự xã hội để cân bằng các xu hướng hoạt động và nhiều loại lợi ích khác nhau, đảm bảo lợi ích chung (lợi ích mà các cá nhân, nhóm xã hội chấp nhận) đó cũng chính là cưỡng chế của Nhà nước4. Một trong những đặc trưng của phương pháp cưỡng chế nhà nước đối với lĩnh vực quản lý văn hóa, giáo dục là thường xuyên quy định những hành vi nhất định bị cấm đoán. Đây là biểu hiện đặc trưng của việc sử dụng phương pháp cưỡng chế nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay. Do sự tác động của hội nhập quốc tế và biến đổi của xã hội, phương pháp cưỡng chế cũng có sự thay đổi. Phương pháp cưỡng chế có thể áp dụng rộng rãi các hình thức chế tài “đánh” vào lợi ích vật chất của người vi phạm. Điều này thích hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường khi mà lợi ích kinh tế luôn được các chủ thể tham gia chú trọng. Đây cũng là sự mềm dẻo hơn trong việc quản lý văn hóa, giáo dục. Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả công tác quản lý lĩnh vực văn hóa, giáo dục thì bên cạnh việc sử dụng chủ yếu phương pháp thuyết phục – giáo dục và phương pháp cưỡng chế, Nhà nước còn sử dụng thêm các phương pháp khác như: Phương pháp tổ chức trực tiếp, tham gia, can thiệp vào những hoạt động cụ thể nào đó để đảm bảo mục tiêu chung của Nhà nước. Nhà nước cũng có thể hỗ trợ trực tiếp, kích thích hay kiềm chế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ để đảm bảo cho hoạt động nào đó được diễn ra bình thường nhằm đảm bảo ổn định nền kinh tế, xã hội[5]…
Một trong những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài về phát triển văn hóa, giáo dục chính là: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước”[6]. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu trên thì hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế cần thiết phải được hoàn thiện theo hướng:
Thứ nhất, về hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế
Thực tế cho thấy, hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước còn khá nhiều bất cập. Trước hết, hệ thống pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam hiện nay, được hình thành và kế thừa từ các giai đoạn phát triển trước đây. Bởi vậy, phần lớn văn bản quy phạm pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam hiện nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu và không phù hợp với sự phát triển của môi trường văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Mặt khác, việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục còn khá chậm chạp và chưa phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, để hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục có thể hoạt động hiệu quả hơn thì Nhà nước nên nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm xây dựng pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục từ các quốc gia có nền văn hóa, giáo dục và khoa học pháp lý tiên tiến, hiện đại. Trong đó, nên chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu các quốc gia có điều kiện khá tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Sin-ga-po. Mặt khác, cần phải chú trọng việc nghiên cứu truyền thống, bản sắc văn hóa lâu đời tại Việt Nam, để từ đó có phương hướng tiếp tục bảo tồn, phát huy những di sản văn hóa quan trọng này. Trong suốt quá trình xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục cần có sự tham gia góp ý của các chuyên gia văn hóa, giáo dục và chuyên gia pháp lý trong và ngoài nước. Đối với dự thảo các văn bản pháp luật có quy mô lớn về quản lý văn hóa, giáo dục thì trước và trong suốt quá trình xây dựng, Nhà nước nên tổ chức trưng cầu dân ý để lấy ý kiến góp ý từ tất cả tầng lớp nhân dân. Có như vậy, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam mới thực sự đổi mới và phù hợp với các điều kiện và hoàn cảnh của giai đoạn hội nhập quốc tế.
Để có thể đạt hiệu quả tốt trong việc thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục thì đòi hỏi Nhà nước phải kết hợp sử dụng hợp lý, khoa học giữa phương pháp giáo dục – thuyết phục và phương pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, theo tác giả, sẽ là hiệu quả tốt hơn khi Nhà nước chú trọng khai thác sử dụng nhiều hơn phương pháp cưỡng chế. Theo đó, phương pháp cưỡng chế nên xây dựng theo hướng tăng cường mạnh mẽ chế tài xử lý các vi phạm trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục. Chúng ta có thể kết hợp các chế tài xử phạt kinh tế với chế tài hình sự để trừng trị nghiêm khắc những chủ thể cố tình vi phạm. Sở dĩ như vậy là vì không thể chỉ dựa vào việc động viên, thuyết phục hay sử dụng lợi ích để tác động đến các chủ thể cố tình chống đối, cản trở hoặc bất hợp tác với cơ quan nhà nước. Trên thực tế, tình trạng “nhờn” luật đang diễn ra khá phổ biến. Chính vì thế, cần phải nghiêm khắc trừng phạt các chủ thể vi phạm, để qua đó còn làm gương cho các chủ thể khác. Về lâu dài, khi ý thức tuân thủ pháp luật của người dân tốt hơn thì mới có thể giảm dần phương pháp này. Hiện nay, dưới tác động của hội nhập văn hóa, giáo dục và khi đời sống ngày càng được cải thiện thì các vấn đề văn hóa, giáo dục càng được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm. Bởi, đây đều là các nhu cầu cấp thiết của xã hội hiện đại. Vì thế, chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước cũng cần có sự đổi mới về tư duy quản lý để kịp thời điều tiết nền văn hóa, giáo dục phát triển tiên tiến, hiện đại nhưng vẫn đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
[1]. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa – giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 28.
[2]. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa – giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, sđd, tr. 29.
[3]. Nguyễn Văn Động (2010), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, tr. 44.
[4]. Nguyễn Văn Động (chủ biên), Chức năng văn hóa – giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008, tr. 88.
[5]. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa – giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, sđd, tr. 32 – 33.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Hà Nội, tr. 21 – 22.
Cập nhật thông tin chi tiết về Đổi Mới Giáo Dục Đại Học Theo Hướng Hội Nhập Quốc Tế Ở Nước Ta Hiện Nay trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!