Bạn đang xem bài viết Điều Lệ Hội Lhpn Việt Nam (Bổ Sung, Sửa Đổi) được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn phụ nữ Dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.
Từ những tổ chức tiền thân cho đến ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1. Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước.
2. Đoàn kết, vận động phụ nữthực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
1. Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
2. Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ;
4. Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
5. Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Phụ nữ Việt Nam từ 18 tuổi trở lên; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nơi làm việc, nơi cư trú; tán thành Điều lệ Hội và tự nguyện tham gia tổ chức Hội thì được công nhận là hội viên.
1. Hội viên là nữ cán bộ, công chức, viên chức và công nhân lao động là lực lượng nòng cốt trong phong trào phụ nữ. Nữ cán bộ, công chức, viên chức và công nhân lao động đang sinh hoạt trong tổ chức Công đoàn là hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; việc thực hiện Nghị quyết và Điều lệ Hội đối với hội viên là đoàn viên Công đoàn do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định.
2. Hội viên là nữ thanh niên là lực lượng xung kích trong phong trào phụ nữ. Việc thực hiện Nghị quyết và Điều lệ Hội đối với hội viên là nữ thanh niên do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quy định
1. Phụ nữ trong các lực lượng vũ trang là hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
2. Hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức phụ nữ trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam quy định
2. Được Hội hướng dẫn, giúp đỡ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
3. Được ứng cử, đề cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Hội theo quy định.
2. Chấp hành Điều lệ Hội, tích cực tham gia sinh hoạt và các hoạt động Hội, đóng hội phí theo quy định của Điều lệ.
3. Học tập nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, giữ gìn uy tín và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.
4. Đoàn kết, giúp nhau trong công tác, học tập, lao động, đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, phấn đấu thực hiện bình đẳng giới.
1. Các tổ chức phụ nữ Việt Nam hợp pháp ở trong nước, tán thành Điều lệ Hội và tự nguyện gia nhập Hội thì được công nhận là tổ chức thành viên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Việc công nhận tổ chức thành viên do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội quy định.
2. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức thành viên:
a. Thực hiện Điều lệ, Nghị quyết của Hội phù hợp với tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức.
b. Được cử đại diện tham gia ứng cử vào cơ quan lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
c. Được đề nghị Hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động.
Cơ quan lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp do bầu cử lập ra, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam gồm 4 cấp:
b. Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương (gọi chung là cấp tỉnh);
c. Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương (gọi chung là cấp huyện);
d. Xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi chung là cấp cơ sở).
2. Cơ quan chuyên trách Hội cấp Trung ương, tỉnh, huyện là cơ quan tham mưu giúp việc cho Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp.
1. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc.
2. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội toàn thể hội viên của cấp đó.
3. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo mỗi cấp Hội là Ban Chấp hành cùng cấp.
4. Giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành, cơ quan lãnh đạo là Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp.
1. Đại hội các cấp được tổ chức năm năm một lần. Trường hợp đặc biệt do Hội cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định theo quy định.
2. Đại hội chỉ hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu được triệu tập tham dự.
3. Thành phần, số lượng đại biểu đại hội cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó quyết định và triệu tập. Thành phần đại biểu chính thức của đại hội mỗi cấp gồm:
b. Đại biểu do đại hội cấp dưới trực tiếp bầu hoặc từ chi hội (đối với đại hội cấp cơ sở);
c. Đại biểu chỉ định: số lượng không quá 10% tổng số đại biểu do Ban Chấp hành cấp triệu tập quyết định.
4. Nhiệm vụ của Đại hội cấp cơ sở, cấp huyện và cấp tỉnh:
a. Đánh giá phong trào phụ nữ; kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết đại hội; quyết định phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ tới;
c. Quyết định số lượng, cơ cấu, nhân sự và bầu Ban Chấp hành đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định;
d. Bầu đại biểu dự đại hội cấp trên trực tiếp.
b. Quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội;
c. Quyết định số lượng, cơ cấu, nhân sự và bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định.
1. Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó bầu rađảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định.
2. Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ được bầu trong số ủy viên Ban Chấp hành cấp đó. Số lượng, cơ cấu, thành phầnĐoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó quyết định. Số lượng uỷ viên Đoàn Chủ tịch không quá 1/5, uỷ viên Ban Thường vụ không quá 1/3 tổng số uỷ viên Ban Chấp hành cùng cấp.
3. Chủ tịch, các Phó Chủ tịch được bầu trong số uỷ viên Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ.
4. Hội nghị Ban Chấp hành chỉ hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu được triệu tập tham dự.
1. Ban Chấp hành được quyền bầu bổ sung ủy viên Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch khi chưa đủ số lượng đã được quyết định tại Đại hội.
2. Uỷ viên Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch của Hội các cấp đã nghỉ hưu hoặc thay đổi công tác mà không thuộc thành phần cơ cấu đượcthôi tham gia Ban Chấp hành.
3. Khi cần thiết, Ban Chấp hành các cấp được quyền bầu bổ sung thêm uỷ viên Ban Chấp hành ngoài số lượng đại hội đã quyết định (cấp Trung ương không quá 5%, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở không quá 10%).
1. Hình thức bầu cử: biểu quyết giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Chọn hình thức nào do đại hội hoặc hội nghị Ban Chấp hành cùng cấp quyết định.
2. Người trúng cử phải được trên 50% số đại biểu được triệu tập bầu, tính theo tỷ lệ phiếu bầu từ cao xuống thấp.
1. Khi có thay đổi về địa giới hành chính hoặc khi có sự sắp xếp lại về tổ chức bộ máy, Hội cấp trên trực tiếp được quyền chỉ định Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch của Hội cấp dưới theo quy định.
2. Nhiệm kỳ của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch được chỉ định không nhất thiết đủ năm năm.
1. Ban Chấp hành Trung ương Hội có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Ban hành Nghị quyết, Quyết định, chương trình, kế hoạch của Hội nhằm vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc;
b. Lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kiểm tra việc chấp hành Nghị quyết, Điều lệ Hội;
d. Đại diện cho Hội Liên hiệp Phụ nữ, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam trong hệ thống chính trị, trong quan hệ với các tổ chức khác trong nước và quốc tế;
đ. Bầu Đoàn Chủ tịch trong số ủy viên Ban Chấp hành, bầu Chủ tịch và các Phó Chủ tịch trong số các ủy viên Đoàn Chủ tịch;
e. Ban Chấp hành họp mỗi năm một lần, khi cần có thể họp bất thường.
2. Đoàn Chủ tịch có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Hội; triệu tập và chuẩn bị nội dung hội nghị Ban Chấp hành.
b. Quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể tổ chức Hội cấp dưới trực tiếp và một số vấn đề thuộc tổ chức Hội theo quy định.
c. Đoàn Chủ tịch họp sáu tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
3. Thường trực Đoàn Chủ tịch (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch) có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành công việc giữa hai kỳ họp Đoàn Chủ tịch và xử lý công việc hàng ngày của cơ quan Trung ương Hội;
b. Chuẩn bị các nội dung hội nghị Đoàn Chủ tịch;
c. Lãnh đạo, quản lý toàn diện cơ quan chuyên trách Trung ương Hội; quyết định thành lập, giải thể các ban hoặc đơn vị chuyên môn, tổ công tác, hội đồng tư vấn của cơ quan Trung ương Hội theo quy định; được sử dụng con dấu của Ban Chấp hành trong điều hành hoạt động của cơ quan Trung ương Hội.
1. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Ban hành Nghị quyết, chương trình, kế hoạch nhằm vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ cùng cấp và cấp trên;
b.Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kiểm tra việc chấp hành Nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ cùng cấp và cấp trên;
d. Bầu Ban Thường vụ trong số ủy viên Ban Chấp hành cùng cấp; bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch trong số ủy viên Ban Thường vụ cùng cấp;
đ. Ban Chấp hành họp sáu tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
2. Ban Thường vụ có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Hội cấp trên và cùng cấp; triệu tập và chuẩn bị nội dung hội nghị Ban Chấp hành;
b. Quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể tổ chức Hội cấp dưới trực tiếp và một số vấn đề thuộc tổ chức Hội cùng cấp theo quy định;
c. Ban Thường vụ họp ba tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
3. Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch) có nhiệm vụ:
a. Thay mặt Ban Thường vụ điều hành công việc giữa hai kỳ họp Ban Thường vụ; xử lý các công việc hàng ngày của cơ quan chuyên trách Hội cùng cấp;
b. Chuẩn bị các nội dung họp Ban Thường vụ;
c. Lãnh đạo, quản lý cơ quan chuyên trách Hội cấp mình; quyết định thành lập, giải thể các ban, đơn vị chuyên môn, tổ công tác, hội đồng tư vấn thuộc cơ quan chuyên trách Hội cùng cấp theo quy định;được sử dụng con dấu Ban Chấp hành trong điều hành hoạt động cơ quan chuyên trách cùng cấp.
1. Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở là nền tảng của tổ chức Hội.
2. Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở quyết định thành lậpcác chi hội; dưới chi hội có thể thành lập tổ phụ nữ. Chi hội, tổ phụ nữ sinh hoạt ít nhấtba tháng một lần.
1. Ban Chấp hành có nhiệm vụ và quyền hạn:
a.Nắm tình hình đời sống, tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của hội viên, phụ nữ, phản ánh, đề xuất với cấp uỷ, chính quyền địa phương, Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp trên;
b. Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Hội, nghị quyết đại hội, nghị quyết Ban Chấp hành Hội cùng cấp và Hội cấp trên;
c. Tham gia góp ý xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch, đề án và giám sát việc thực hiện; phát hiện, có biện pháp giải quyết kịp thời khi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ bị vi phạm;
d. Công nhận hội viên; tuyên truyền, vận động và tổ chức cho hội viên thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của hội viên theo quy định Điều lệ;
đ. Bầu Ban Thường vụ trong số ủy viên Ban Chấp hành cùng cấp; bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch trong số ủy viên Ban Thường vụ cùng cấp.
e. Ban Chấp hành họp ba tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
2. Ban Thường vụ có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Chỉ đạo tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành; triệu tập và chuẩn bị nội dung họp Ban Chấp hành;
b. Quản lý, phát triển hội viên; xây dựng, quản lý quỹ hội; thu, chi, trích nộp hội phí và sử dụng các nguồn thu đảm bảo đúng quy định của pháp luật và quy định của tổ chức Hội;
c. Ban Thường vụ họp một tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
1. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện công tác kiểm tra của cấp mình và cấp dưới.
2. Đối tượng kiểm tra: tổ chức Hội, cán bộ Hội và hội viên.
a. Kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Hội, việc thực hiện Nghị quyết và các quy định của tổ chức Hội các cấp.
b. Giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý.
c. Kiểm tra việc thực hiện, quản lý hội phí, quỹ hội và các nguồn thu khác theo quy định.
1. Đối tượng khen thưởng: cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ, tổ chức Hội và những tập thể, cá nhân khác có nhiều thành tích đóng góp cho công tác phụ nữ được Hội xét khen thưởng hoặc đề nghị Nhà nước khen thưởng.
2. Hình thức khen thưởng của Hội gồm: kỷ niệm chương, cờ thi đua, giải thưởng, bằng khen, giấy khen và các hình thức công nhận khác.
1. Cán bộ Hội, hội viên, tổ chức thuộc Hội vi phạm Điều lệ Hội, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ chịu hình thức kỷ luật của Hội.
a. Đối với tổ chức thuộc Hội: khiển trách, cảnh cáo, giải thể;
b. Đối với cán bộ Hội: khiển trách, cảnh cáo, cách chức hoặc thôi đảmnhiệm chức danh (đối với cán bộ Hội không phải là cán bộ, công chức);
c. Đối với hội viên: khiển trách, cảnh cáo, thôi công nhận hội viên.
2. Việc quản lý, sử dụng tài chính của Hội phải tuân theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội.
1. Cán bộ Hội, hội viên, tổ chức Hội các cấp và các tổ chức thành viên có trách nhiệm chấp hành Điều lệ Hội.
2. Chỉ Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc mới có quyền sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Hội có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Điều lệ Hội.
Điều Lệ (Sửa Đổi, Bổ Sung) Hội Khoa Học Kỹ Thuật Lạnh Và Điều Hòa Không Khí Việt Nam
Điều 1. Tên gọi 1. Tên tiếng Việt: Hội Khoa học Kỹ thuật Lạnh và Điều hòa Không khí Việt Nam Gọi tắt là: Hội Lạnh và ĐHKK Việt Nam 2. Tên giao dịch quốc tế: VIETNAM SOCIETY OF REFRIGERATION AND
AIR-CONDITIONING ENGINEERS. (Viết tắt là: VISRAE)
3. Biểu tượng/ Logo:
Biểu tượng này được đăng ký bản quyền theo quy định của pháp luật.
Hội Khoa học Kỹ thuật Lạnh và Điều hòa Không khí Việt Nam (sau đây gọi tắt là Hội) là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của những công dân Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực Lạnh và Điều hoà Không khí cũng như kỹ thuật không khí (Phòng sạch, phòng nhiệt áp, hoá lỏng và tách khí…).
Mục đích của Hội là giúp đỡ những cá nhân và tổ chức ở các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trong lĩnh vực Lạnh, Điều hoà không khí và Kỹ thuật không khí góp phần phát triển ngành chuyên môn Lạnh, Điều hoà Không khí và Kỹ thuật không khí ở Việt Nam, phục vụ thiết thực cho đời sống, sản xuất, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hội Khoa học Kỹ thuật Lạnh và Điều hòa Không khí Việt Nam là tổ chức xã hội tự nguyện của những công dân Việt Nam ở trong và ngoài nước làm công tác đào tạo, nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất, xây lắp, kinh doanh… chuyên ngành lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí.
Điều 6. Mối quan hệ của Hội
Hội Khoa học Kỹ thuật Lạnh và Điều hòa Không khí Việt Nam là Hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
Trụ sở chính của Hội đặt tại thủ đô Hà nội. Hội được mở văn phòng đại diện tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của pháp luật.
Hội có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo phương thức tự trang trải. Hội có cơ quan ngôn luận hoạt động theo quy định của pháp luật.
1. Tập hợp, đoàn kết những cá nhân và đơn vị chuyên ngành lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí, để: a) Động viên tinh thần sáng tạo của hội viên, góp phần thúc đẩy phát triển ngành; b) Phổ biến các kiến thức khoa học, kỹ thuật lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí cho quần chúng;
c) Nâng cao kiến thức và tay nghề cho hội viên và quần chúng qua các khoá đào tạo ngắn hạn và dài hạn; d) Hỗ trợ việc đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí vào sản xuất và đời sống; đ) Tư vấn, phản biện, giám định xã hội về khoa học kỹ thuật, công nghệ và kinh tế thuộc chuyên ngành lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí cho các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước và các thành phần kinh tế;
g) Tổ chức hội thảo trong nước và quốc tế để có thể đề đạt và kiến nghị với Đảng, Nhà nước và các cấp lãnh đạo về phương hướng xây dựng, phát triển, ứng dụng khoa học kỹ thuật lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí vào thực tế ở nước ta.
2. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên trong hoạt động khoa học. Giúp đỡ hội viên về tinh thần và vật chất, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chuyên môn bằng các hình thức thích hợp, bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên.
2. Tham gia các hoạt động nghiên cứu, dịch vụ khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực chuyên môn của Hội.
3. Tổ chức xuất bản tạp chí, website và các ấn phẩm thuộc chuyên ngành lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí và về hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật
1. Công dân Việt Nam các tổ chức của Việt Nam đang hoạt động trong lĩnh vực lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện gia nhập Hội, hoạt dộng cho Hội đều có thể được kết nạp làm Hội viên chính thức của Hội.
2. Công dân và các tổ chức Việt Nam không có điều kiện hoặc không có đủ tiêu chuẩn trở thành hội viên chính thức của hội, có đóng góp cho sự phát triển của Hội, tán thành Điều lệ hội, được xem xét, công nhận là Hội viên liên kết.
Điều 11. Hội viên có nhiệm vụ 1. Tôn trọng và chấp hành Điều lệ Hội, thi hành nghiêm chỉnh các chủ trương nghị quyết của Hội, tích cực hoạt động cho Hội. 2. Tuyên truyền phát triển hội viên mới, tham gia sinh hoạt Hội, mở rộng ảnh hưởng và uy tín của Hội, vận động quần chúng hưởng ứng hoạt động của Hội. 3. Tích cực học tập và giúp đỡ hội viên khác học tập để không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, góp phần xây dựng và phát triển chuyên ngành lạnh, điều hoà không khí và kỹ thuật không khí ở Việt Nam. 4. Đóng hội phí đầy đủ theo quy định của Điều lệ Hội.
5. Hội viên liên kết có các quyền như trên, trừ quyền ứng cử, đề cử, bầu cử vào Ban lãnh đạo, Ban Kiểm tra hội và biểu quyết các công việc của Hội
Ban chấp hành Trung ương Hội quy định cụ thể về thủ tục kết nạp hội viên theo quy định của Điều lệ Hội và phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 14. Cơ cấu tổ chức của Hội 1. Ở Trung ương: Đại hội, Ban lãnh đạo (Ban chấp hành, Ban Thường vụ) và Ban Kiểm tra. 2. Các Tổ chức Hội cơ sở. Việc thành lập các Tổ chức hội cơ sở thực hiện theo quy định của pháp luật.
1.Đại hội là Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội. Nhiệm kỳ của Đại hội là 5 năm.
2.Đại hội nhiệm kỳ hoặc Đại hội bất thường được tổ chức dưới hình thức Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu, Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu chỉ được tổ chức khi có trên 1/2 (một phần hai) số hội viên chính thức hoặc có trên 1/2 (một phần hai) số đại biểu chính thức có mặt.
3. Đại hội bất thường được triệu tập khi ít nhất có 2/3 (hai phần ba) tổng số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội hoặc có ít nhất 1/2 (một phần hai) tổng số hội viên chính thức đề nghị.
4. Nội dung chính của Đại hội:
a. Thông qua báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Hội, quyết định phương hướng hoạt động, nhiệm vụ và chương trình công tác của Hội. b. Bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội, Ban Kiểm tra Hội; c. Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội; quyết định việc giải thể Hội (nếu có) d. Quyết định khen thưởng, kỷ luật; e. Nghị quyết của Đại hội có giá trị khi được trên 1/2 (một phần hai) số đại biểu chính thức có mặt tán thành.
Ban chấp hành Trung ương Hội (gọi tắt là Ban chấp hành) bầu ra Ban Thường vụ, gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, các uỷ viên Thường vụ. Ban chấp hành Trung ương Hội có thể bầu bổ sung các ủy viên Van chấp hành nhưng số lượng không vượt quá 1/3 tổng số ủy viên Ban chấp hành đã được Đại hội quyết định.
Ban Chấp hành Hội họp thường lệ mỗi năm một lần do Ban Thường vụ triệu tập và có thể họp bất thường khi Ban Thường vụ xét thấy cần thiết hoặc khi có đa số ủy viên Ban chấp hành Hội yêu cầu.
Ban chấp hành Hội có nhiệm vụ thi hành và triển khai các nghị quyết của Đại hội và lãnh đạo toàn bộ công tác của Hội giữa hai kỳ Đại hội.
Ban Thường vụ Hội là cơ quan thường trực của Ban chấp hành Trung ương Hội, họp thường lệ 6 tháng một lần, có nhiệm vụ chỉ đạo các hoạt động của Hội giữa hai kỳ họp Ban chấp hành Trung ương Hội.
Cơ quan giúp việc thường xuyên cho Ban thường vụ là Ban Thư ký, gồm: Tổng thư ký và các ủy viên thư ký do Tổng thư ký đề cử, được Ban Thường vụ thông qua. Ban Thư ký điều hành công việc hàng ngày của Hội.
Tuỳ theo nhu cầu và tình hình phát triển của Hội và căn cứ vào các quy định của pháp luật, Ban Thường vụ có thể ra quyết định thành lập các ban chuyên môn, các tổ chức trực thuộc Hội (nghiệp vụ hay kinh tế).
Ban Kiểm tra Trung ương Hội do Đại hội bầu. Ban Kiểm tra có nhiệm vụ: 1. Kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đại hội, Ban chấp hành Trung ương Hội, Ban Thường vụ; kiểm tra hoạt động của các cấp hội, hội viên, các tổ chức trực thuộc Hội. 2. Kiểm tra việc thực hiện Điều lệ, Quy chế và các chương trình công tác của Hội. 3. Kiểm tra tài chính và các hoạt động kinh tế của Hội. 4. Đề nghị khen thưởng, kỷ luật. Ban kiểm tra Trung ương Hội họp thường lệ mỗi năm một lần, có thể họp bất thường theo yêu cầu của Chủ tịch Hội hoặc Trưởng Ban kiểm tra Hội.
Tài chính của Hội được dùng cho các hoạt động của Hội, được quản lý theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương Hội và theo quy định của Nhà nước.
Hội viên, cộng tác viên, các đơn vị của Hội có thành tích trong công tác hội và trong hoạt động khoa học, kỹ thuật sẽ được Hội khen thưởng. Hình thức khen thưởng do Ban chấp hành Trung ương Hội quy định.
Hội viên, đơn vị của Hội vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Hội, làm tổn hại đến danh dự và uy tín của Hội sẽ bị thi hành kỷ luật từ phê bình, cảnh báo đến khai trừ khỏi Hội, giải thể đơn vị. Hình thức kỷ luật do Ban chấp hành Trung ương Hội quy định.
1.Chỉ có Đại hội đại biểu toàn quốc hoặc Đại hội toàn thể hội viên của Hội Khoa học kỹ thuật Lạnh và Điều hòa không khí Việt nam mới có quyền sửa đổi, bổ sung Điều lệ của Hội.
2. Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của Hội phải được trên 1/2(một phần hai) số đại biểu chính thức có mặt tại Đại hội tán thành và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mới có hiệu lực thi hành.
1. Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) của Hội gồm 7 Chương, 28 Điều đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II nhiệm kỳ 2010-2014 của Hội Khoa học kỹ thuật Lạnh và Điều hòa không khí Việt nam thông qua ngày 27 tháng 3 năm 2010 tại thành phố Hà nội. Điều lệ này có hiệu lực thi hành theo Quyết định phê duyệt của Bộ Nội vụ.
2. Căn cứ quy định của pháp luật và Điều lệ Hội, Ban chấp hành Hội có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện điều lệ này./.
Hướng Dẫn Thực Hiện Điều Lệ Hội Lhpn Việt Nam
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
BAN CHẤP HÀNH
Số: 05/HD – BCH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 2023
HƯỚNG DẪN
THỰC HIỆN ĐIỀU LỆ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
Căn cứ Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã được Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII thông qua ngày 09 tháng 3 năm 2023;
Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam hướng dẫn thực hiện Điều lệ Hội như sau:
Điều 1. Chức năng của tổ chức Hội
1.1 Giải thích từ ngữ
– Chức năng đại diện: Tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thay mặt cho các tầng lớp phụ nữ Việt Nam để thực hiện một hoặc một số hoạt động theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
– Chức năng đoàn kết, vận động: Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tuyên truyền, thuyết phục hội viên, phụ nữ đoàn kết, tham gia thực hiện các hoạt động hướng đến mục đích chung của tổ chức Hội.
1.2 Về nội dung thực hiện chức năng của tổ chức Hội
1.2.1 Tham gia xây dựng chính sách pháp luật
– Trình dự án Luật, dự án Pháp lệnh với Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (Luật/Pháp lệnh mới; Luật/Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung);
– Tham mưu, đề xuất chính sách với Đảng, Nhà nước;
– Tham gia các ban soạn thảo, tổ biên tập, nhóm công tác;
– Đóng góp ý kiến vào các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
1.2.2 Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
– Tổ chức giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật theo quy định;
– Tham gia đoàn giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước: Quốc hội, Hội đồng nhân dân;
– Tham gia các cơ chế đại diện trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ban chỉ đạo, Hội đồng bầu cử, các Hội đồng khác;
– Thực hiện tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo;
– Tập hợp các kiến nghị, đề xuất của phụ nữ, trưng cầu ý kiến của phụ nữ;
– Vận động hội viên, phụ nữ và nhân dân thực hiện quyền giám sát.
1.2.3 Thực hiện vai trò nòng cốt trong đoàn kết, vận động phụ nữ tổ chức các hoạt động phát huy tiềm năng, quyền làm chủ của phụ nữ
– Tổ chức các hình thức phù hợp, thiết thực để tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ;
– Phát động các phong trào, cuộc vận động, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, đồng thuận của phụ nữ trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
– Tuyên truyền giáo dục tư tưởng chính trị và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa phụ nữ với Đảng và Nhà nước;
– Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; hỗ trợ nâng cao năng lực, trình độ; đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ.
1.2.4 Vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
– Nâng cao nhận thức của xã hội về bình đẳng giới; vai trò, vị trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội;
– Thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực hiện các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước;
– Vận động các nguồn lực, tăng cường công tác phối hợp trong thực hiện bình đẳng giới;
– Động viên phụ nữ phát huy tính tích cực, chủ động, sự tự tin, tiềm năng và các thế mạnh của bản thân.
Điều 3. Điều kiện trở thành hội viên
2.1 Giải thích từ ngữ
– Phụ nữ tham gia tổ chức Hội được gọi là hội viên, đáp ứng các điều kiện cơ bản như: tham gia sinh hoạt, đóng hội phí và tham gia các hoạt động Hội.
Phụ nữ trong lực lượng vũ trang, nữ cán bộ công chức, viên chức, công nhân lao động là đoàn viên công đoàn và phụ nữ trong các tổ chức thành viên là hội viên đương nhiên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
2.2. Quy trình công nhận
– Đối với phụ nữ muốn tham gia tổ chức Hội tại các chi, tổ phụ nữ theo địa bàn dân cư:
+ Phụ nữ Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có nguyện vọng trở thành hội viên của Hội trình bày với chi hội trưởng/tổ trưởng hoặc chi hội trưởng/tổ trưởng chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ (bao gồm cả phụ nữ di cư), gặp gỡ và vận động tham gia tổ chức Hội;
+ Chi hội trưởng/tổ trưởng lập danh sách những phụ nữ có nguyện vọng trở thành hội viên theo địa bàn dân cư gửi Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở để báo cáo Ban Chấp hành cùng cấp công nhận;
+ Sau khi được Ban Chấp hành công nhận, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở hướng dẫn chi hội trưởng /tổ trưởng thông báo và phát thẻ cho hội viên (nếu có) tại các kỳ sinh hoạt hội viên.
– Đối với phụ nữ là thành viên các Tổ tư vấn, câu lạc bộ, các loại hình hoạt động theo đặc thù nghề nghiệp, lứa tuổi, sở thích, dân tộc, tôn giáo khác do Hội các cấp thành lập, nếu chưa là hội viên và chị em có nguyện vọng thì cấp nào ra quyết định thành lập cấp đó lập danh sách công nhận. Quy trình công nhận như sau:
+ Đối với cấp cơ sở, Ban chủ nhiệm hoặc người đứng đầu các loại hình này lập danh sách hội viên có nguyện vọng tham gia tổ chức Hội gửi Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở để báo cáo Ban Chấp hành cùng cấp công nhận; sau khi được Ban Chấp hành công nhận, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở gửi Ban Chủ nhiệm hoặc người đứng đầu để thông báo và phát thẻ cho hội viên (nếu có).
+ Đối với cấp huyện, cấp tỉnh và cấp Trung ương, Ban chủ nhiệm hoặc người đứng đầu các loại hình này lập danh sách hội viên có nguyện vọng báo cáo Ban Thường vụ/Đoàn Chủ tịch cùng cấp công nhận và gửi Ban Chủ nhiệm để thông báo và phát thẻ cho hội viên (nếu có).
Điều 4. Hội viên là nữ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân lao động, nữ thanh niên
Thực hiện theo Chương trình phối hợp giữa Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Điều 5. Hội viên trong lực lượng vũ trang
Thực hiện theo Quy định liên tịch giữa Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với Tổng cục Chính trị Công an nhân dân và Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Điều 6. Quyền của hội viên
5.1. Quyền ứng cử
5.1.1. Hội viên đủ tiêu chuẩn và phù hợp với cơ cấu có quyền ứng cử để bầu vào Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp.
Hội viên thực hiện quyền ứng cử theo quy định sau:
– Hội viên là đại biểu chính thức của đại hội được quyền ứng cử trong đại hội;
– Hội viên không phải là đại biểu chính thức của đại hội gửi đơn xin ứng cử, lý lịch có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền và nhận xét của tổ chức Hội nơi hội viên sinh hoạt tới Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội hoặc Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp triệu tập đại hội chậm nhất 15 ngày trước khi diễn ra đại hội;
– Hội viên là đảng viên thực hiện quyền ứng cử theo quy định của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.1.2. Hội viên là đại biểu chính thức dự đại hội đủ tiêu chuẩn và phù hợp cơ cấu có quyền ứng cử đại biểu dự đại hội cấp trên trực tiếp.
5.2. Quyền đề cử
5.2.1. Hội viên là đại biểu chính thức dự đại hội có quyền đề cử người để bầu vào Ban Chấp hành cấp triệu tập đại hội. Trường hợp người được đề cử không phải là đại biểu chính thức của đại hội thì người đề cử phải báo cáo bằng văn bản về lý lịch, tư cách của người được đề cử có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền và phải được sự đồng ý bằng văn bản của người được đề cử.
5.2.2. Hội viên là đại biểu chính thức dự đại hội có quyền đề cử các đại biểu chính thức dự đại hội để bầu đi dự đại hội cấp trên trực tiếp.
5.2.3. Người được đề cử để bầu vào Ban Chấp hành, bầu đi dự đại hội cấp trên là đảng viên thực hiện theo quy định của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.3. Quyền bầu cử
Đại biểu chính thức dự đại hội có quyền bầu Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ cấp triệu tập đại hội và bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên trực tiếp.
Điều 8. Tổ chức thành viên
6.1. Điều kiện để công nhận tổ chức thành viên
– Là tổ chức phụ nữ Việt Nam ở trong nước được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập;
– Tán thành Điều lệ Hội;
– Tự nguyện gia nhập Hội.
6.2. Thẩm quyền công nhận và thôi công nhận tổ chức thành viên
– Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội có thẩm quyền xem xét, quyết định việc công nhận và thôi công nhận đối với tổ chức thành viên có phạm vi hoạt động trong cả nước hoặc liên tỉnh;
– Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét, quyết định việc công nhận và thôi công nhận đối với tổ chức thành viên có phạm vi hoạt động trong tỉnh sau khi có ý kiến đồng ý của cấp ủy cùng cấp. Các trường hợp phát sinh khác, Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo cấp uỷ cùng cấp và Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội xem xét, quyết định.
6.3 Hồ sơ, thủ tục công nhận tổ chức thành viên
6.3.1. Hồ sơ gồm:
– Văn bản đề nghị được công nhận tổ chức thành viên của Hội;
– Bản sao quyết định thành lập tổ chức có công chứng;
– Điều lệ của tổ chức.
6.3.2. Quy trình công nhận
– Tổ chức có nguyện vọng trở thành tổ chức thành viên căn cứ vào phạm vi hoạt động, gửi hồ sơ đến Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam hoặc Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh;
– Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam hoặc Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh có văn bản trả lời về việc công nhận hay không công nhận là tổ chức thành viên sau khi có ý kiến thống nhất của trên 50% ủy viên Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ cùng cấp;
– Công bố Quyết định công nhận tổ chức thành viên.
6.4. Thôi công nhận tổ chức thành viên
6.4.1. Các trường hợp thôi công nhận tổ chức thành viên
– Tổ chức thành viên không còn nguyện vọng là tổ chức thành viên của Hội và có văn bản đề nghị;
– Tổ chức thành viên không còn hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích của Hội;
– Tổ chức thành viên giải thể theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
6.4.2. Thủ tục thôi công nhận tổ chức thành viên
– Đối với trường hợp không còn nguyện vọng là tổ chức thành viên:
+ Tổ chức thành viên gửi văn bản đến cơ quan ra quyết định công nhận;
+ Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền có văn bản trả lời về việc thôi công nhận tổ chức thành viên;
+ Công bố Quyết định thôi công nhận tổ chức thành viên.
– Đối với trường hợp không còn hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích của Hội:
+ Khi có đủ cơ sở để kết luận tổ chức thành viên không còn hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích của Hội, cấp ra quyết định công nhận tiến hành làm việc với Ban Lãnh đạo của tổ chức thành viên để trao đổi, xác minh; thống nhất phương án thôi công nhận trong Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp;
+ Gửi quyết định thôi công nhận đến tổ chức thành viên.
– Đối với các trường hợp tổ chức giải thể thì đương nhiên không còn là tổ chức thành viên của Hội kể từ thời điểm quyết định giải thể có hiệu lực, không phải thực hiện các thủ tục nêu trên.
6.5. Hội viên của tổ chức thành viên là hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
– Hội viên trong các tổ chức thành viên được hưởng đầy đủ các quyền lợi của hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và thực hiện nhiệm vụ với tổ chức Hội thông qua tổ chức thành viên mà họ tham gia;
– Trong trường hợp thôi công nhận tổ chức thành viên hoặc bản thân hội viên không còn là hội viên của tổ chức thành viên, nếu có nguyện vọng tiếp tục là hội viên của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thì trình bày với Chi hội trưởng (nơi có tổ chức Hội) để được tham gia tổ chức Hội.
Điều 9. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
7.1. Nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động trong tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp
– Tự nguyện: thể hiện ở sự sẵn sàng, tự giác, chủ động tham gia tổ chức và hoạt động Hội;
– Dân chủ: là mỗi hội viên được quyền tham gia bàn bạc công việc chung của Hội; được ứng cử, đề cử, bầu cử, tham gia biểu quyết theo quy định của pháp luật và Điều lệ Hội;
– Liên hiệp: là tập hợp đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, không phân biệt thành phần, giai cấp, tuổi tác, vùng miền, dân tộc, tôn giáo vào tổ chức Hội phấn đấu vì mục tiêu chung; cơ quan lãnh đạo các cấp bao gồm cơ cấu đại diện các ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền, các tầng lớp phụ nữ cùng hướng tới mục đích chung của tổ chức Hội;
– Thống nhất hành động: thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyết tâm của cán bộ, hội viên, phụ nữ tham gia xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, thực hiện tôn chỉ, mục đích đã đề ra.
7.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của cơ quan lãnh đạo Hội các cấp
– Cơ quan lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp do bầu cử lập ra, thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức;
– Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước Đại hội, cấp ủy cùng cấp và Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp trên trực tiếp;
– Nghị quyết của cơ quan lãnh đạo Hội các cấp chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên của cơ quan lãnh đạo Hội tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Khi thi hành, phải thực hiện Nghị quyết của tập thể; thành viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu ý kiến và khi cần thiết được báo cáo với Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp trên trực tiếp hoặc cấp ủy cùng cấp. Khi chưa có ý kiến của Hội Liên hiệp phụ nữ cấp trên trực tiếp hoặc cấp ủy cùng cấp, thành viên đó phải chấp hành nghị quyết của tập thể và không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết;
– Cơ quan lãnh đạo các cấp Hội được quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình song không được trái với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Hội cấp trên.
Điều 10. Hệ thống tổ chức Hội và tư cách pháp nhân của các cấp Hội
8.1. Hệ thống tổ chức
– Hệ thống tổ chức Hội được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước;
– Tổ chức Hội được xác định tương đương với tổ chức Hội được thành lập theo đơn vị hành chính là những tổ chức do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội/Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh, huyện phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thống nhất thành lập trong một số cơ quan, đơn vị, tổ chức; thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tương đương Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh, huyện, cơ sở.
8.2. Tư cách pháp nhân của các cấp Hội
8.2.1. Hội Liên hiệp phụ nữ cấp Trung ương; Hội Liên hiệp Phụ nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ các xã, phường, thị trấn có tư cách pháp nhân:
– Được thành lập hợp pháp;
– Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
– Có tài sản độc lập với cấp Hội khác, với cán bộ Hội, hội viên và cá nhân, pháp nhân khác; tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
– Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
8.2.2. Cơ quan điều hành pháp nhân ở mỗi cấp Hội thực hiện theo điểm c, khoản 3, điều 17; điểm c, khoản 3, điều 18 và điểm b, khoản 2, điều 20 Điều lệ Hội, cụ thể như sau:
– Đối với Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam: cơ quan điều hành pháp nhân là Thường trực Đoàn Chủ tịch (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch);
– Đối với Hội Liên hiệp phụ nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: cơ quan điều hành pháp nhân là Thường trực Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch);
– Đối với Hội Liên hiệp phụ nữ các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: cơ quan điều hành pháp nhân là Thường trực Hội Liên hiệp phụ nữ cấp huyện (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch);
– Đối với Hội Liên hiệp phụ nữ các xã, phường, trị trấn: cơ quan điều hành pháp nhân là Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ các xã, phường, thị trấn.
Trong một số trường hợp, Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ thống nhất chủ trương và giao cho cơ quan điều hành pháp nhân cùng cấp tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ của pháp nhân.
9.Điều 12. Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp
9.1. Khoản 1. Nhiệm kỳ đại hội
9.1.1. Các trường hợp đặc biệt có thể tổ chức đại hội sớm hoặc muộn hơn thời gian 5 năm nhưng không được quá một năm (mười hai tháng), bao gồm:
– Khi có thay đổi địa giới hành chính hoặc có sự thay đổi về cơ cấu, tổ chức ngành, đơn vị (tách, sáp nhập hoặc thành lập mới) theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
– Thiên tai bất thường;
– Một số trường hợp khác do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội quy định.
9.2. Khoản 3. Thành phần, số lượng đại biểu
9.2.1. Thành phần đại biểu chỉ định
Đại biểu chỉ định là những đại biểu do Ban Chấp hành cấp triệu tập đại hội quyết định ngoài số đại biểu đương nhiên và đại biểu bầu để đảm bảo tính đại diện, liên hiệp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ.
9.2.2. Số lượng đại biểu chính thức của đại hội
– Ban Chấp hành cấp triệu tập đại hội quyết định số lượng đại biểu dự đại hội căn cứ vào đặc điểm hành chính, điều kiện kinh tế – xã hội; số lượng, cơ cấu đơn vị trực thuộc, số lượng hội viên và số lượng phụ nữ tại địa bàn/nơi làm việc;
– Ở những nơi có số lượng hội viên dưới 100 người thì tổ chức đại hội toàn thể hội viên; trường hợp đặc biệt sẽ do Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp trên trực tiếp quyết định trên cơ sở thống nhất ý kiến với cấp ủy cấp triệu tập đại hội.
9.2.3. Thay thế đại biểu
– Đại biểu dự khuyết được chuyển thành đại biểu chính thức khi đại biểu chính thức được bầu tại đại hội vắng mặt có lý do chính đáng (bị ốm, có công việc đột xuất không thể tham gia đại hội hoặc đại biểu xin rút vì lý do cá nhân khác) và được Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp triệu tập đại hội đồng ý.
– Nguyên tắc thay thế đại biểu:
+ Đại biểu chính thức được bầu thuộc đoàn đại biểu nào thì được thay thế bằng đại biểu dự khuyết của đoàn đại biểu đó;
+ Đại biểu dự khuyết được chuyển thành đại biểu chính thức theo thứ tự số phiếu bầu từ cao xuống thấp (trong trường hợp bầu bằng bỏ phiếu kín); nếu phiếu bầu bằng nhau hoặc trường hợp bầu bằng biểu quyết giơ tay thì người có thành tích nổi trội, có quá trình cống hiến nhiều hơn trong hoạt động Hội và phong trào phụ nữ sẽ được lựa chọn;
+ Số lượng đại biểu dự khuyết của các đoàn do Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp triệu tập quyết định trên cơ sở số lượng đại biểu được phân bổ.
9.2.4. Vấn đề bác bỏ tư cách đại biểu
Đại hội cấp triệu tập có trách nhiệm xem xét bác bỏ tư cách đại biểu trong các trường hợp sau:
– Đại biểu đang trong thời gian thi hành kỷ luật hoặc đang bị cơ quan pháp luật khởi tố, truy tố;
– Đại biểu được bầu không đúng quy định của Điều lệ Hội;
– Trong thời gian đại hội, đại biểu phạm tội quả tang hoặc vi phạm nội quy đại hội gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức Hội.
9.3. Khoản 4, Điểm c và Khoản 5, Điểm c về tiêu chuẩn, điều kiện tham gia Ban Chấp hành
Điều 14. Bầu bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành, uỷ viên Đoàn Chủ tịch hoặc uỷ viên Ban Thường vụ và Chủ tịch, Phó Chủ tịch các cấp Hội
10.1. Việc bầu bổ sung ủy viên Ban Chấp hành, uỷ viên Đoàn Chủ tịch hoặc uỷ viên Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch
10.1.1. Các trường hợp bầu thay thế, bổ sung:
– Thay thế khi ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch nghỉ hưu, nghỉ chờ hưu, chuyển công tác hoặc có lý do cá nhân khác;
– Bầu chưa đủ số lượng do đại hội quyết định;
– Bổ sung ngoài số lượng do đại hội đã quyết định theo quy định của Điều lệ Hội.
10.1.2. Nguyên tắc bầu thay thế, bổ sung:
– Các trường hợp bầu thay thế, bổ sung Ban Chấp hành/Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch trong số lượng, cơ cấu đã được đại hội/hội nghị Ban Chấp hành quyết định phải đảm bảo đúng thành phần, cơ cấu đã được đại hội/hội nghị thông qua;
– Các trường hợp bầu bổ sung ủy viên Ban Chấp hành ngoài số lượng, cơ cấu đã được đại hội biểu quyết thông qua phải được tiến hành trên cơ sở có sự thống nhất của cấp ủy cùng cấp;
– Nhân sự đươc giới thiệu bầu thay thế, bổ sung đồng thời vào các chức danh uỷ viên Ban Chấp hành, ủy viên Đoàn Chủ tịch hoặc ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch được tiến hành trong cùng một hội nghị thì được quyền ứng cử, đề cử, bầu cử tại hội nghị đó khi có văn bản giới thiệu của cấp ủy cùng cấp.
10.1.3. Hồ sơ trình công nhận các chức danh được bầu thay thế, bổ sung:
– Tờ trình đề nghị Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp trên ra quyết định công nhận thay thế, bổ sung ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, công nhận chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch (ghi rõ lý do thay thế, bổ sung: do thay thế nhân sự đã nghỉ hưu, nghỉ chờ hưu, chuyển công tác hoặc nghỉ việc vì lý do cá nhân; thời điểm nghỉ hưu, nghỉ chờ hưu hoặc thay đổi công tác; nếu chuyển công tác cần ghi rõ nơi chuyển đến và chức vụ mới đảm nhiệm);
10.2. Việc giải quyết cho ủy viên Ban Chấp hành, ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch thôi tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và thôi chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch
– Khi có quyết định nghỉ hưu, nghỉ chờ hưu, thôi việc vì lý do cá nhân hoặc chuyển công tác mà vị trí công việc mới không thuộc thành phần cơ cấu thì ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch đó thôi tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch kể từ thời điểm Quyết định nghỉ hưu/nghỉ chờ hưu/thôi việc vì lý do cá nhân hoặc chuyển công tác có hiệu lực thi hành;
– Ban Chấp hành cùng cấp có trách nhiệm bầu bổ sung ủy viên thay thế cho đủ số lượng đã được đại hội/hội nghị Ban Chấp hành quyết định;
– Tại cuộc họp Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp có trách nhiệm báo cáo trước Ban Chấp hành cùng cấp tình hình thay đổi, biến động ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch (nếu có).
Điều 15. Hình thức bầu cử và điều kiện trúng cử
11.1. Khoản 1. Hình thức bầu cử
Có hai hình thức bầu cử là giơ tay và bỏ phiếu kín. Hai hình thức có giá trị như nhau.
11.1.1. Đối với hình thức bầu bằng biểu quyết giơ tay:
– Danh sách bầu cử được công bố công khai trước đại hội/hội nghị Ban Chấp hành;
– Biểu quyết một lần cả danh sách hoặc biểu quyết từng người trong danh sách do đại hội/hội nghị quyết định;
– Biểu quyết giơ tay chỉ hợp lệ khi người bầu giơ tay một lần (trong trường hợp bầu một lần cả danh sách) hoặc giơ tay một lần cho mỗi người trong danh sách (trong trường hợp biểu quyết bầu từng người);
– Biểu quyết giơ tay không hợp lệ khi người bầu giơ tay nhiều lần (trong trường hợp bầu một lần cả danh sách); giơ tay nhiều lần cho một người trong danh sách (trong trường hợp biểu quyết bầu từng người); không bầu ai trong danh sách bầu cử (đối với trường hợp danh sách có từ hai người trở lên).
11.1.2. Đối với bầu bằng bỏ phiếu kín:
– Phiếu bầu cử được in hoặc ghi họ tên những người trong danh sách bầu cử được đại hội/hội nghị thông qua; danh sách viết theo thứ tự vần chữ cái A,B,C; đóng dấu của Ban Chấp hành cấp triệu tập đại hội/hội nghị ở góc bên trái của phiếu bầu;
– Phiếu hợp lệ là phiếu do Ban bầu cử phát ra, phiếu bầu đủ hoặc thiếu số lượng cần bầu; người bầu cử đánh dấu vào một trong hai ô đồng ý hoặc không đồng ý trong trường hợp danh sách bầu cử chỉ có một người;
– Phiếu không hợp lệ là phiếu không do Ban bầu cử phát ra; phiếu bầu nhiều hơn số lượng quy định; phiếu không bầu cho ai trong danh sách bầu cử (đối với trường hợp danh sách có từ hai người trở lên); phiếu xóa giữa hai dòng chữ, không rõ bầu ai; phiếu viết tên người ngoài danh sách đã được đại hội/hội nghị thông qua; phiếu ký tên người bầu hoặc có dấu hiệu đánh dấu khác (dùng mực đỏ, dùng nhiều loại mực…).
11.2. Khoản 2 về điều kiện trúng cử
11.2.1. Cách tính kết quả bầu cử
– Kết quả bầu cử được công nhận khi đại hội/hội nghị có ít nhất 2/3 số đại biểu được triệu tập tham dự. Người trúng cử phải đạt số phiếu bầu hợp lệ của trên 50% đại biểu so với tổng số đại biểu được triệu tập dự đại hội/hội nghị và được tính từ cao xuống thấp, lấy đến số lượng cần bầu.
– Trường hợp đại biểu bị bác tư cách hoặc đại biểu là ủy viên Ban Chấp hành cấp triệu tập, đại biểu chính thức vắng mặt suốt thời gian đại hội mà không có đại biểu dự khuyết thay thế thì kết quả bầu cử được tính trên số đại biểu triệu tập trừ đi số đại biểu bị bác tư cách và số đại biểu vắng mặt trong suốt thời gian diễn ra đại hội mà không có đại biểu dự khuyết thay thế.
– Trường hợp có một số người ngang phiếu nhau, đều được trên 50% số phiếu bầu so với tổng số đại biểu triệu tập và nhiều hơn số lượng cần bầu thì Đoàn Chủ tịch đại hội hoặc Chủ tọa hội nghị lập danh sách những người ngang phiếu nhau để bầu lại; người có số phiếu bầu cao hơn sẽ trúng cử. Trường hợp bầu lại mà số phiếu bầu vẫn ngang nhau, việc có tiến hành bầu tiếp hay không do đại hội/hội nghị quyết định.
11.2.2. Quy trình công nhận kết quả bầu cử Ban Chấp hành/Ban Thường vụ/Chủ tịch/Phó Chủ tịch
– Chậm nhất 10 ngày làm việc sau đại hội/hội nghị, Ban Thường vụ khóa mới phải báo cáo lên Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ Hội cấp trên trực tiếp biên bản bầu cử Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch kèm theo danh sách trích ngang và Tờ trình đề nghị công nhận kết quả bầu cử. Đối với hội nghị Ban Chấp hành lần thứ nhất hoặc trong trường hợp khuyết tất cả các chức danh lãnh đạo chủ chốt khoá đương nhiệm, tờ trình do Chủ tịch mới được bầu hoặc Chủ tọa Hội nghị ký và được sử dụng dấu của Ban Chấp hành cùng cấp;
– Chậm nhất 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ trình của Ban Thường vụ Hội cấp dưới về kết quả bầu cử, Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ Hội cấp trên trực tiếp ra quyết định công nhận ủy viên Ban Chấp hành và các chức danh khác đã được bầu;
– Sau khi có quyết định công nhận của Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ Hội cấp trên trực tiếp thì Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, ủy viên Ban Thường vụ được ký tên với chức danh tương ứng trong các văn bản phát hành của Hội cấp mình.
11.2.3. Rút gọn thủ tục bầu cử và công nhận kết quả bầu cử trong một số trường hợp đặc biệt:
– Trường hợp 10 ngày làm việc sau Đại hội không tổ chức được kỳ họp Ban Chấp hành lần thứ nhất vì những lý do khác nhau, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp trên trực tiếp căn cứ biên bản bầu Ban Chấp hành tại Đại hội ra Quyết định công nhận Ban Chấp hành đã được bầu tại Đại hội.
Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp trên trực tiếp phối hợp với cấp ủy nơi chưa tổ chức được kỳ họp Ban Chấp hành lần thứ nhất để chỉ đạo, hướng dẫn Ban Chấp hành khóa mới chuẩn bị nhân sự, thực hiện quy trình, thủ tục tiếp theo để bầu Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch.
Đối với nhân sự dự kiến để bầu giữ chức danh Chủ tịch và Phó Chủ tịch không trúng cử Ban Chấp hành nếu tiếp tục ứng cử, đề cử phải đảm bảo thời gian thử thách ít nhất ba tháng sau ngày Đại hội kết thúc;
– Trường hợp số lượng Ban Chấp hành thấp dưới 5 ủy viên hoặc do tính chất đặc thù, một số cơ sở Hội không có Ban Chấp hành, việc bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch được tiến hành trực tiếp tại Đại hội/hội nghị. Tờ trình để công nhận kết quả bầu cử do đại diện Đoàn Chủ tịch Đại hội hoặc Chủ tọa Hội nghị ký;
– Trường hợp đặc biệt khác do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam quyết định.
Điều 16. Chỉ định ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch các cấp Hội
12.1. Các trường hợp chỉ định
– Khi có sự thay đổi về địa giới hành chính: hợp nhất, chia tách địa giới hành chính theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
– Khi có sự sắp xếp lại về tổ chức bộ máy: sáp nhập, giải thể hoặc thành lập mới các tổ chức Hội.
12.2. Quy trình chỉ định
– Ban Thường vụ khóa đương nhiệm nơi có sự thay đổi về địa giới hành chính hoặc sắp xếp lại về tổ chức bộ máy báo cáo Hội cấp trên trực tiếp về dự kiến nhân sự phù hợp cơ cấu tổ chức; Đảng đoàn/Ban Thường vụ Hội cấp trên trực tiếp làm việc với Ban Chấp hành khóa đương nhiệm và cấp ủy nơi có sự thay đổi về địa giới hành chính hoặc sắp xếp lại về tổ chức bộ máy dự kiến nhân sự để chỉ định;
– Đoàn Chủ tịch/Ban Thường vụ Hội cấp trên trực tiếp ra quyết định chỉ định ủy viên Ban Chấp hành, ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch căn cứ kết quả làm việc với Ban Chấp hành khoá đương nhiệm và ý kiến của cấp uỷ.
Điều 19. Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở
13.1. Các loại hình tổ chức Hội cơ sở
– Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở được thành lập theo đơn vị hành chính;
– Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở được thành lập trong các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân;
– Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở được thành lập trong các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại …;
– Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở được thành lập trong các trường (dân lập) và một số cơ sở tôn giáo (chùa, nhà thờ);
– Các loại hình tổ chức Hội cơ sở khác do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam hướng dẫn.
13.2. Thành lập mới tổ chức Hội cơ sở
– Đối với tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ các xã, phường, thị trấn theo đơn vị hành chính: Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp huyện ra quyết định trên cơ sở văn bản thông báo về việc thành lập mới đơn vị hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và đề nghị của cấp uỷ nơi thành lập;
– Đối với những tổ chức Hội có tính chất đặc thù về nhiệm vụ chính trị, về đối tượng hội viên: Được sự thống nhất của cấp uỷ cùng cấp và Hội cấp trên thì thành lập tổ chức Hội tương đương Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở và do Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp huyện quyết định.
Căn cứ quy mô hoạt động, thành phần và số lượng hội viên, trong một số trường hợp đặc biệt, tổ chức Hội cơ sở có tính chất đặc thù do Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh ra quyết định thành lập trên cơ sở ý kiến đồng ý của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội.
Thủ tục thành lập tổ chức Hội cơ sở đặc thù được tiến hành như sau:
+ Tổ chức gặp gỡ phụ nữ nơi có nhu cầu thành lập và làm việc với cấp ủy thống nhất về chủ trương thành lập;
+ Hướng dẫn cơ sở chuẩn bị hồ sơ đề nghị thành lập, gồm: văn bản đề nghị thành lập tổ chức Hội của đại diện nhóm phụ nữ có nhu cầu thành lập tổ chức Hội; ý kiến của cấp ủy cùng cấp; danh sách phụ nữ từ 18 tuổi trở lên có nguyện vọng tham gia tổ chức Hội; kế hoạch thành lập tổ chức Hội và nhân sự dự kiến;
+ Ra Quyết định thành lập tổ chức Hội và công nhận hội viên; chỉ định ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các chức danh chủ chốt;
+ Tổ chức Lễ ra mắt và công bố Quyết định thành lập, danh sách hội viên.
13.3. Mô hình tổ chức bộ máy Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở
– Thống nhất mô hình từ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở đến chi hội; ở những chi hội có số lượng 50 hội viên trở lên có thể thành lập các tổ phụ nữ. Những nơi có tổ phụ nữ, việc sinh hoạt hội có thể thực hiện tại tổ.
– Chi hội, tổ phụ nữ được kiện toàn khi có sự thay đổi, không phụ thuộc vào nhiệm kỳ Đại hội đại biểu phụ nữ cấp cơ sở và không tổ chức Đại hội.
– Cán bộ chi hội gồm chi hội trưởng và một hoặc hai chi hội phó do hội viên bầu trên cơ sở giới thiệu của chi ủy và Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở. Đối với những nơi có tổ phụ nữ, việc bố trí tổ trưởng, tổ phó do chi hội quyết định sau khi có ý kiến của Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở. Việc kiện toàn cán bộ chi, tổ phụ nữ được thực hiện tại Hội nghị chi hội hoặc tổ phụ nữ; đảm bảo có ít nhất 2/3 số hội viên của chi, tổ được triệu tập tham dự.
Ngoài mô hình trên, tại các cơ sở Hội, có thể hình thành câu lạc bộ, nhóm/tổ phụ nữ có tính chất đặc thù thuộc sự quản lý, điều hành của Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở hoặc của chi hội.
13.4. Sinh hoạt chi hội hoặc tổ phụ nữ
Theo quy định của Điều lệ Hội, thời gian sinh hoạt của chi hội, tổ phụ nữ ít nhất ba tháng một lần (4 lần/năm), bao gồm các hình thức sinh hoạt phù hợp với đặc thù của từng cơ sở, có thể là một trong những hình thức sau:
– Họp sơ kết, tổng kết hoạt động Hội hoặc triển khai công tác Hội;
– Nghe nói chuyện chuyên đề;
– Tham quan, tổ chức về nguồn, thăm mô hình tiêu biểu,;
– Hội thi, hội diễn, giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao;
– Tổ chức các hoạt động, sự kiện nhân các dịp lễ hội;
– Tham gia các hoạt động chung của cộng đồng do xã, phường, thị trấn, đơn vị hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp tổ chức;
– Sinh hoạt theo câu lạc bộ, tổ/nhóm phụ nữ có tính chất đặc thù thuộc sự quản lý, điều hành của Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở hoặc của chi hội;
– Các hình thức sinh hoạt khác nhằm thu hút hội viên tham gia đông đủ.
Điều 20. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở
14.1. Về công tác quản lý hội viên theo địa bàn dân cư
– Hội viên được quản lý thông qua việc thường xuyên nắm tình hình hội viên, cập nhật đầy đủ vào Sổ thống kê, theo dõi hội viên và thực hiện thống kê hàng năm (hoàn thành trước ngày 25 tháng 11). Lưu ý:
+ Không tính là hội viên trong năm đối với những trường hợp sau: hội viên không còn nguyện vọng tham gia tổ chức Hội; hội viên chết; hội viên chuyển nơi cư trú; hội viên không tham gia sinh hoạt Hội và không đóng hội phí liên tục trong một năm (trừ trường hợp được miễn, giảm);
+ Không tính vào số lượng hội viên ở nơi cư trú đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân lao động là đoàn viên công đoàn, hội viên trong các tổ chức thành viên của Hội và hội viên trong lực lượng vũ trang. Khuyến khích Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở có Sổ theo dõi hội viên là đoàn viên công đoàn, hội viên trong các tổ chức thành viên và hội viên trong lực lượng vũ trang tham gia sinh hoạt Hội tại địa bàn dân cư;
+ Thường xuyên theo dõi, cập nhật số phụ nữ từ 18 tuổi trở lên trong địa bàn để có biện pháp phù hợp tập hợp, phát triển hội viên.
– Đối với phụ nữ tham gia hoạt động Hội: Hội Liên hiệp phụ nữ cấp nào tổ chức hoạt động thì cấp đó theo dõi và báo cáo lên Hội cấp trên trực tiếp.
– Đối với hội viên di cư:
+ Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở có hội viên di cư đi có trách nhiệm nắm số lượng, tâm tư, nguyện vọng của chị em và có các hoạt động thăm hỏi, động viên gia đình khi cần thiết, đồng thời cập nhật vào Sổ thống kê, theo dõi hội viên tại địa bàn dân cư;
+ Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở nơi có hội viên di cư đến có trách nhiệm phối hợp cơ quan quản lý hộ khẩu tại địa phương hoặc chủ nhà trọ nắm tình hình để vận động, tập hợp chị em tham gia tổ chức Hội (nếu có nguyện vọng).
14.2. Nhiệm vụ của Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở
– Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ các xã, phường, thị trấn (theo đơn vị hành chính) có những nhiệm vụ cơ bản như sau:
+ Nghiên cứu cụ thể hóa nhiệm vụ của Hội cấp trên, nghị quyết của cấp ủy cùng cấp vào nghị quyết, chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội;
+ Chuẩn bị nội dung, triệu tập và chủ trì các kỳ họp của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở;
+ Cùng Ban Thường vụ xây dựng chương trình/ kế hoạch công tác; hướng dẫn hoạt động đối với các chi hội; thường xuyên dự sinh hoạt/hoạt động của Hội trên địa bàn, trực tiếp điều hành sinh hoạt hội viên đối với những nơi khó khăn;
+ Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể cùng cấp vận động, hướng dẫn cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ, các tầng lớp nhân dân tham gia học tập, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện quy chế dân chủ tại xã, phường, thị trấn và các phong trào thi đua của Hội theo chương trình, kế hoạch của Hội cấp trên đề ra; tham gia các Ban chỉ đạo, Hội đồng, Tổ tư vấn tại địa phương khi được phân công;
+ Chỉ đạo, tổ chức việc học tập chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; các chủ trương, nghị quyết của Hội; là báo cáo viên, tuyên truyền viên của Hội tại cơ sở;
+ Tham mưu đối với cấp uỷ Đảng cùng cấp trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ Hội ở cơ sở;
+ Định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá và báo cáo với cấp uỷ cùng cấp và tổ chức Hội cấp trên về hoạt động của tổ chức Hội cơ sở;
+ Chủ trì việc xây dựng quy chế hoạt động của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành cấp cơ sở; tổ chức thực hiện hoạt động của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành đảm bảo theo đúng quy chế đã xây dựng;
+ Lập kế hoạch kinh phí; thực hiện thanh quyết toán kinh phí hoạt động theo quy định.
– Đối với Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ các cơ sở đặc thù: thực hiệ các nhiệm vụ kiêm nhiệm theo phân công của cấp ủy và Hội cấp trên căn cứ tình hình thực tiễn của cơ sở.
Điều 21. Công tác kiểm tra, giám sát
15.1 Giải thích từ ngữ
– Kiểm tra trong hệ thống Hội là việc các cấp Hội xem xét, đánh giá, kết luận về các hoạt động của tổ chức Hội, tổ chức thành viên, cán bộ, hội viên trong việc chấp hành Điều lệ, Nghị quyết và qui định của tổ chức Hội các cấp nhằm phát hiện những ưu điểm, hạn chế, vi phạm.. Công tác kiểm tra được thực hiện thường xuyên, định kỳ, chuyên đề và đột xuất.
– Giám sát trong hệ thống Hội là việc các cấp Hội theo dõi, xem xét về các hoạt động của tổ chức Hội, tổ chức thành viên, cán bộ Hội, hội viên trong việc chấp hành Điều lệ, Nghị quyết và qui định của tổ chức Hội các cấp nhằm phát hiện những việc làm tốt, những mô hình hiệu quả hoặc những vấn đề bất cập, vướng mắc và điều chỉnh kịp thời. Công tác giám sát được thực hiện thường xuyên, định kỳ và theo chuyên đề.
15.2. Bộ máy làm công tác kiểm tra, giám sát
–Cấp Trung ương: Bộ máy tham mưu, giúp việc thuộc Ban Tổ chức; phân công một Phó Chủ tịch phụ trách;
– Cấp tỉnh: bộ máy tham mưu giúp việc là Ban Tổ chức – kiểm tra; phân công một đồng chí lãnh đạo phụ trách;
– Cấp huyện: phân công một đồng chí lãnh đạo phụ trách;
– Cấp cơ sở: Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở trực tiếp phụ trách.
15.3 Hình thức kiểm tra, giám sát
– Hình thức kiểm tra:
+ Kiểm tra thường xuyên
+ Kiểm tra định kỳ
+ Kiểm tra chuyên đề.
+ Kiểm tra đột xuất: khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm nghị quyết, Điều lệ Hội.
– Hình thức giám sát:
+ Giám sát thường xuyên
+ Giám sát định kỳ
+ Giám sát chuyên đề.
Điều 23. Kỷ luật
16.1. Các hình thức kỷ luật
– Đối với tập thể Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường vụ, cơ quan chuyên trách Hội Liên hiệp phụ nữ cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và các tổ chức Hội cơ sở:
+ Khiển trách khi vi phạm Điều lệ Hội lần đầu, khuyết điểm ở mức độ chưa nghiêm trọng, đã nhận thấy khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa;
+ Cảnh cáo khi đã bị khiển trách còn tái phạm hoặc vi phạm Điều lệ Hội lần đầu nhưng mức độ hậu quả có tính chất nghiêm trọng
+ Giải thể (không áp dụng đối với cơ quan chuyên trách các cấp Hội) khi không triển khai các hoạt động theo chỉ đạo của Hội cấp trên trong thời gian liên tục từ hai năm trở lên hoặc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động trái với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Hội gây hậu quả nghiêm trọng.
– Đối với tổ chức thành viên:
+ Khiển trách khi vi phạm Điều lệ Hội, khuyết điểm ở mức độ có khả năng khắc phục, đã nhận thấy khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa; khi bị cơ quan quản lý Nhà nước khiển trách hoặc cảnh cáo;
+ Thôi công nhận khi bị cơ quan quản lý Nhà nước giải thể hoặc không còn hoạt động theo theo tôn chỉ, mục đích của Hội.
– Đối với ủy viên Ban Chấp hành, ủy viên Đoàn Chủ tịch, ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở, các chi hội trưởng và cán bộ Hội chuyên trách các cấp:
+ Khiển trách khi vi phạm Điều lệ Hội lần đầu, khuyết điểm ở mức độ nhẹ, đã nhận thấy khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa;
+ Cảnh cáo khi đã bị khiển trách còn tái phạm hoặc vi phạm Điều lệ Hội lần đầu nhưng mức độ hậu quả có tính chất nghiêm trọng;
– Đối với hội viên: chỉ áp dụng duy nhất một hình thức kỷ luật là khiển trách. Tổ chức Hội có trách nhiệm tuyên truyền, khuyến khích phụ nữ tích cực tham gia tổ chức Hội và động viên, giáo dục hội viên tu dưỡng, rèn luyện trở thành hội viên tốt.
16.2. Trình tự xem xét, xử lý kỷ luật
– Xác minh, kết luận mức độ vi phạm của tổ chức, cá nhân vi phạm;
– Tổ chức họp kiểm điểm và quyết định hình thức kỷ luật đối với tổ chức, cá nhân vi phạm;
– Ra quyết định kỷ luật và công bố quyết định kỷ luật đối với tổ chức, cá nhân vi phạm.
Cá nhân, tổ chức bị kỷ luật của tổ chức Đảng hoặc cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền thì cấp Hội quản lý trực tiếp theo quy định về phân cấp quản lý xem xét, đề xuất hình thức kỷ luật và tổ chức Hội nghị lấy ý kiến biểu quyết hình thức kỷ luật.
Hội nghị lấy ý kiến nhận xét về mức độ sai phạm và biểu quyết hình thức kỷ luật chỉ có giá trị khi có mặt 2/3 số thành viên được triệu tập có mặt và có trên 50% số thành viên triệu tập biểu quyết nhất trí.
16.3. Quyền của tổ chức, cá nhân vi phạm
– Tổ chức, cá nhân không đồng ý với quyết định kỷ luật thì trong vòng ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày nhận quyết định kỷ luật, có quyền khiếu nại lên Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp trên cho đến Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, song vẫn phải chấp hành hình thức kỷ luật. Việc giải quyết khiếu nại kỷ luật, thực hiện theo hướng dẫn của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
16.4. Thẩm quyền ra quyết định kỷ luật
– Đối với kỷ luật tổ chức: cấp nào ra quyết định thành lập hoặc công nhận cấp đó ra quyết định kỷ luật;
– Đối với kỷ luật cán bộ Hội: cấp nào quản lý cấp đó ra quyết định kỷ luật;
– Đối với hội viên: Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở ra quyết định kỷ luật.
Điều 24. Tài chính của Hội
17.1. Nguyên tắc quản lý tài chính của các cấp Hội:
-Việc quản lý, sử dụng tài chính cấp nào do cấp đó chịu trách nhiệm, tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội
;
17.2 Hội phí được chi cho các nội dung sau:
– Tổ chức các hoạt động của Hội tại cơ sở;
– Công tác thi đua khen thưởng;
– Mua sách, báo, tài liệu phục vụ cho sinh hoạt hội viên;
– Thăm hỏi cán bộ Hội, hội viên.
– Thù lao cho cán bộ Hội ở cơ sở (những người chưa được hưởng lương hay phụ cấp từ các nguồn thu khác);
– Các hoạt động nhân đạo, từ thiện, cứu trợ khẩn cấp do thiên tai, địch họa…
17.3. Quy định về tỷ lệ trích nộp hội phí
Tổng nguồn hội phí được phân bổ ở từng cấp theo tỷ lệ cụ thể như sau:
– Cấp Trung ương: 3%
– Cấp tỉnh: 7%
– Cấp huyện: 10%
– Cấp cơ sở: 80 %. Tỷ lệ hội phí để lại chi/tổ do Ban Chấp hành cấp cơ sở quy định.
Đối với các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo theo quyết định của Chính phủ: không thực hiện việc trích nộp lên Hội cấp trên, 100% nguồn hội phí thu được để lại phục vụ cho các hoạt động Hội tại cơ sở. Tỷ lệ hội phí để lại chi/tổ do Ban Chấp hành cấp cơ sở quy định.
Đối với hội viên sinh hoạt tại tổ tư vấn, câu lạc bộ, các loại hình hoạt động theo đặc thù nghề nghiệp, lứa tuổi, sở thích, dân tộc, tôn giáo… do Hội các cấp thành lập: Ban Chủ nhiệm hoặc người đứng đầu tổ tư vấn, câu lạc bộ, các loại hình hoạt động thực hiện việc thu, nộp hội phí như sau:
+ Đối với loại hình trực thuộc cấp cơ sở: thực hiện việc thu hội phí hội viên theo quy định Điều lệ Hội và nộp về Ban Thường vụ Hội LHPN cấp cơ sở. Tỷ lệ trích nộp và để lại các câu lạc bộ, tổ tư vấn, các loại hình khác tương tự như các chi, tổ Hội.
+ Đối với loại hình trực thuộc cấp huyện, cấp tỉnh và cấp Trung ương: thực hiện việc thu hội phí theo quy định Điều lệ Hội và trích nộp theo tỷ lệ tương ứng với từng cấp về cơ quan chủ quản (cấp Trung ương 3%, cấp tỉnh 7% và cấp huyện 10%).
17.4. Quy định về tỷ lệ, đối tượng miễn, giảm đóng hội phí
– Tỷ lệ hội viên được miễn, giảm đóng hội phí cụ thể như sau:
+ Đối với các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ: được miễn, giảm 30%.
+ Đối với các tỉnh, thành phố khác: được miễn, giảm 20%.
+ Trường hợp đặc biệt khác do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội xem xét, quyết định căn cứ điều kiện thực tiễn.
Đối tượng hội viên được miễn, giảm đóng hội phí cụ thể do Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh quyết định
.
– Khuyến khích hội viên là cán bộ Hội chuyên trách, đoàn viên công đoàn, hội viên trong lực lượng vũ trang, hội viên ở nơi khác đến tạm trú tại địa bàn, hội viên là thành viên các tổ tư vấn, câu lạc bộ đóng hội phí tại địa bàn cư trú. Số hội phí thu được từ nguồn này để lại phục vụ các hoạt động Hội tại cơ sở, không tính vào tỷ lệ trích nộp lên Hội cấp trên.
17.5. Cách thức thu hội phí: Do chi hội, tổ phụ nữ quyết định, khuyến khích việc thu tại các buổi sinh hoạt hội viên; hạn chế tối đa việc thu nhiều khoản tiền cùng một thời điểm.
17.6. Đóng góp của tổ chức thành viên
– Đối với tổ chức thành viên do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội công nhận: mỗi năm tổ chức thành viên đóng góp cho tổ chức chủ quản bằng tiền, hiện vật hoặc các khoản đóng góp khác có giá trị tương đương; mức đóng góp tối thiểu bằng 5% nguồn thu hội phí của tổ chức thành viên.
– Đối với tổ chức thành viên do Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh công nhận: việc quyết định mức đóng góp và cách thức đóng góp do Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh quyết định.
17.7. Các nguồn thu hợp pháp khác
– Cán bộ Hội, hội viên đóng góp;
– Hoạt động dịch vụ;
– Nguồn thu hợp pháp khác.
Hướng dẫn này thay thế Hướng dẫn số 13/HD – BCH ngày 01/8/2012 hướng dẫn thực hiện Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hướng dẫn số 19/HD – BCH ngày 12/10/2023 hướng dẫn thực hiện Điều lệ Hội (bổ sung, sửa đổi) một số vấn đề về hội viên, hội phí; các quy định trước đây trái với quy định của Hướng dẫn này đều bãi bỏ.
Hướng dẫn được phổ biến đến cán bộ Hội, hội viên và có hiệu lực kể từ ngày ký.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp có trách nhiệm báo cáo Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội để trình Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam xem xét, quyết định.
Nơi nhận:
– Ủy viên Ban Chấp hành TW Hội;
– Ban Thường vụ Hội LHPN các tỉnh/thành phố;
– Hội phụ nữ BCA, Ban PN QĐ;
– Ban Nữ công, Tổng LĐLĐ Việt Nam;
– Các ban, đơn vị cơ quan TW Hội;
– Hội Nữ Trí thức Việt Nam;
– Hiệp hội Nữ Doanh nhân Việt Nam;
– Lưu: VT, TC.
TM. BAN CHẤP HÀNH
CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Nguyễn Thị Thu Hà
Điều Lệ Hội Nông Dân Việt Nam
Chức năng, nhiệm vụ của hội nông dân Việt Nam
1. Khái niệm Hội nông dân Việt NamHội Nông dân Việt Nam (tên cũ: Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam trước 1991) là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Điều lệ hội nông dân Việt NamNHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị – xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội Nông dân Việt Nam tiền thân là Nông hội đỏ, thành lập ngày 14 tháng 10 năm 1930, trải qua các thời kỳ cách mạng luôn trung thành với Đảng và dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Mục đích của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tin cậy trong khối liên minh vững chắc công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Hội Nông dân Việt Nam tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng Hội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động; nâng cao vai trò đại diện, phát huy quyền làm chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân.
Phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần cách mạng, lao động sáng tạo, cần kiệm, tự lực, tự cường, đoàn kết của nông dân; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng văn hoá, giữ vững quốc phòng, an ninh, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương I. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI Điều 1: Chức năng
1. Tập hợp, vận động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt.
2. Đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
3. Chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân; tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân trong sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Điều 2: Nhiệm vụ
1. Tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, nông dân hiểu và tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của Hội. Khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, ý chí cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, lao động sáng tạo của nông dân.
2. Vận động, tập hợp, làm nòng cốt tổ chức các phong trào nông dân phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh; xây dựng nông thôn mới.
3. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân. Trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn; hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn. Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ, dạy nghề, khoa học công nghệ giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, bảo vệ môi trường.
4. Đoàn kết, tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, phát triển và nâng cao chất lượng hội viên. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh về mọi mặt; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
5. Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tham gia giám sát và phản biện xã hội theo quy chế; tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Kịp thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của nông dân với Đảng và Nhà nước; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nông dân; góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
6. Mở rộng hoạt động đối ngoại theo quan điểm, đường lối của Đảng, tăng cường hợp tác, trao đổi, học tập kinh nghiệm, tiến bộ khoa học kỹ thuật, quảng bá hàng hoá nông sản, văn hoá Việt Nam với tổ chức nông dân, tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong khu vực và trên thế giới.
2. Uỷ viên ban chấp hành từ cơ sở trở lên đương nhiên là hội viên Hội Nông dân Việt Nam.
Điều 4: Nhiệm vụ của hội viên
1. Chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Hội, sinh hoạt và đóng hội phí đầy đủ theo quy định của Ban Thường vụ Trung ương Hội.
2. Gương mẫu và tuyên truyền, vận động nông dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội; đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư; gia đình văn hoá; thực hiện nghĩa vụ công dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; tuyên truyền, vận động phát triển hội viên; tham gia các hoạt động và phong trào nông dân ở địa phương, xây dựng quỹ hoạt động Hội.
2. Được Hội hướng dẫn, giúp đỡ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
3. Được ứng cử, đề cử, bầu cử vào các cơ quan lãnh đạo của Hội.
Điều 6: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
Hội Nông dân Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Hội được bầu cử trực tiếp bằng phiếu kín.
Điều 7: Hệ thống tổ chức của Hội
Hội Nông dân Việt Nam gồm bốn cấp:
– Trung ương;
– Cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương);
– Cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh);
– Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và tương đương).
Điều 8: Đại hội Hội Nông dân các cấp
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội Nông dân Việt Nam là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp là đại hội cấp đó.
1. Số lượng và cơ cấu đại biểu đại hội cấp nào do ban chấp hành cấp trên trực tiếp hướng dẫn và do ban chấp hành cấp đó quyết định. Đại hội chỉ hợp lệ khi có mặt hai phần ba (2/3) tổng số hội viên (nếu là đại hội toàn thể hội viên) hoặc hai phần ba (2/3) tổng số đại biểu được triệu tập trở lên (nếu là đại hội đại biểu).
2. Đại biểu chính thức của đại hội gồm: Uỷ viên ban chấp hành đương nhiệm của cấp đó, đại biểu do đại hội cấp dưới bầu lên, đại biểu do ban chấp hành cấp triệu tập đại hội chỉ định. Số đại biểu chỉ định không quá năm phần trăm (5%) tổng số đại biểu được triệu tập.
4. Nhiệm kỳ Đại hội các cấp là 5 năm. Trường hợp đặc biệt, đại hội nhiệm kỳ có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn thời gian quy định, nhưng không quá một năm và phải được Hội cấp trên trực tiếp đồng ý bằng văn bản.
Điều 9: Ban chấp hành Hội Nông dân các cấp
1. Số lượng và cơ cấu ban chấp hành cấp nào do ban chấp hành Hội cấp trên trực tiếp hướng dẫn và do đại hội cấp đó quyết định. Trong nhiệm kỳ, nếu số lượng uỷ viên ban chấp hành khuyết thì hội nghị ban chấp hành hoặc hội nghị đại biểu bầu bổ sung. Số uỷ viên ban chấp hành được bầu cử bổ sung cấp tỉnh và Trung ương không quá một phần hai (1/2) so với số uỷ viên ban chấp hành do đại hội quyết định; cấp huyện và cấp cơ sở được bổ sung đủ số lượng uỷ viên ban chấp hành mà đại hội đã quyết định. (24/08/2012)
2. Ban chấp hành là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội, ban chấp hành cấp dưới phải được ban chấp hành cấp trên trực tiếp công nhận. Ban chấp hành bầu ban thường vụ, bầu chủ tịch, các phó chủ tịch trong số uỷ viên ban thường vụ. Số lượng và cơ cấu ban thường vụ do ban chấp hành quyết định, tổng số uỷ viên ban thường vụ không quá một phần ba (1/3) tổng số uỷ viên ban chấp hành, trường hợp khuyết được bầu bổ sung cho đủ số lượng. Thường trực (không phải là một cấp) gồm chủ tịch, các phó chủ tịch thay mặt ban thường vụ giải quyết công việc giữa hai kỳ hội nghị ban thường vụ theo nghị quyết, chủ trương của ban chấp hành, ban thường vụ.
3. Trường hợp cần thiết, ban chấp hành Hội cấp trên trực tiếp có quyền chỉ định ban chấp hành, ban thường vụ, các chức danh chủ chốt của Hội cấp dưới.
Nhiệm kỳ của ban chấp hành, ban thường vụ, các chức danh chủ chốt được chỉ định không nhất thiết đủ 5 năm.
4. Ban Thường vụ Trung ương Hội thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Hội chỉ đạo các cấp Hội tổ chức thực hiện nghị quyết Đại hội và các nghị quyết của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương Hội. Ban Thường vụ Trung ương Hội thành lập Văn phòng, các Ban chuyên môn, đơn vị sự nghiệp làm tham mưu, giúp việc. Ban Thường vụ tỉnh, thành Hội thành lập Văn phòng và các Ban chuyên môn, đơn vị sự nghiệp theo hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Hội. Cấp huyện và cơ sở phân công cán bộ phụ trách các mặt công tác của Hội, hoặc thành lập các bộ phận, tổ chức kiêm nhiệm giúp việc khi cần.
5. Ban chấp hành từ cấp huyện trở lên họp thường kỳ một năm hai lần, Ban chấp hành cơ sở họp thường kỳ một tháng một lần. Ban thường vụ cấp tỉnh, huyện và cơ sở họp thường kỳ một tháng một lần, Ban Thường vụ Trung ương Hội họp ít nhất ba tháng một lần. Khi cần thiết ban chấp hành, ban thường vụ các cấp họp bất thường. Hội nghị ban chấp hành, ban thường vụ chỉ hợp lệ khi có mặt hai phần ba (2/3) số uỷ viên được triệu tập trở lên. Nghị quyết ban chấp hành, ban thường vụ có giá trị khi quá một phần hai (1/2) tổng số uỷ viên ban chấp hành hay ban thường vụ được triệu tập biểu quyết đồng ý. Uỷ viên ban chấp hành nghỉ hưu, nghỉ công tác hoặc chuyển công tác khác đương nhiên không còn là uỷ viên của ban chấp hành.
6. Ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ xin rút khỏi ban chấp hành ở cấp nào do ban chấp hành cấp đó xem xét, đề nghị lên ban thường vụ cấp trên trực tiếp quyết định; đối với ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.
Điều 10: Nhiệm vụ của Ban chấp hành từ cấp huyện trở lên
1. Tổ chức thực hiện và hướng dẫn Hội cấp dưới thực hiện Điều lệ và nghị quyết của Hội; nghiên cứu thi hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh về mọi mặt.
2. Phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tổ chức hướng dẫn hội viên, nông dân thi đua thực hiện các phong trào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng nông thôn mới.
3. Chuẩn bị nội dung, nhân sự ban chấp hành và tổ chức đại hội cấp mình khi hết nhiệm kỳ.
4. Xem xét, quyết định việc thành lập, sáp nhập, chia tách, chấm dứt hoạt động tổ chức Hội cấp dưới trực tiếp.
Điều 11: Tổ chức cơ sở Hội
Tổ chức cơ sở Hội Nông dân là nền tảng của Hội, là nơi trực tiếp với hội viên, nông dân. Tổ chức cơ sở Hội theo đơn vị xã, phường, thị trấn. Những đơn vị kinh tế nông, lâm trường, hợp tác xã nếu có nhu cầu thành lập tổ chức Hội Nông dân và được Hội cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định thì thành lập tổ chức Hội phù hợp.
Điều 12: Nhiệm vụ của ban chấp hành cơ sở Hội
1. Hướng dẫn các chi Hội, tổ Hội học tập, thực hiện Điều lệ và nghị quyết, chỉ thị của Hội; các nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy, chính quyền cơ sở.
2. Thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động; phối hợp với chính quyền, các ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể ở cơ sở tuyên truyền, vận động nông dân thực hiện các phong trào phát triển kinh tế- xã hội, tham gia kinh tế hợp tác và hợp tác xã, làng nghề, trang trại và các loại hình kinh tế tập thể khác. Tổ chức hoạt động hỗ trợ, tư vấn, dịch vụ giúp nông dân phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân.
3. Nâng cao chất lượng hội viên; xem xét, quyết định kết nạp hội viên; bồi dưỡng cán bộ Hội; duy trì nề nếp sinh hoạt với nội dung thiết thực; xây dựng quỹ Hội, thu nộp hội phí đúng quy định.
4. Kiểm tra việc thực hiện Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Hội; phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể giám sát thực hiện chính sách, pháp luật ở nông thôn; tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; bồi dưỡng và giới thiệu với Đảng những cán bộ, hội viên ưu tú để Đảng xem xét, kết nạp.
5. Thường xuyên phản ảnh tình hình tổ chức hoạt động của Hội, tình hình sản xuất, đời sống, tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị của hội viên, nông dân với cấp uỷ Đảng, chính quyền cùng cấp và Hội cấp trên.
6. Chuẩn bị nội dung, nhân sự ban chấp hành và tổ chức Đại hội khi hết nhiệm kỳ.
Điều 13: Chi Hội
Chi Hội là đơn vị hành động, cầu nối của ban chấp hành cơ sở với hội viên, nông dân. Chi Hội tổ chức theo thôn, ấp, bản, làng, khu phố, hợp tác xã và theo nghề nghiệp. Chi Hội có thể chia thành nhiều tổ Hội. Chi Hội tổ chức hội nghị bầu chi Hội trưởng, chi Hội phó, nhiệm kỳ hai năm rưỡi và bầu đại biểu đi dự đại hội Hội Nông dân cấp cơ sở. Việc bầu cử tiến hành bằng hình thức bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết. Chi Hội họp ba tháng một lần, khi cần thiết có thể họp bất thường.
Điều 14: Nhiệm vụ của chi Hội
1. Tổ chức học tập, phổ biến chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Hội cấp trên đến hội viên, nông dân. Chi Hội phối hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở thôn, ấp, bản, làng, khu phố…, vận động nông dân thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật và nghĩa vụ công dân với Nhà nước. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, vận động hoà giải tranh chấp trong nội bộ nông dân; nòng cốt trong các phong trào phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới.
2. Hướng dẫn các tổ Hội học tập nâng cao chất lượng và phát triển hội viên, sinh hoạt tổ Hội, thu nộp hội phí, xây dựng quỹ Hội; đoàn kết tương trợ giúp nhau trong sản xuất và đời sống.
3. Hàng tháng chi Hội phải báo cáo với ban chấp hành cơ sở và tổ chức Đảng cùng cấp về tình hình tổ chức, hoạt động của Hội, sản xuất, đời sống và tâm tư nguyện vọng của hội viên, nông dân.
Điều 15: Tổ Hội
Tổ Hội là đơn vị dưới chi Hội, được thành lập theo địa bàn dân cư, theo nghề nghiệp, đơn vị kinh tế, tổ hợp tác,… cho phù hợp và thuận tiện sinh hoạt. Tổ Hội có tổ trưởng và tổ phó do hội viên cử. Mỗi tháng tổ Hội họp một lần.
Điều 16: Nhiệm vụ của tổ Hội
Nhiệm vụ của tổ Hội là tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân đoàn kết, tương trợ, hợp tác lao động sản xuất, thực hiện nghĩa vụ công dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân, vận động hội viên, nông dân xây dựng gia đình văn hoá, giữ gìn an ninh trật tự, hoà giải những vụ tranh chấp của hội viên, nông dân; thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển hội viên, xây dựng quỹ Hội, thu nộp hội phí theo quy định.
Điều 17: Công tác kiểm tra
Ban Chấp hành, Ban Thường vụ các cấp thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra nhằm phục vụ yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức và hoạt động của Hội. Ban Thường vụ Hội Nông dân cấp nào lập ra ban kiểm tra của Hội cấp đó.
Điều 18: Ban kiểm tra
Ban kiểm tra giúp ban chấp hành, ban thường vụ thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Hội gồm những nội dung sau:
1. Kiểm tra, giám sát cán bộ, hội viên, tổ chức Hội cấp dưới về chấp hành Điều lệ Hội, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Hội.
2. Kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài chính Hội, thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội của Hội cùng cấp và cấp dưới.
3. Tham gia hoà giải và giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của nông dân; giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền của Hội.
4. Giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nông thôn.
Điều 19: Khen thưởng
Tổ chức Hội, cán bộ, hội viên và những người có công với tổ chức Hội, với giai cấp nông dân tuỳ theo thành tích, được Hội khen thưởng hoặc đề nghị Nhà nước khen thưởng.
Các hình thức khen thưởng của Hội do Ban chấp hành Trung ương Hội quy định.
Điều 20: Kỷ luật
1. Tổ chức Hội, cán bộ, hội viên có sai phạm, tuỳ theo mức độ mà Hội có các hình thức kỷ luật sau đây:
– Đối với tổ chức: khiển trách, cảnh cáo, giải tán.
– Đối với cán bộ: khiển trách, cảnh cáo, cách chức.
– Đối với hội viên: khiển trách, cảnh cáo, xoá tên và thu hồi thẻ hội viên.
2. Thẩm quyền thi hành kỷ luật do Ban Thường vụ Trung ương Hội quy định.
Tài chính của Hội chi cho các hoạt động của Hội.
Điều 22: Quản lý, sử dụng tài chính của Hội
Các cấp Hội thực hiện chế độ quản lý, sử dụng tài chính theo quy định của Nhà nước và của Trung ương Hội.
Điều 23: Chấp hành Điều lệ Hội
Các cấp Hội và cán bộ, hội viên có nhiệm vụ chấp hành Điều lệ Hội. Ban Chấp hành Trung ương Hộicó trách nhiệm hướng dẫn thi hành Điều lệ này.
Điều 24: Sửa đổi Điều lệ Hội
Việc sửa đổi Điều lệ Hội do Đại hội đại biểu toàn quốc hoặc Hội nghị đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam quyết định./.
3. Hướng dẫn thi hành điều lệ hội nông dân Việt NamHƯỚNG DẪN Một số vấn đề cụ thể về thi hành Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam
Căn cứ Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam (đã được Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VII thông qua ngày 12/12/2023) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (khóa VII) ngày 23/7/2023; Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số điều của Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam như sau:
1. Điều 3: Đối tượng và điều kiện trở thành hội viên 1.1- Đối tượng, điều kiện kết nạp (khoản 1):
– Tính đến thời điểm kết nạp, người được kết nạp vào Hội phải đủ 18 tuổi.
+ Những người đang lao động trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du lịch…
+ Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp… cấp xã trở lên (bao gồm cả cán bộ không chuyên trách cấp xã).
+ Cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động nghỉ hưu sống ở nông thôn hoặc nơi có tổ chức Hội.
+ Các nhà khoa học, các doanh nhân, giám đốc hoặc chủ tịch hội đồng quản trị hợp tác xã trong các ngành nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại; cán bộ kỹ thuật, nghệ nhân…..
+ Học sinh đang học các trường trung học phổ thông; học sinh, sinh viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học là con em nông dân hoặc xuất thân từ nông thôn gắn bó với nông nghiệp, nông thôn.
1.2- Xét kết nạp hội viên trong một số trường hợp:
Hội Nông dân các cấp có trách nhiệm tuyên truyền, vận động để kết nạp:
– Học sinh trong các trường trung học phổ thông từ đủ 18 tuổi có nguyện vọng vào Hội, tích cực, tự nguyện tham gia các hoạt động do Hội tổ chức thì chi Hội hoặc Hội cơ sở nơi học sinh đó cư trú xem xét kết nạp trên cơ sở trao đổi, thống nhất với ban giám hiệu nhà trường nơi học sinh đó đang học tập và cấp ủy nơi cư trú.
– Học sinh, sinh viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học có nguyện vọng vào Hội, tích cực, tự nguyện tham gia các hoạt động do Hội tổ chức thì ban thường vụ Hội Nông dân cấp cơ sở hoặc cấp huyện/cấp tỉnh/cấp trung ương nơi trường đó đóng trên địa bàn xem xét kết nạp, sau khi có sự thống nhất với cấp ủy và ban lãnh đạo nhà trường trên cơ sở phù hợp với nguyện vọng và điều kiện cư trú, học tập của học sinh, sinh viên vào Hội.
– Các nhà khoa học, các doanh nhân, trí thức trẻ có nguyện vọng vào Hội, tích cực tham gia và đóng góp cho các hoạt động của Hội thì ban thường vụ Hội Nông dân cấp cơ sở hoặc cấp huyện, cấp tỉnh, cấp trung ương xem xét kết nạp trên cơ sở phù hợp với nguyện vọng, điều kiện cư trú, làm việc của người vào Hội.
– Giám đốc hoặc chủ tịch hội đồng quản trị hợp tác xã trong các ngành nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại…do ban thường vụ Hội cấp cơ sở xem xét, kết nạp.
– Trường hợp người có nguyện vọng xin vào Hội nhưng nơi đó chưa có chi Hội hoặc tổ Hội thì việc kết nạp hội viên do ban thường vụ Hội cấp cơ sở hoặc cấp huyện/cấp tỉnh/cấp trung ương xem xét và kết nạp.
1.3- Thủ tục kết nạp hội viên (khoản 1):
– Người xin vào Hội phải tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện có đơn gửi chi Hội hoặc tổ Hội (nơi có tổ Hội).
– Được phổ biến, quán triệt về Điều lệ Hội và những kiến thức cơ bản về Hội trước khi kết nạp.
– Chi Hội tổ chức hội nghị toàn thể hội viên hoặc hội nghị ban chấp hành chi Hội mở rộng (đối với chi Hội có đông hội viên và được chia thành các tổ Hội) để xem xét, lựa chọn người đủ điều kiện, tiêu chuẩn và lập danh sách đề nghị lên ban thường vụ Hội cơ sở xét và ra quyết định kết nạp.
– Khi nhận được văn bản đề nghị xét kết nạp hội viên của chi Hội, ban thường vụ Hội cơ sở có trách nhiệm xem xét kết nạp vào cuộc họp gần nhất và ra quyết định kết nạp hội viên. Nếu có trường hợp không được xét kết nạp thì phải trả lời bằng văn bản lý do không được kết nạp cho chi Hội để chi Hội thông báo cho người xin vào Hội biết.
– Khi có quyết định kết nạp hội viên, chi Hội mời những người có tên trong danh sách được kết nạp dự cuộc họp chi Hội gần nhất và công bố quyết định kết nạp hội viên mới (nơi có tổ Hội thì công bố tại tổ Hội nhưng phải thông báo cho toàn thể chi Hội biết vào kỳ họp gần nhất). Thời gian được công nhận là hội viên tính từ ngày ghi trên quyết định kết nạp.
1.4- Công tác quản lý hội viên
– Chi Hội, tổ Hội, ban chấp hành Hội cơ sở phải có Sổ danh sách hội viên theo dõi kết nạp hội viên, sự biến động hội viên và phát Thẻ hội viên theo mẫu của Trung ương Hội ban hành.
– Các cấp Hội, nhất là cơ sở Hội có thể áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý hội viên phù hợp với xu hướng phát triển hiện nay.
– Các cấp Hội có trách nhiệm báo cáo đầy đủ tình hình biến động hội viên của cấp mình đối với Hội cấp trên trực tiếp. Đối với tổ Hội, chi Hội, cơ sở Hội thực hiện báo cáo hàng quý; đối với cấp huyện, cấp tỉnh thực hiện báo cáo 6 tháng, 1 năm.
– Khi hội viên thay đổi nơi cư trú thì báo cáo chi Hội nơi đi, chi Hội có trách nhiệm báo cáo ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp. Đến nơi cư trú mới, hội viên báo cáo, xuất trình thẻ hội viên hoặc giấy giới thiệu của Hội theo mẫu của Trung ương Hội ban hành với tổ chức Hội cơ sở nơi đến cư trú để được tiếp tục tham gia sinh hoạt Hội.
1.4.2- Quản lý hội viên đi lao động ở xa, thời gian không ổn định; hội viên đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài; hội viên trở thành công nhân trong các khu công nghiệp, trong các doanh nghiệp ở nông thôn
Hội viên đi lao động ở xa, thời gian không ổn định là những hội viên rời khỏi địa phương nơi đăng ký hộ khẩu thường trú đến địa phương khác để lao động với việc làm và thời gian không ổn định, không có điều kiện sinh hoạt Hội thường xuyên nơi cư trú.
a) Trách nhiệm của hội viên:
– Đối với hội viên đi lao động ở xa, thời gian không ổn định:
+ Trước mỗi đợt đi lao động ở xa phải báo cáo với ban chấp hành chi Hội (qua chi hội trưởng) về địa chỉ nơi đến để chi Hội, Hội cơ sở hướng dẫn thủ tục chuyển sinh hoạt Hội tạm thời hoặc báo cáo chi Hội xin tạm dừng sinh hoạt (trong trường hợp nơi đến lao động không có tổ chức Hội và không thể tham gia sinh hoạt Hội được).
+ Khi đến nơi lao động, hội viên liên hệ với chi Hội, Hội cơ sở nơi đến để đăng ký tham gia sinh hoạt Hội; được dùng thẻ hội viên hoặc giấy giới thiệu chuyển sinh hoạt để sinh hoạt tạm thời.
+ Trường hợp hội viên đi lao động, hoặc làm ăn xa nhưng vẫn đi, về thường xuyên và đảm bảo sinh hoạt với chi Hội hoặc tổ Hội ít nhất 02 lần/năm, đóng hội phí đầy đủ, có đóng góp cho các hoạt động của chi Hội, tổ Hội thì vẫn là hội viên được tính vào số hội viên hiện có của chi Hội, tổ Hội.
– Đối với hội viên đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, trước khi đi phải báo cáo ban chấp hành chi Hội (qua chi hội trưởng) để được tạm dừng sinh hoạt Hội và số hội viên này không tính vào số hội viên hiện có của chi Hội khi báo cáo Hội cấp trên. Khi hội viên trở lại sinh sống ở địa phương thì báo cáo chi Hội để được xem xét tiếp tục tham gia sinh hoạt Hội.
– Hội viên làm công nhân trong các khu công nghiệp, trong các doanh nghiệp (đi khỏi nơi cư trú) không thể tham gia sinh hoạt Hội được thì trước khi đi làm phải báo cáo ban chấp hành chi Hội (qua chi hội trưởng) để được tạm dừng sinh hoạt Hội và số hội viên này không tính vào số hội viên hiện có của chi Hội khi báo cáo Hội cấp trên. Khi thôi làm công nhân, trở lại địa phương lao động, sản xuất, kinh doanh thì báo cáo chi Hội để được tiếp tục tham gia sinh hoạt Hội.
b) Trách nhiệm của cơ sở Hội nơi hội viên đi:
Chi Hội lập sổ theo dõi danh sách hội viên kèm theo địa chỉ nơi đến của số hội viên đi lao động ở xa, thời gian không ổn định; hội viên đi xuất khẩu lao động; hội viên làm công nhân trong các khu công nghiệp, trong các doanh nghiệp và báo cáo cho Hội cơ sở để theo dõi. Hội cơ sở chuyển sinh hoạt hội tạm thời cho hội viên bằng giấy giới thiệu hoặc hướng dẫn hội viên dùng thẻ hội viên để đăng ký sinh hoạt tạm thời. Số hội viên này không tính vào số hội viên thực tế hiện có của chi Hội khi báo cáo với cấp trên.
c) Trách nhiệm của cơ sở Hội nơi hội viên đến:
– Hội cơ sở tiếp nhận thủ tục sinh hoạt tạm thời và giới thiệu hội viên về các chi Hội. Số hội viên này được tính vào số hội viên hiện có của chi Hội tiếp nhận khi báo cáo với Hội cấp trên.
– Những địa bàn tập trung đông hội viên là lao động tự do và đã có đăng ký tạm trú thì Hội cơ sở ở nơi đó có thể thành lập chi Hội hoặc tổ Hội trực thuộc để tổ chức sinh hoạt và các hoạt động cho hội viên.
1.4.3- Sinh hoạt của hội viên:
– Việc tổ chức sinh hoạt cho hội viên phải phù hợp với từng đối tượng, điều kiện lao động, công tác và học tập của hội viên.
+ Hội viên sinh sống và lao động ở nông thôn thì tham gia sinh hoạt tại chi Hội, tổ Hội được tổ chức theo địa bàn dân cư, theo nghề nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác…
+ Hội viên là học sinh thuộc trường trung học phổ thông sinh hoạt tại chi Hội, tổ Hội tại địa bàn nông thôn nơi đang sinh sống.
+ Hội viên là ủy viên ban chấp hành Hội Nông dân cấp huyện trở lên sinh hoạt tại các kỳ họp của ban chấp hành và các cuộc hội thảo, hội nghị…cấp mình tham gia.
+ Hội viên là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp (nơi không có chi Hội, tổ Hội) thì tham gia sinh hoạt Hội tại cơ quan chuyên trách Hội Nông dân cấp huyện/cấp tỉnh/cấp trung ương tổ chức.
+ Hội viên là sinh viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học sinh hoạt tại chi Hội, tổ Hội được thành lập trong trường hoặc sinh hoạt tại cơ quan chuyên trách Hội Nông dân cấp cơ sở/cấp huyện/cấp tỉnh/cấp trung ương trực tiếp quản lý.
+ Hội viên là giám đốc hoặc chủ tịch hội đồng quản trị hợp tác xã trong các ngành nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại sinh hoạt tại tổ chức Hội nơi cư trú.
– Cách thức và nội dung sinh hoạt đối với hội viên là các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, học sinh, sinh viên, trí thức trẻ do cơ quan chuyên trách Hội Nông dân cấp trực tiếp quản lý lựa chọn và chuẩn bị.
1.4.4- Xem xét miễn sinh hoạt:
– Đối với hội viên tuổi cao, sức yếu, hội viên ốm đau dài ngày, nếu vì lý do sức khỏe không tham gia sinh hoạt và các hoạt động của Hội được nhưng vẫn có nguyện vọng gắn bó với tổ chức Hội thì báo cáo chi Hội xem xét để được miễn sinh hoạt và các hoạt động của Hội. Chi Hội báo cáo ban thường vụ Hội cơ sở biết theo dõi.
* Nhiệm vụ, quyền lợi của hội viên được miễn sinh hoạt và hoạt động Hội.
+ Nhiệm vụ: Thực hiện nhiệm vụ của hội viên được quy định tại Điều 4, Điều lệ Hội phù hợp với sức khỏe.
+ Quyền lợi: Được mời dự Hội nghị toàn thể hội viên. Được hưởng quyền lợi đầy đủ như hội viên đang tham gia sinh hoạt và hoạt động của Hội.
+ Nếu vi phạm tư cách hội viên vẫn bị xử lý kỷ luật theo quy định của Điều lệ Hội.
1.4.5- Trường hợp đưa ra khỏi danh sách hội viên và tổ chức Hội:
Đối với những hội viên không gắn bó, thiết tha với Hội và làm đơn xin ra khỏi Hội thì chi Hội báo cáo ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp để đưa ra khỏi danh sách hội viên và tổ chức Hội. Hội viên đã xin ra khỏi Hội thì không xem xét kết nạp lại.
1.4.6- Sử dụng huy hiệu Hội
Cán bộ, hội viên đeo huy hiệu Hội vào ngày lễ lớn của Hội, các hoạt động mang ý nghĩa chính trị – xã hội và các buổi sinh hoạt tập thể của Hội.
– Thẻ hội viên có giá trị chứng nhận tư cách, trách nhiệm và quyền lợi chính trị – xã hội của hội viên, được cấp để thực hiện nhiệm vụ của hội viên và của Hội Nông dân Việt Nam. Thẻ hội viên do Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam quy định và phát hành.
– Hội viên được phát Thẻ trong lễ kết nạp hoặc chậm nhất không quá 3 tháng kể từ ngày được kết nạp vào Hội. Việc cấp Thẻ hội viên do ban thường vụ Hội Nông dân các tỉnh, thành phố quyết định. Thẻ có dán ảnh và đóng dấu nổi của Hội Nông dân tỉnh, thành phố. Hội viên được nhận Thẻ hội viên phải thực hiện đúng những quy định về sử dụng và bảo quản thẻ hội viên.
– Thẻ hội viên chỉ được sử dụng trong công tác và sinh hoạt nội bộ Hội Nông dân và xuất trình khi cần.
– Hội viên không được cho người khác mượn thẻ; Thẻ hội viên không còn giá trị khi hội viên không còn tham gia tổ chức Hội.
– Hội viên bị xóa tên thì thu hồi thẻ. Ban thường vụ Hội cơ sở có trách nhiệm thu hồi thẻ và báo cáo Hội cấp trên trực tiếp.
– Khi thẻ bị mất hoặc hư hỏng thì phải báo cho chi Hội biết; chi Hội lập danh sách và có văn bản báo cáo lên Hội cấp trên đề nghị cấp lại hoặc đổi thẻ hội viên.
1.4.8- Trách nhiệm của các cấp Hội trong việc phát và quản lý thẻ hội viên
a) Hội cơ sở: Lập danh sách hội viên được đề nghị cấp thẻ và làm thủ tục đề nghị Hội cấp trên trực tiếp xem xét phát thẻ hội viên, cấp lại thẻ hội viên bị mất hoặc bị hỏng. Sau khi có quyết định phát thẻ của cấp Hội có thẩm quyền, chi Hội tổ chức phát thẻ hội viên tại cuộc họp chi Hội hoặc tổ Hội.
b) Hội cấp trên trực tiếp của tổ chức Hội cơ sở: Chỉ đạo, hướng dẫn, xem xét và lập danh sách đề nghị ban thường vụ Hội cấp tỉnh cấp thẻ hội viên; lập danh sách hội viên được phát thẻ và quản lý sổ phát thẻ hội viên.
c) Hội Nông dân tỉnh, thành phố: Ra quyết định phát thẻ hội viên, cấp lại thẻ hội viên bị mất hoặc bị hỏng; tổ chức viết thẻ hội viên. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra Hội cấp dưới thực hiện việc phát và quản lý thẻ hội viên. Hằng năm báo cáo Trung ương ương Hội.
d) Đối với hội viên thuộc cấp huyện/cấp tỉnh/cấp trung ương quản lý thì cấp đó có trách nhiệm đề nghị hoặc quyết định cấp thẻ cho hội viên.
2. Điều 4. Nhiệm vụ của hội viên
– Thực hiện theo 3 nhiệm vụ quy định trong Điều lệ Hội.
– Hội viên sinh hoạt tại đâu thì có trách nhiệm đóng hội phí tại đó.
3. Điều 5: Quyền lợi của hội viên 3.1- Quyền ứng cử, đề cử, bầu cử (Khoản 3):
– Hội viên có quyền ứng cử để bầu vào ban chấp hành các cấp của Hội, dù hội viên đó là đại biểu hay không là đại biểu của đại hội.
– Việc ứng cử, đề cử, bầu cử thực hiện theo Quy chế bầu cử trong hệ thống Hội Nông dân Việt Nam.
– Người tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử là đảng viên thực hiện theo Quy định của Đảng cộng sản Việt Nam.
– Đối với hội viên là sinh viên có đóng góp tích cực, hiệu quả cho hoạt động của Hội, khi tốt nghiệp loại giỏi hoặc xuất sắc thì được các cấp Hội giới thiệu để dự thi tuyển vào các cơ quan chuyên trách của Hội Nông dân ở các cấp theo quy định khi có nhu cầu.
4. Điều 6: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động 4.1- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của cơ quan lãnh đạo Hội các cấp
– Hội Nông dân Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên.
– Hội nghị ban chấp hành, ban thường vụ chỉ hợp lệ khi có mặt hai phần ba (2/3) số uỷ viên được triệu tập trở lên. Nghị quyết ban chấp hành, ban thường vụ chỉ có giá trị khi quá một phần hai (1/2) tổng số uỷ viên ban chấp hành hay ban thường vụ được triệu tập biểu quyết đồng ý.
Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Thành viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu ý kiến và được báo cáo với Hội cấp trên trực tiếp. Khi chưa có ý kiến của Hội cấp trên trực tiếp, thành viên đó phải chấp hành nghị quyết của tập thể và không được truyền bá ý kiến cá nhân và làm trái với nghị quyết. Khi thi hành, phải thực hiện nghị quyết của tập thể.
4.2- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Hội được bầu cử trực tiếp bằng phiếu kín.
Việc bầu cử thực hiện theo Quy chế bầu cử trong hệ thống Hội Nông dân Việt Nam.
– Trong trường hợp bầu không có số dư, khi bầu lần thứ nhất chưa đủ số lượng cần bầu, nếu đại hội hoặc hội nghị quyết định tiếp tục bầu lần thứ hai để bổ sung đủ số lượng còn thiếu, thì lựa chọn và giới thiệu nhân sự trong diện số dư mà ban chấp hành cấp triệu tập đại hội hoặc hội nghị đã chuẩn bị (nếu có); không giới thiệu nhân sự vừa bầu không trúng cử ở lần thứ nhất.
– Trường hợp những người bầu không trúng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Hội các cấp tại Đại hội hoặc hội nghị thì ít nhất phải 6 tháng sau nếu đủ tiêu chuẩn, uy tín thì mới giới thiệu để bầu lại.
4.3- Công tác bầu cử của Hội
Thực hiện theo Quy chế bầu cử trong hệ thống Hội Nông dân Việt Nam.
4.3.1- Việc bỏ phiếu kín áp dụng trong các trường hợp:
a) Bầu ban chấp hành trong đại hội, bầu ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch hoặc bầu bổ sung ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ và chức danh chủ tịch, phó chủ tịch.
b) Bầu đại biểu đi dự đại hội Hội Nông dân cấp trên trực tiếp.
c) Bầu ủy viên ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra.
4.3.2 – Bầu cử tại Hội nghị ban chấp hành, hội nghị ủy ban kiểm tra
– Triệu tập phiên họp đầu tiên của ban chấp hành khóa mới là đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch khóa trước được bầu tái cử. Nếu chủ tịch và phó chủ tịch khóa trước không tái cử thì Đoàn chủ tịch đại hội chỉ định triệu tập viên là một đồng chí mới được bầu vào ban chấp hành, chủ trì phiên họp cho đến khi bầu xong chủ toạ hội nghị.
– Hội nghị ban chấp hành bầu ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch, ủy ban kiểm tra và chủ nhiệm ủy ban kiểm tra. Hội nghị ủy ban kiểm tra bầu phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra.
– Ban chấp hành có quyền quyết định số lượng ủy viên ban thường vụ, phó chủ tịch, ủy viên ủy ban kiểm tra, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra. Số lượng ủy viên ban thường vụ không quá một phần ba (1/3) ủy viên ban chấp hành; số lượng ủy viên ủy ban kiểm tra không nhiều hơn số lượng ủy viên ban thường vụ và thực hiện theo Đề án Ủy ban kiểm tra Hội Nông dân các cấp nhiệm kỳ 2023 – 2023 của Ban Thường vụ Trung ương Hội.
4.4- Quy trình, thủ tục công nhận kết quả bầu cử ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch
Ban chấp hành, ban thường vụ và chức danh chủ tịch, các phó chủ tịch Hội từ cấp tỉnh trở xuống phải được ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp công nhận.
– Trong vòng 15 ngày làm việc, ban thường vụ khóa mới báo cáo lên ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp các biên bản bầu cử ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch kèm theo danh sách trích ngang và tờ trình đề nghị công nhận kết quả bầu cử. Tờ trình do chủ tịch hoặc phó chủ tịch (đối với nơi chưa bầu chủ tịch) mới được bầu tại Hội nghị ban chấp hành lần thứ nhất ký.
– Đồng chí chủ tịch, phó chủ tịch điều hành và ký các văn bản theo thẩm quyền ngay sau khi công bố kết quả bầu cử tại đại hội. Riêng kiện toàn bổ sung tại hội nghị ban chấp hành được điều hành các công việc ngay, nhưng chỉ khi có quyết định chuẩn y của ban thường vụ Hội cấp trên thì đồng chí chủ tịch, phó chủ tịch mới được ký các văn bản theo thẩm quyền.
– Trường hợp phát hiện có sự vi phạm Điều lệ Hội và nguyên tắc, thủ tục bầu cử thì ban thường vụ cấp trên trực tiếp có quyền không công nhận kết quả bầu cử và chỉ đạo tiến hành bầu lại; hoặc thấy có một hoặc một số chức danh đã được bầu nhưng không đảm bảo nguyên tắc, tiêu chuẩn quy định thì có quyền không công nhận một hoặc một số chức danh đó.
– Trong vòng 15 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ của cấp dưới, ban thường vụ Hội cấp trên phải ra quyết định công nhận. Nếu không công nhận phải thông báo và nêu rõ lý do cho Hội cấp dưới biết bằng văn bản.
– Trường hợp đã có quyết định công nhận của ban thường vụ Hội cấp trên, sau đó mới phát hiện có sự vi phạm Điều lệ Hội và nguyên tắc, thủ tục bầu cử của Hội thì ban thường vụ cấp ra quyết định công nhận có quyền thu hồi và hủy quyết định công nhận đối với tất cả danh sách hoặc của một/một số người trong danh sách.
5. Điều 7: Hệ thống tổ chức của Hội
5.1- Hệ thống tổ chức Hội được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước.
5.2- Tổ chức Hội được xác định tương đương với tổ chức Hội cơ sở được thành lập theo đơn vị hành chính là những tổ chức do ban thường vụ Hội Nông dân cấp tỉnh, cấp huyện phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thống nhất thành lập trong một số nông trường, lâm trường, hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ…mà thực hiện chức năng, nhiệm vụ tương đương Hội Nông dân cấp cơ sở, được cấp ủy cùng cấp và ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp đồng ý.
6. Điều 8: Đại hội Hội Nông dân các cấp 6.1- Đại biểu đại hội 6.1.1- Số lượng đại biểu (khoản 1):
Ban chấp hành cấp triệu tập đại hội xem xét, quyết định số lượng đại biểu dự đại hội căn cứ vào số lượng, đơn vị trực thuộc, số lượng hội viên và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương trên cơ sở hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Hội và ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp.
Ở những nơi có số lượng hội viên dưới 100 thì tổ chức đại hội toàn thể hội viên trừ trường hợp đặc biệt sẽ do ban chấp hành Hội cấp trên trực tiếp quyết định trên cơ sở thống nhất ý kiến với cấp ủy của cấp triệu tập đại hội.
– Ủy viên ban chấp hành thuộc cấp triệu tập đại hội ở đơn vị nào là đại biểu chính thức của đoàn đại biểu đơn vị đó. Đối với ủy viên ban chấp hành cơ cấu, không chuyên trách thì thuộc đoàn đại biểu của cơ quan Hội chuyên trách cấp triệu tập đại hội.
– Đại biểu do đại hội, hội nghị đại biểu cấp dưới bầu lên theo phân bổ số lượng của ban chấp hành cấp triệu tập đại hội. Ban chấp hành cấp triệu tập đại hội phân bổ số lượng đại biểu đại hội theo những căn cứ chủ yếu sau:
+ Số lượng hội viên.
+ Số lượng tổ chức Hội trực thuộc cấp đó.
+ Tính đặc thù, những đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo, dân tộc…
– Đại biểu chỉ định: Đại biểu chỉ định là những đại biểu do ban chấp hành cấp triệu tập đại hội quyết định ngoài số đại biểu đương nhiên và đại biểu bầu. Chỉ chỉ định những trường hợp cần thiết và phải bảo đảm tiêu chuẩn đại biểu. Không chỉ định những người đã bầu cử ở cấp dưới không trúng cử chính thức hoặc dự khuyết làm đại biểu của đại hội. Số lượng đại biểu được chỉ định không quá 5% số lượng đại biểu chính thức của đại hội.
6.1.3- Bầu đại biểu chính thức và đại biểu dự khuyết dự đại hội cấp trên
Việc bầu cử đại biểu dự đại hội cấp trên (cả chính thức và dự khuyết) thực hiện theo Quy chế bầu cử trong hệ thống Hội Nông dân Việt Nam.
6.1.4- Thay thế đại biểu
Việc chuyển đại biểu dự khuyết thành đại biểu chính thức do ban thường vụ cấp triệu tập đại hội quyết định.
– Nguyên tắc thay thế đại biểu:
+ Đại biểu dự khuyết được bầu thuộc đoàn đại biểu nào thì được thay thế đại biểu chính thức của đoàn đại biểu đó.
+ Đại biểu dự khuyết được chuyển thành đại biểu chính thức theo thứ tự số phiếu bầu từ cao xuống thấp; nếu phiếu bầu bằng nhau thì người có thành tích nổi trội, có quá trình cống hiến cho tổ chức Hội và phong trào nông dân nhiều hơn sẽ được ưu tiên lựa chọn và trên cơ sở có tính đến yếu tố cơ cấu của đề án đoàn đại biểu.
– Khi đại biểu chính thức đã được bầu tại đại hội vắng mặt có lý do chính đáng thì đại biểu dự khuyết thay thế. Ban thường vụ Hội nơi có sự thay đổi đại biểu phải có tờ trình báo cáo lý do và đề cử đại biểu dự khuyết thay thế gửi ban thường vụ Hội cấp triệu tập đại hội và phải được ban thường vụ Hội cấp triệu tập đại hội đồng ý bằng văn bản.
Trường hợp đã thay thế hết số đại biểu dự khuyết mà số đại biểu chính thức đã được bầu vẫn thiếu, nếu cần thiết thì ban chấp hành cấp triệu tập đại hội xem xét, quyết định chỉ định bổ sung theo đề nghị của ban thường vụ Hội cấp dưới nhưng với điều kiện tổng số đại biểu chỉ định vẫn nằm trong giới hạn tỉ lệ 5% so với tổng số đại biểu được triệu tập.
6.1.5- Bác tư cách đại biểu
Đại hội cấp triệu tập có trách nhiệm xem xét bác bỏ tư cách đại biểu trong các trường hợp sau:
– Đại biểu đang trong thời gian bị cơ quan pháp luật khởi tố, truy tố. Đại biểu được bầu đang trong thời gian bị thi hành kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên.
– Đại biểu được bầu không đúng quy định của Điều lệ Hội.
– Trong thời gian đang diễn ra đại hội, đại biểu vi phạm pháp luật hoặc vi phạm nội quy đại hội gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức Hội.
6.2- Về kéo dài hoặc rút ngắn thời gian nhiệm kỳ đại hội (khoản 4)
– Các trường hợp đặc biệt có thể tổ chức đại hội sớm hoặc muộn hơn nhưng không được quá một năm (mười hai tháng), bao gồm:
Khi có thay đổi địa giới hành chính (chia tách, sáp nhập, hợp nhất hoặc thành lập mới) theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp có quyền quyết định điều chỉnh thời gian nhiệm kỳ đại hội lần thứ nhất để phù hợp với thời gian nhiệm kỳ đại hội Hội cùng cấp trong cả hệ thống Hội. Nhiệm kỳ của tổ chức Hội mới không nhất thiết phải đủ 5 năm.
– Ban Thường vụ Trung ương Hội xem xét, quyết định kéo dài, rút ngắn nhiệm kỳ đại hội Hội cấp tỉnh khi cần. Ban thường vụ Hội Nông dân cấp tỉnh xem xét, quyết định kéo dài, rút ngắn nhiệm kỳ đại hội Hội Nông dân cấp huyện và cấp cơ sở để phù hợp với nhiệm kỳ chung.
– Trước khi quyết định việc kéo dài hoặc rút ngắn thời gian nhiệm kỳ đại hội phải báo cáo và được sự đồng ý (bằng văn bản) của ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp và cấp ủy cùng cấp của cấp triệu tập đại hội.
6.3- Hội nghị đại biểu 6.3.1- Số lượng đại biểu:
Không nhiều hơn số lượng đại biểu của đại hội nhiệm kỳ. Việc phân bổ số lượng đại biểu của hội nghị đại biểu như căn cứ phân bổ số lượng đại biểu đại hội.
6.3.2- Thành phần đại biểu của Hội nghị đại biểu:
– Ủy viên ban chấp hành cấp triệu tập hội nghị không bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên mà chưa hết thời hạn áp dụng (Kể cả kỷ luật đảng, chính quyền, đoàn thể).
– Các đại biểu do ban chấp hành cấp dưới cử lên, gồm:
+ Cán bộ chủ chốt của ban chấp hành cấp dưới.
+ Một số cán bộ Hội chuyên trách, không chuyên trách.
+ Hội viên tiêu biểu.
7. Điều 9: Ban chấp hành Hội Nông dân các cấp 7.1- Xây dựng ban chấp hành khóa mới (khoản 1)
Xây dựng ban chấp hành phải bảo đảm các yếu tố, tiêu chuẩn do Ban Chấp hành Trung ương Hội quy định.
7.1.2- Cơ cấu ban chấp hành
– Cán bộ chuyên trách, không chuyên trách, chủ chốt các cấp Hội; nhà khoa học, giám đốc hợp tác xã/chủ tịch Hội đồng quản trị hợp tác xã, chủ trang trại, hội viên tiêu biểu có điều kiện và khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
– Chú trọng cán bộ trưởng thành từ phong trào nông dân, từ cơ sở. Đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội…
– Những cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội, các doanh nghiệp, nếu có đủ điều kiện và tín nhiệm, được cấp uỷ Đảng và ban chấp hành Hội cùng cấp giới thiệu thì được đề cử để đại hội bầu vào ban chấp hành hoặc hội nghị ban chấp hành bầu bổ sung vào ban chấp hành Hội các cấp.
7.1.3- Số lượng ủy viên ban chấp hành Hội các cấp
– Trước mỗi kỳ Đại hội căn cứ vào chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Hội, Ban Thường vụ Trung ương Hội hướng dẫn cụ thể việc chuẩn bị và tiến hành đại hội hội nông dân các cấp, trong đó có quy định về số lượng (tối đa, tối thiểu) của ban chấp hành các cấp. Ban chấp hành Hội Nông dân cấp tỉnh căn cứ vào hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Hội để cụ thể hoá và hướng dẫn ban chấp hành Hội Nông dân cấp dưới thực hiện.
– Số lượng uỷ viên ban chấp hành cấp nào do đại hội cấp đó quyết định, nhưng phải đảm bảo số lượng tối thiểu và không vượt quá số lượng tối đa do ban thường vụ cấp trên trực tiếp hướng dẫn.
7.2- Bổ sung ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch (khoản 2)
Chỉ bổ sung ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch khi khuyết các chức danh đó.
7.2.1- Các trường hợp bầu bổ sung
– Bầu chưa đủ số lượng do đại hội hoặc hội nghị quyết định.
– Khi ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch nghỉ hưu, nghỉ công tác, chuyển công tác (không thuộc cơ cấu ban chấp hành, ban thường vụ), bị kỷ luật cách chức hoặc vì lý do cá nhân khác xin rút tên.
– Trong trường hợp khi sáp nhập, hợp nhất số ủy viên ban chấp hành khuyết so với đề án thì có thể xem xét để bầu bổ sung.
7.2.2- Nguyên tắc bầu bổ sung
– Bầu bổ sung ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch phải đảm bảo đúng cơ cấu, số lượng và tiêu chuẩn đã được đại hội hoặc hội nghị thông qua.
– Trước khi bầu bổ sung uỷ viên ban chấp hành, uỷ viên ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch ở mỗi cấp, ban thường vụ cấp đề nghị phải có văn bản báo cáo cụ thể và phải được sự thống nhất, đồng ý của cấp ủy cùng cấp theo quy định phân cấp quản lý cán bộ và ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp bằng văn bản. Văn bản đề nghị kiện toàn, bổ sung cần ghi rõ lý do bổ sung.
– Bổ sung người chưa là ủy viên ban chấp hành vào ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch của cấp đó: ban chấp hành tiến hành bầu bổ sung người đó vào ban chấp hành sau đó bầu vào ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch.
– Trong cùng một cuộc họp, người vừa được bầu bổ sung trúng cử vào ban chấp hành được quyền ứng cử, đề cử và bầu cử các chức danh khác tại cuộc họp đó.
Quy trình, thủ tục, hồ sơ kiện toàn nhân sự và công nhận kết quả bầu cử ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch
Bước 2: Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp xem xét, cho ý kiến và trả lời bằng văn bản.
Bước 3: Khi có ý kiến đồng ý của cấp ủy cùng cấp và ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp, ban thường vụ Hội Nông dân cấp bầu bổ sung triệu tập hội nghị ban chấp hành và tiến hành bầu bổ sung các chức danh theo quy định.
Bước 4: Ban thường vụ Hội Nông dân cấp bầu bổ sung hoàn thiện thủ tục, hồ sơ trình ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định công nhận.
* Hồ sơ kiện toàn: – Hồ sơ xin chủ trương kiện toàn, bổ sung nhân sự
+ Tờ trình của ban thường vụ Hội Nông dân cấp bầu bổ sung xin chủ trương kiện toàn ban chấp hành, ban thường vụ (cần nêu rõ lý do và tình hình ban chấp hành, ban thường vụ ở thời điểm kiện toàn).
+ Danh sách trích ngang nhân sự cụ thể.
+ Đối với nhân sự là ủy viên ban thường vụ phải có thêm lý lịch theo mẫu 2C/TCTW-98 của Ban Tổ chức Trung ương quy định.
– Hồ sơ đề nghị công nhận các chức danh kiện toàn, bổ sung
+ Tờ trình của ban thường vụ Hội Nông dân cấp bầu bổ sung đề nghị công nhận chức danh kiện toàn.
+ Trích biên bản Hội nghị ban chấp hành (phần điều hành kiện toàn nhân sự).
+ Biên bản kiểm phiếu bầu từng chức danh.
Bước 2: Thực hiện quy trình công tác cán bộ theo quy định, có thể thực hiện một trong các trường hợp sau:
– Căn cứ giới thiệu của ban thường vụ cấp ủy về nhân sự cụ thể để thực hiện quy trình kiện toàn.
– Tùy theo tình hình thực tế của địa phương, tổ chức Đảng, ban thường vụ Hội Nông dân cấp kiện toàn có thể lựa chọn nhân sự phù hợp để tham mưu với cấp ủy cho thực hiện quy trình công tác cán bộ.
Bước 3: Sau khi có phương án nhân sự cụ thể:
– Đối với Hội Nông dân các tỉnh, thành phố: Đảng đoàn Hội Nông dân tỉnh/thành phố tham mưu cho ban thường vụ tỉnh/thành ủy có văn bản trao đổi với Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam về chủ trương và nhân sự cụ thể dự kiến kiện toàn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch của Hội Nông dân tỉnh/thành phố.
– Đối với Hội Nông dân cấp huyện, cấp cơ sở: Ban thường vụ Hội Nông dân cấp huyện, cấp cơ sở tham mưu cho cấp ủy cùng cấp có văn bản trao đổi với ban thường vụ Hội Nông dân cấp trên về chủ trương và nhân sự cụ thể dự kiến kiện toàn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch của cấp huyện hoặc cấp xã.
Bước 4: Trên cơ sở chỉ đạo của cấp ủy cùng cấp và ý kiến đồng ý bằng văn bản về chủ trương kiện toàn nhân sự của Đảng đoàn (hoặc ban thường vụ) Hội cấp trên trực tiếp, ban thường vụ Hội Nông dân nơi kiện toàn triệu tập hội nghị ban chấp hành tiến hành bầu bổ sung các chức danh theo quy định.
Bước 5: Ban thường vụ Hội Nông dân nơi kiện toàn hoàn thiện thủ tục, hồ sơ trình ban thường vụ cấp trên trực tiếp xem xét quyết định công nhận.
* Hồ sơ đề nghị kiện toàn và công nhận các chức danh: – Hồ sơ xin ý kiến kiện toàn, bổ sung nhân sự:
+ Đề nghị cấp ủy có văn bản gửi Đảng đoàn (đối với trung ương, tỉnh, thành phố), ban thường vụ Hội Nông dân (đối với cấp huyện, cấp xã) trao đổi về công tác cán bộ để thống nhất chủ trương và nhân sự cụ thể kiện toàn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch (Kèm theo trích ngang lý lịch nhân sự dự kiến giới thiệu).
+ Tờ trình của ban thường vụ Hội Nông dân nơi kiện toàn gửi ban thường vụ Hội Nông dân cấp trên trực tiếp báo cáo tình hình ban chấp hành, ban thường vụ, nhân sự chủ tịch, phó chủ tịch. Trên cơ sở đó, xin ý kiến và chủ trương kiện toàn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch (Kèm theo sơ yếu lý lịch cán bộ theo mẫu 2C/TCTW-98; Văn bản điều động, phân công công tác của cấp ủy đối với nhân sự được luân chuyển (nếu có).
– Hồ sơ đề nghị công nhận chức danh được kiện toàn, bổ sung
+ Tờ trình của ban thường vụ Hội Nông dân nơi kiện toàn đề nghị công nhận chức danh được kiện toàn, bổ sung.
+ Trích biên bản Hội nghị ban chấp hành (phần điều hành kiện toàn nhân sự).
+ Biên bản kiểm phiếu bầu từng chức danh.
7.3- C hỉ định ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ, chủ tịch và phó chủ tịch các cấp Hội (khoản 3):
– Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp chỉ định ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ và các chức danh chủ chủ tịch, phó chủ tịch trong trường hợp tổ chức Hội mới được thành lập hoặc được thành lập mới do có sự thay đổi về địa giới hành chính như chia tách, sáp nhập, hợp nhất trong nhiệm kỳ; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ mới cho phù hợp.
– Trong trường hợp thực hiện kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ ở cơ sở theo chỉ đạo của cấp ủy, số lượng ủy viên ban chấp hành Hội cấp xã hoặc của chi Hội còn dưới 50% so với tổng số ủy viên ban chấp hành theo Đề án được Đại hội thông qua, thì ban thường vụ Hội Nông dân cấp huyện có quyền chỉ định bổ sung ủy viên ban chấp hành Hội Nông dân cấp xã; ban thường vụ Hội Nông dân cấp xã có quyền chỉ định bổ sung ủy viên ban chấp hành chi Hội. Số lượng ủy viên ban chấp hành cấp xã hoặc của chi Hội sau khi đã được chỉ định bổ sung không được vượt quá 2/3 tổng số ủy viên ban chấp hành theo đề án đã được đại hội thông qua.
Quy trình chỉ định
– Trường hợp chia tách, ban thường vụ Hội khóa đương nhiệm nơi có sự thay đổi về địa giới hành chính báo cáo về dự kiến nhân sự phù hợp với cơ cấu tổ chức mới với Hội cấp trên trực tiếp sau khi có sự thống nhất của cấp ủy cùng cấp; ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp làm việc với ban chấp hành khóa đương nhiệm và cấp ủy nơi có sự thay đổi về địa giới hành chính dự kiến nhân sự để chỉ định.
– Trường hợp sáp nhập, hợp nhất hoặc thành lập mới tổ chức Hội, ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp làm việc với ban chấp hành Hội và cấp ủy của các tổ chức Hội được sáp nhập, hợp nhất hoặc thành lập mới.
– Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp ra quyết định chỉ định ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ, chủ tịch và phó chủ tịch.
7.4- Việc đương nhiên không còn là ủy viên ban chấp hành; cho rút tên khỏi ban chấp hành, ban thường vụ, thôi giữ chức danh chủ tịch, phó chủ tịch (khoản 5, 6):
– Uỷ viên ban chấp hành có quyết định nghỉ hưu hoặc có thông báo nghỉ công tác (kể từ thời điểm quyết định nghỉ hưu hoặc thông báo nghỉ công tác có hiệu lực thi hành) thì đương nhiên không còn là uỷ viên ban chấp hành và các chức vụ khác do ban chấp hành bầu.
– Uỷ viên ban chấp hành chuyển công tác khác mà vị trí công tác mới không thuộc thành phần cơ cấu tham gia ban chấp hành kể từ thời điểm quyết định chuyển công tác có hiệu lực thi hành thì đương nhiên không còn là uỷ viên ban chấp hành.
– Đối với ủy viên ban chấp hành chuyển công tác trong hệ thống Hội:
+ Trường hợp ủy viên ban chấp hành Hội cấp dưới (không là ủy viên ban chấp hành Hội cấp trên) khi chuyển công tác lên cơ quan chuyên trách Hội cấp trên thì đương nhiên thôi tham gia ban chấp hành Hội cấp dưới.
+ Trường hợp ủy viên ban chấp hành Hội cấp dưới đồng thời là ủy viên ban chấp hành Hội cấp trên nếu chuyển công tác lên cơ quan chuyên trách Hội cấp trên thì đương nhiên thôi tham gia ban chấp hành Hội cấp dưới; việc tham gia hay không tham gia ban chấp hành Hội cấp trên do ban chấp hành Hội cấp trên quyết định.
– Ủy viên ban chấp hành giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc thành phần cơ cấu tham gia ban chấp hành khi có quyết định thôi giữ chức vụ cũng đương nhiên không còn là ủy viên ban chấp hành.
– Đối với người tham gia ban chấp hành nhiều cấp: Nếu bị kỷ luật cách chức hoặc rút tên khỏi ban chấp hành cấp dưới thì không còn là ủy viên ban chấp hành của các cấp trên.
– Đối với các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch Hội các cấp trước khi cho rút tên hoặc thôi tham gia ban chấp hành phải báo cáo bằng văn bản và được sự đồng ý của cấp ủy đảng cùng cấp và Hội cấp trên trực tiếp.
– Nếu rút tên trong ban chấp hành thì không còn là ủy viên ban thường vụ và không còn giữ chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch (nếu có). Nếu chỉ rút tên trong ban thường vụ thì không còn giữ chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch (nếu có) nhưng vẫn còn là ủy viên ban chấp hành. Nếu chỉ thôi giữ chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thì vẫn còn là ủy viên ban thường vụ, uỷ viên ban chấp hành.
8. Khoản 4, Điều 10: Thành lập, chia tách, sáp nhập, chấm dứt hoạt động tổ chức Hội 8.1- Thành lập tổ chức Hội
a) Thẩm quyền: Việc thành lập tổ chức Hội do Hội cấp trên trực tiếp quyết định sau khi hiệp y chủ trương thống nhất với cấp ủy cùng cấp.
b) Quy trình, thủ tục:
– Cấp ủy Đảng nơi dự kiến thành lập tổ chức Hội gửi hồ sơ đến tổ chức Hội có thẩm quyền thành lập, gồm:
+ Văn bản đề nghị thành lập tổ chức Hội tại địa phương.
+ Đề án thành lập tổ chức Hội.
+ Dự thảo phương hướng hoạt động của tổ chức Hội trong thời gian lâm thời.
+ Danh sách trích ngang ban chấp hành lâm thời dự kiến chỉ định.
+ Lý lịch theo mẫu quy định đối với các chức danh ủy viên ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch.
+ Danh sách hội viên.
– Tổ chức Hội có thẩm quyền tiếp nhận và thẩm định hồ sơ; làm việc với cấp ủy nơi thành lập .
– Tổ chức Hội có thẩm quyền ra quyết định thành lập, phối hợp với cấp ủy tổ chức lễ công bố quyết định thành lập.
Lưu ý: Trong trường hợp Hội cấp trên có chủ trương thành lập Hội cấp dưới thì chủ động làm việc với cấp ủy cấp dưới để thống nhất chủ trương thành lập.
8.2- Chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức Hội
a) Chia tách tổ chức Hội trong các trường hợp: Có sự chia tách đơn vị hành chính thành các đơn vị (như chia tách một tỉnh, huyện, xã thành nhiều tỉnh, huyện, xã) theo đó, tổ chức Hội thuộc các đơn vị này cũng chia tách thành hai hay nhiều tổ chức Hội.
b) Sáp nhập, hợp nhất tổ chức Hội trong các trường hợp: Có sự sáp nhập hoặc hợp nhất đơn vị hành chính thành một tổ chức Hội (như sáp nhập hoặc hợp nhất hai hay nhiều tỉnh, huyện, xã thành một tỉnh, huyện, xã) theo đó, tổ chức Hội thuộc các đơn vị này cũng sáp nhập, hợp nhất thành một tổ chức Hội.
Việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức Hội có thể diễn ra đồng thời trong trường hợp chia tách các bộ phận của hai hay nhiều đơn vị hành chính để sáp nhập hoặc hợp nhất các bộ phận đó lại thành một đơn vị (như tách một hay nhiều huyện của hai hay nhiều tỉnh để thành lập tỉnh mới; tách một hay nhiều xã của hai hay nhiều huyện để thành lập một huyện mới; tách một hay nhiều thôn, ấp, bản của một hay nhiều xã để thành lập một xã mới) theo đó tổ chức Hội của những đơn vị này cũng được chia tách để sáp nhập, hợp nhất thành một tổ chức Hội mới.
Việc xác định cấp của tổ chức Hội được chia tách, sáp nhập, hợp nhất do Hội cấp trên trực tiếp quyết định.
c) Thẩm quyền quyết định chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức Hội – Chia tách tổ chức Hội:
– Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp xem xét quyết định việc chia tách tổ chức Hội, sau khi thống nhất với cấp ủy Đảng của đơn vị chia tách.
– Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp chỉ định ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch của các tổ chức Hội mới chia tách.
– Sáp nhập, hợp nhất tổ chức Hội:
– Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp xem xét quyết định việc sáp nhập, hợp nhất tổ chức Hội sau khi thống nhất với cấp ủy Đảng của đơn vị mới sáp nhập, hợp nhất.
– Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp chỉ định ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch, phó chủ tịch của các tổ chức Hội mới sáp nhập, hợp nhất
d) Hồ sơ chia tách; sáp nhập, hợp nhất gồm:
+ Văn bản đề nghị của ban thường vụ Hội nơi được chia tách hoặc sáp nhập, hợp nhất các tổ chức Hội gửi ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp.
+ Đề án chia tách hoặc sáp nhập, hợp nhất tổ chức Hội có ý kiến nhất trí của cấp ủy.
+ Bản sao quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc chia tách hoặc sáp nhập, hợp nhất đơn vị hành chính.
b) Quy trình, thủ tục chấm dứt hoạt động:
– Ban chấp hành tổ chức Hội đơn vị có nhu cầu chấm dứt hoạt động báo cáo thực trạng công tác Hội và phong trào nông dân, tình hình tổ chức Hội của đơn vị mình đồng thời đề xuất phương án giải quyết với Hội cấp trên trực tiếp và cấp ủy cùng cấp.
– Có văn bản đề nghị được chấm dứt hoạt động gửi ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp.
– Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp làm việc với ban chấp hành tổ chức Hội nơi muốn chấm dứt hoạt động và cấp ủy trực tiếp quản lý, xác định rõ lý do chấm dứt hoạt động; đồng thời báo cáo cấp ủy cùng cấp về phương án giải quyết.
a) Cấp chuyển giao, tiếp nhận:
Chuyển giao và tiếp nhận một tổ chức Hội được tiến hành khi có sự thay đổi địa giới hành chính.
– Ban thường vụ Hội cơ sở chuyển giao, tiếp nhận chi hội.
– Ban thường vụ Hội cấp huyện chuyển giao, tiếp nhận Hội cơ sở.
b) Thủ tục chuyển giao và tiếp nhận:
– Ban thường vụ Hội cấp tỉnh chuyển giao, tiếp nhận Hội cấp huyện.
– Công văn đề nghị của tổ chức Hội chuyển đi gửi ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp và cấp Hội tiếp nhận
– Công văn của Hội cấp trên trực tiếp có tổ chức Hội chuyển đi gửi cấp Hội tiếp nhận.
– Danh sách ban chấp hành, cán bộ Hội chuyên trách.
– Báo cáo số lượng, chất lượng hội viên.
c) Nội dung chuyển giao và tiếp nhận:
– Quyết định của cấp Hội có trách nhiệm tiếp nhận.
– Tình hình tư tưởng của cán bộ, hội viên
– Công tác tổ chức cán bộ.
– Những nhiệm vụ công tác đang tiến hành cần tiếp tục giải quyết.
8.5- Giải thể tổ chức Hội
– Các loại văn bản, sổ sách.
a) Trường hợp áp dụng: Khi các đơn vị đã giải thể về mặt hành chính theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
c) Quy trình, thủ tục giải thể tổ chức Hội:
b) Thẩm quyền: Cấp nào có thẩm quyền quyết định thành lập thì cấp đó có thẩm quyền ra quyết định giải thể và báo cáo Hội cấp trên trực tiếp.
– Tổ chức Hội phải giải thể có văn bản báo cáo cấp ủy đảng về việc đề nghị giải thể.
– Hội cấp trên trực tiếp xem xét, làm việc với tổ chức Hội và cấp ủy đảng thống nhất chủ trương.
+ Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp ban hành quyết định giải thể.
8.6- Cách tính nhiệm kỳ của tổ chức Hội thành lập mới, chia tách, sáp nhập, hợp nhất a) Thành lập mới, sáp nhập, hợp nhất:
Trong trường hợp Hội cấp dưới không chủ động thực hiện quy trình giải thể tổ chức Hội, Hội cấp trên có quyền làm việc với cấp ủy cấp dưới để thống nhất chủ trương giải thể tổ chức Hội.
Nhiệm kỳ (không nhất thiết phải đủ 5 năm) được tính từ thời điểm tiến hành đại hội, số thứ tự đại hội được tính là lần thứ nhất (trừ trường hợp sáp nhập tổ chức Hội cấp thấp hơn trở thành một bộ phận của tổ chức Hội cấp trên thì số thứ tự được tính theo nhiệm kỳ của tổ chức Hội cấp trên).
b) Chia tách:
Trường hợp sáp nhập 02 tổ chức Hội trở lên cùng cấp, có số nhiệm kỳ bằng nhau thì số nhiệm kỳ của tổ chức Hội mới được sáp nhập được giữ nguyên.
– Các đơn vị không thay đổi tên gọi và cấp Hội thì nhiệm kỳ đại hội và số thứ tự đại hội được giữ nguyên.
– Các đơn vị thành lập với tên gọi mới và mô hình tổ chức bộ máy có sự thay đổi thì nhiệm kỳ được tính từ thời điểm tiến hành đại hội. Số thứ tự đại hội được tính là lần thứ nhất.
– Các đơn vị thay đổi tên gọi nhưng mô hình tổ chức bộ máy không có sự thay đổi thì nhiệm kỳ đại hội và số thứ tự đại hội được giữ nguyên, không thay đổi.
9. Điều 11: Tổ chức cơ sở Hội
8.7- Đối với chi Hội, tổ Hội: Ban thường vụ Hội cơ sở hoặc cấp trên trực tiếp quản lý quyết định việc thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất, chấm dứt hoạt động, giải thể chi hội trực thuộc. Quy trình được thực hiện như cấp cơ sở.
9.1– Cơ sở Hội là nền tảng của Hội, là cấp trên trực tiếp của chi Hội, là nơi trực tiếp với hội viên, nông dân; đoàn kết, tập hợp, vận động, hướng dẫn hội viên nông dân tương trợ, giúp đỡ nhau thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống; là nơi trực tiếp thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, các phong trào của Hội.
– Cơ sở Hội được thành lập theo đơn vị hành chính (xã, phường, thị trấn).
– Tổ chức Hội tương đương cấp cơ sở: Đối với những tổ chức Hội có tính chất đặc thù về nhiệm vụ chính trị, về đối tượng hội viên như nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, có mối liên hệ với nhiều ngành, nhiều đơn vị trong công tác… ; nếu có nhu cầu và đủ điều kiện, được sự thống nhất của cấp uỷ cùng cấp và Hội cấp trên đồng ý thì thành lập tổ chức Hội tương đương Hội Nông dân cấp cơ sở và do ban thường vụ Hội Nông dân cấp huyện quyết định.
Nếu tổ chức Hội tương đương cấp cơ sở có sự thay đổi, không còn đủ các điều kiện quy định thì ban thường vụ Hội cấp huyện xem xét, quyết định lại cho phù hợp và báo cáo lên ban thường vụ Hội Nông dân cấp tỉnh.
9.2- Trường hợp đặc thù tổ chức Hội cấp dưới không còn tổ chức Hội cấp trên trực tiếp thì Hội cấp trên kế tiếp trực tiếp chỉ đạo tổ chức Hội cấp dưới đó. Cụ thể như sau:
– Tại các quận, thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh, không có tổ chức Hội mà vẫn có cơ sở Hội thì ban thường vụ Hội Nông dân cấp tỉnh trực tiếp chỉ đạo và thống nhất với cấp uỷ của quận, thị, thành trực thuộc tỉnh để cử cán bộ theo dõi cơ sở Hội đó; việc công nhận uỷ viên ban chấp hành, ban thường vụ, chức danh chủ tịch, phó chủ tịch do ban thường vụ Hội cấp tỉnh quyết định.
– Trường hợp tổ chức Hội cấp cơ sở không còn mà vẫn còn chi Hội thì ban thường vụ Hội Nông dân cấp huyện trực tiếp chỉ đạo và thống nhất với cấp uỷ của xã, phường, thị trấn cử cán bộ theo dõi chi Hội đó. Việc công nhận ban chấp hành, chi hội trưởng, chi hội phó do ban thường vụ Hội cấp huyện quyết định.
9.3- Quy trình, thủ tục thành lập tổ chức cơ sở Hội :
– Trường hợp cấp cơ sở Hội và quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh không còn tổ chức Hội mà còn chi Hội thì ban thường vụ Hội Nông dân cấp tỉnh trực tiếp chỉ đạo và thống nhất với cấp uỷ xã, phường, thị trấn cử cán bộ theo dõi chi Hội đó. Việc công nhận ban chấp hành, chi hội trưởng, chi hội phó do ban thường vụ Hội Nông dân cấp tỉnh quyết định.
– Khi một đơn vị có đủ điều kiện và có nguyện vọng thành lập tổ chức cơ sở Hội, ban thường vụ Hội Nông dân cấp trên trực tiếp làm việc với cấp ủy nơi có nhu cầu thành lập để thống nhất về việc thành lập tổ chức cơ sở Hội, kết nạp hội viên, xem xét, lựa chọn nhân sự ban chấp hành, ban thường vụ và chức danh chủ chốt.
– Thủ tục:
+ Văn bản đề nghị thành lập của cấp uỷ nơi có nguyện vọng thành lập cơ sở Hội.
+ Đề án mô hình tổ chức cơ sở Hội và nhân sự cơ quan lãnh đạo mới.
+ Danh sách hội viên (nếu có); danh sách và đơn xin tham gia tổ chức Hội của nông dân và lao động khác.
+ Danh sách trích ngang đề cử ban chấp hành, ban thường vụ và chức danh lãnh đạo.
– Ban Thường vụ Hội Nông dân cấp trên trực tiếp ra quyết định công nhận hội viên, quyết định thành lập tổ chức cơ sở Hội và chỉ định ban chấp hành, ban thường vụ và chức danh lãnh đạo của tổ chức Hội được thành lập.
10. Điều 13: Chi Hội
– Tổ chức lễ ra mắt và công bố quyết định thành lập.
10.1- Vai trò, vị trí của chi Hội: Chi Hội là đơn vị hành động, là tế bào của Hội và là hạt nhân nòng cốt đoàn kết, tập hợp hội viên, nông dân.
10.2- Mô hình tổ chức chi Hội: Chi Hội tổ chức theo thôn, ấp, bản, làng, khu phố phù hợp với địa bàn dân cư và sự lãnh đạo của chi bộ; theo hợp tác xã, theo nghề nghiệp; chi Hội có thể được thành lập trong các trường trung cấp, cao đẳng, đại học.
Chi Hội nghề nghiệp trực thuộc Hội cơ sở; chi Hội trong các trường trung cấp, cao đẳng, đại học, trong các nhà khoa học, trí thức trẻ có thể trực thuộc cơ sở Hội hoặc cấp huyện/cấp tỉnh/cấp Trung ương quản lý.
Chi Hội có 100 hội viên trở lên thì được chia thành các tổ Hội theo địa bàn, đối tượng, tổ hợp tác, nghề nghiệp, sở thích. Chi Hội theo địa bàn dân cư nhưng hội viên sinh sống phân tán trên địa bàn rộng, đi lại khó khăn thì dưới 100 hội viên vẫn có thể chia thành các tổ Hội để thuận tiện cho việc sinh hoạt và tổ chức các hoạt động của Hội.
10.3- Quy trình, thủ tục thành lập chi Hội
Ngoài mô hình trên, tại các cơ sở Hội, có thể hình thành các câu lạc bộ, nhóm/tổ hội viên nông dân có tính chất đặc thù thuộc sự quản lý, điều hành của ban chấp hành cơ sở Hội hoặc của ban chấp hành chi Hội.
– Khi một đơn vị có đủ điều kiện và có nguyện vọng thành lập chi Hội, ban thường vụ Hội Nông dân cấp trên trực tiếp quản lý trao đổi thống nhất với cấp uỷ quản lý của nơi có nhu cầu thành lập chi Hội; đồng thời xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy cùng cấp để thống nhất về việc thành lập chi Hội, kết nạp hội viên, lựa chọn nhân sự cán bộ chi Hội (ban chấp hành, chi hội trưởng, chi hội phó).
– Thủ tục:
+ Văn bản của cấp uỷ đảng nơi có nguyện vọng thành lập chi Hội.
+ Danh sách trích ngang đề cử cán bộ chi Hội.
– Ban thường vụ Hội Nông dân cấp trên trực tiếp ra quyết định công nhận hội viên, quyết định thành lập chi Hội.
– Tổ chức lễ ra mắt và công bố quyết định thành lập.
Đại hội chi Hội: Chi Hội tổ chức đại hội toàn thể hội viên hoặc đại hội đại biểu hội viên (đối với chi Hội có trên 100 hội viên trở lên) để bầu ban chấp hành và bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên (nếu có). Ban chấp hành tổ chức hội nghị bầu chi hội trưởng, chi hội phó.
Trường hợp chi Hội có trên 100 hội viên mà vẫn có nguyện vọng tổ chức đại hội toàn thể hoặc chi Hội có dưới 100 hội viên nhưng muốn tổ chức đại hội đại biểu thì phải được sự đồng ý của cấp uỷ cùng cấp và Hội cấp trên trực tiếp. Số lượng đại biểu dự đại hội chi Hội (nếu là đại hội đại biểu), số lượng ban chấp hành, chi hội phó của chi hội do ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp quản lý hướng dẫn trên cơ sở được sự đồng ý của cấp ủy cùng cấp và Hội cấp trên trực tiếp. Số lượng chi hội phó có thể từ 1 – 3, tùy thuộc vào quy mô tổ chức và số lượng hội viên của từng chi Hội.
Ban chấp hành chi hội, chi hội trưởng, chi hội phó phải được ban thường vụ Hội cơ sở (hoặc ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp) ra quyết định công nhận.
10.5- Chi Hội họp định kỳ 3 tháng 01 lần, khi cần thiết có thể họp bất thường, ban chấp hành chi Hội họp định kỳ 01 tháng 01 lần, khi cần thiết có thể họp bất thường.
10.6– Nhiệm kỳ của chi Hội là 05 năm. Trường hợp đặc biệt có thể tổ chức sớm hơn hoặc muộn hơn nhưng không quá 12 tháng và phải được ban chấp hành cơ sở Hội (hoặc ban thường vụ Hội cấp trực tiếp quản lý) đồng ý.
Trong nhiệm kỳ, chi Hội được bầu bổ sung ban chấp hành, kiện toàn chi hội trưởng, chi hội phó khi khuyết nhân sự và không giới hạn số lần bầu bổ sung.
11. Điều 15: Tổ Hội
10.7– Ban thường vụ hội cấp trên trực tiếp chỉ định ủy viên ban chấp hành chi hội và các chức danh chi hội trưởng, chi hội phó trong trường hợp tổ chức Hội mới được thành lập hoặc được thành lập mới do có sự thay đổi về địa giới hành chính như chia tách, sáp nhập, hợp nhất trong nhiệm kỳ; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ mới cho phù hợp.
– Tổ Hội là đơn vị trực thuộc chi Hội, thành lập trên cơ sở các hội viên có cùng địa giới hành chính, điều kiện công tác, học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, nghề nghiệp, đơn vị kinh tế, tổ hợp tác phù hợp và thuận tiện cho việc sinh hoạt, hoạt động của chi Hội. Tổ Hội có thể thành lập trong các trường trung cấp, cao đẳng, đại học khi có đủ kiện về số lượng hội viên và được sự đồng ý của cấp ủy và ban lãnh đạo nhà trường.
Tổ Hội trong các trường trung cấp, cao đẳng, đại học, trong các nhà khoa học, trí thức trẻ có thể trực thuộc cơ sở Hội hoặc cấp huyện/cấp tỉnh/cấp trung ương quản lý.
12. Điều 17: Công tác kiểm tra
– Tổ Hội có tổ trưởng và 1 – 2 tổ phó do hội viên bầu ra. Số lượng tổ phó do chi Hội quyết định trên sơ sở tình hình thực tế và điều kiện cụ thể của từng tổ Hội và phải được ban thường vụ Hội cơ sở (hoặc ban thường vụ Hội cấp quản lý trực tiếp) đồng ý. Tổ Hội họp 01 tháng 01 lần.
13. Điều 18, 19, 20: Ủy ban kiểm tra của Hội
Thực hiện theo Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Hội do Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam ban hành.
13.1- Việc lập ủy ban kiểm tra Hội Nông dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở và công nhận ủy ban kiểm tra:
13.2- Về tổ chức bộ máy giúp việc ủy ban kiểm tra:
Thực hiện theo Đề án Ủy ban kiểm tra Hội Nông dân các cấp; Hướng dẫn quy trình lập Ủy ban Kiểm tra Hội Nông dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở nhiệm kỳ 2023 – 2023.
13.3- Về nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc, chế độ làm việc của ủy ban kiểm tra:
Thực hiện theo Đề án Ủy ban kiểm tra Hội Nông dân các cấp và Đề án cơ quan giúp việc Ủy ban kiểm tra Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
– Về nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc làm việc của ủy ban kiểm tra: Thực hiện theo Đề án Ủy ban Kiểm tra Hội Nông dân các cấp; Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hội, Ủy ban Kiểm tra Hội Nông dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở; Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Hội.
13.4- Việc bổ sung và cho rút tên ủy viên, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra hội nông dân các cấp: 13.4.1- Bổ sung ủy viên, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra a. Các trường hợp bầu bổ sung
– Về chế độ làm việc của ủy ban kiểm tra: Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hội, ủy ban kiểm tra Hội Nông dân cấp tỉnh, cấp huyện họp thường kỳ 6 tháng 1 lần, khi cần thiết thực hiện nhiệm vụ có thể họp đột xuất do thường trực ủy ban quyết định. Ủy ban kiểm tra Hội Nông dân cấp cơ sở họp thường kỳ 01 tháng 01 lần, khi cần thiết thực hiện nhiệm vụ có thể họp đột xuất do thường trực ủy ban quyết định. Thường trực ủy ban kiểm tra gồm chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra. Hội nghị ủy ban kiểm tra chỉ hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba (2/3) số ủy viên ủy ban kiểm tra được triệu tập có mặt; các kết luận, quyết định của ủy ban kiểm tra phải được trên 50% số ủy viên ủy ban kiểm tra được triệu tập đồng ý.
– Bầu chưa đủ số lượng do hội nghị ban chấp hành quyết định.
b. Nguyên tắc bầu bổ sung
– Khi ủy viên ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra nghỉ hưu, nghỉ công tác, chuyển công tác, bị kỷ luật cách chức hoặc vì lý do cá nhân khác xin rút tên.
– Bầu bổ sung ủy viên, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra phải đảm bảo đúng thành phần, cơ cấu, số lượng và tiêu chuẩn đã được hội nghị ban chấp hành thông qua.
c. Quy trình, hồ sơ kiện toàn nhân sự và công nhận kết quả bầu cử ủy viên, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra * Quy trình
– Trước khi bầu bổ sung uỷ viên, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra ở mỗi cấp, ban thường vụ cấp đề nghị phải có văn bản báo cáo cụ thể với ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp bằng văn bản. Đối với nhân sự chủ nhiệm ủy ban kiểm tra phải được sự đồng ý của cấp ủy cùng cấp theo quy định phân cấp quản lý cán bộ. Văn bản đề nghị kiện toàn, bổ sung cần ghi rõ lý do bổ sung.
Bước 2: Ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp xem xét và trả lời bằng văn bản.
Bước 3: Khi có ý kiến đồng ý của cấp ủy cùng cấp và ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp, Hội Nông dân cấp bầu bổ sung triệu tập hội nghị ban chấp hành cùng cấp và tiến hành bầu bổ sung các chức danh theo quy định.
Bước 4: Ban thường vụ Hội Nông dân cấp bầu bổ sung hoàn thiện hồ sơ trình ban thường vụ Hội cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định công nhận.
* Hồ sơ kiện toàn – Hồ sơ xin chủ trương kiện toàn, bổ sung nhân sự:
Bước 5: Báo cáo cấp ủy cùng cấp, ban thường vụ và ủy ban kiểm tra Hội Nông dân cấp trên.
+ Tờ trình của ban thường vụ Hội Nông dân cấp bầu bổ sung xin chủ trương kiện toàn ủy ban kiểm tra (cần nêu rõ lý do và tình hình ủy ban kiểm tra ở thời điểm kiện toàn).
+ Danh sách trích ngang nhân sự cụ thể.
– Hồ sơ đề nghị công nhận các chức danh kiện toàn, bổ sung:
+ Đối với nhân sự là chủ nhiệm ủy ban kiểm tra phải gửi thêm lý lịch theo mẫu 2C/TCTW-98.
+ Tờ trình của ban thường vụ Hội Nông dân cấp bầu bổ sung đề nghị công nhận chức danh kiện toàn.
+ Biên bản Hội nghị ban chấp hành về việc bầu ủy viên, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra.
+ Biên bản kiểm phiếu bầu từng chức danh.
13.4.2- Bổ sung phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra a. Các trường hợp bầu bổ sung
+ Danh sách trích ngang nhân sự cụ thể.
– Bầu chưa đủ số lượng do hội nghị ban chấp hành quyết định.
b. Nguyên tắc bầu bổ sung
– Khi phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra nghỉ hưu, nghỉ công tác, chuyển công tác, bị kỷ luật cách chức hoặc vì lý do cá nhân khác xin rút tên.
– Bầu bổ sung phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra phải đảm bảo đúng thành phần, cơ cấu, số lượng và tiêu chuẩn đã được hội nghị ban chấp hành thông qua.
c. Quy trình, hồ sơ kiện toàn nhân sự và đề nghị phê chuẩn chức danh phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra * Quy trình
– Trước khi bầu bổ sung phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra ở mỗi cấp, ủy ban kiểm tra phải có văn bản báo cáo cụ thể và được sự đồng ý của ban thường vụ cùng cấp trực tiếp bằng văn bản. Văn bản đề nghị kiện toàn, bổ sung cần ghi rõ lý do bổ sung.
Bước 1: Khi ủy ban kiểm tra Hội Nông dân cấp nào khuyết phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra thì ủy ban kiểm tra cấp đó báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của ban thường vụ cùng cấp bằng văn bản.
Bước 2: Ban thường vụ cùng cấp căn cứ đề án ủy ban kiểm tra đã được thông qua tại hội nghị ban chấp hành, tiêu chuẩn cụ thể đối với chức danh phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra để xem xét, giới thiệu nhân sự bầu bổ sung chức danh phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra bằng văn bản.
Bước 3: Khi có văn bản của ban thường vụ cùng cấp, ủy ban kiểm tra cấp bầu bổ sung triệu tập hội nghị ủy ban kiểm tra và tiến hành bầu bổ sung chức danh theo quy định.
* Hồ sơ đề nghị phê chuẩn chức danh phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra được kiện toàn, bổ sung:
Bước 4: Ủy ban kiểm tra Hội Nông dân cấp bầu bổ sung hoàn thiện hồ sơ trình ban thường vụ cùng cấp phê chuẩn chức danh phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra và báo cáo ủy ban kiểm tra hội cấp trên.
– Tờ trình của ủy ban kiểm tra cấp bầu bổ sung đề nghị phê chuẩn chức danh kiện toàn.
– Biên bản hội nghị ủy ban kiểm tra về việc bầu phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra.
– Biên bản kiểm phiếu bầu phó chủ nhiệm.
13.4.3- Việc đương nhiên không còn là ủy viên ủy ban kiểm tra; cho rút tên ủy viên ủy ban kiểm tra, thôi giữ chức danh chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra
– Danh sách trích ngang nhân sự cụ thể.
– Uỷ viên ủy ban kiểm tra có quyết định nghỉ hưu hoặc có thông báo nghỉ công tác (kể từ thời điểm quyết định nghỉ hưu hoặc thông báo nghỉ công tác có hiệu lực thi hành) thì đương nhiên không còn là uỷ viên ủy ban kiểm tra và các chức danh khác của ủy ban kiểm tra do ban chấp hành và ủy ban kiểm tra bầu.
– Đối với chức danh chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trước khi cho rút tên khỏi danh sách ủy ban kiểm tra phải báo cáo và được sự đồng ý của cấp ủy cùng cấp và Ban Thường vụ Hội cấp trên trực tiếp.
14. Điều 21: Khen thưởng
– Nếu rút tên khỏi chức danh ủy viên ủy ban kiểm tra thì không còn giữ chức danh chủ nhiệm, phó chủ nhiệm (nếu có). Nếu chỉ rút tên khỏi chức danh chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm thì vẫn còn là ủy viên ủy ban kiểm tra.
15. Điều 22: Kỷ luật
Thực hiện theo quy định về thi đua, khen thưởng trong hệ thống Hội Nông dân Việt Nam của Ban Thường vụ Trung ương Hội.
16. Điều 24: Quản lý, sử dụng tài chính của Hội
Thực hiện theo Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Hội do Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam ban hành.
Thực hiện theo quy định của Nhà nước và quy định của Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Hướng dẫn này được phổ biến trong toàn hệ thống Hội để thống nhất thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề gì chưa phù hợp các cấp Hội đề xuất, phản ánh về Trung ương Hội. Ban Chấp hành giao Ban Thường vụ Trung ương Hội xem xét sửa đổi, hướng dẫn bổ sung./.
Sửa Đổi, Bổ Sung Pháp Luật Tổ Chức Và Hoạt Động Của “Quốc Hội”
Sửa đổi, bổ sung pháp luật tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013
Bài viết này đề cập việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 đối với tổ chức và hoạt động của Quốc hội trên các khía cạnh: 1. Rà soát, bổ sung các nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội để phù hợp với nội dung của Hiến pháp mới; 2. Xây dựng cơ chế cụ thể để khắc phục tình trạng “quy hoạch treo” đối với một số nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội; minh thị một số nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội; 3. Rà soát, bổ sung các nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội để phù hợp với nội dung của Hiến pháp mới; tường minh một số nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội; 4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo định hướng bảo đảm “sứ mệnh” đại diện của Quốc hội; và 5. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần tập trung vào đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội.
TỪ KHÓA: Hiến pháp 2013, Quốc hội, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 02/2014
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/ 2013 đã kết tinh được trí tuệ của ý Đảng, lòng dân và sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị. Với bố cục 11 chương, 120 điều, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới.
Xây dựng một bản Hiến pháp “tráng lệ, vang vọng tiếng dân” đã khó, nhưng khó khăn hơn là việc triển khai thi hành Hiến pháp, đưa các điều khoản của Hiến pháp vào thực tiễn của cuộc sống; và đó mới là mục đích của việc xây dựng Hiến pháp. Chính vì vậy, tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp là nhiệm vụ trọng tâm của cả một hệ thống chính trị trong năm 2014 và những năm tiếp theo.
Đối với Quốc hội, mặc dù Hiến pháp mới đã có hiệu lực, nhưng tổ chức và hoạt động của thiết chế này vẫn chủ yếu dựa vào Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 (sửa đổi năm 2007). Theo Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/ 11/ 2013 của Quốc hội, việc sửa đổi, bổ sung các đạo luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có Luật tổ chức Quốc hội cần được tiến hành khẩn trương và trình Quốc hội xem xét, thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 10 (khoảng tháng 10 năm 2023).
1. Rà soát, bổ sung các nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội để phù hợp với nội dung của Hiến pháp năm 2013 2. Xây dựng cơ chế cụ thể để khắc phục tình trạng “quy hoạch treo” đối với một số nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội; minh thị một số nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hộiMột là, cần xây dựng cơ chế chi tiết và cụ thể để khắc phục tình trạng “quy hoạch treo” đối với một số nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội.
Thực tiễn ở Việt Nam trong những năm qua, một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội không được thực hiện, mang tính hình thức, hoặc thực hiện nhưng hiệu quả còn thấp, ví dụ: Quốc hội xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 2 Điều 70); Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 10 Điều 70); Quyết định đại xá (khoản 11 Điều 70); Quyết định trưng cầu ý dân (khoản 12 Điều 70).
Do vậy, cần xây dựng các đạo luật và cơ chế cụ thể để thực hiện, hoặc thực hiện thường xuyên, hiệu quả hơn các nhiệm vụ, quyền hạn này.
Hai là, minh thị một số nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội.
Mặc dù Hiến pháp quy định rõ một số nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, các nhiệm vụ quyền hạn này lại do các cơ quan khác thực hiện, hoặc “lạm quyền”, hoặc vai trò của Quốc hội còn mờ nhạt và rất hình thức.
Ví dụ: Quốc hội Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước (khoản 3 Điều 70); Quyết định chính sách dân tộc Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước (khoản 5 Điều 70).
Những nhiệm vụ, quyền hạn trên, vai trò của Quốc hội rất mờ nhạt (thực quyền từ phía Chính phủ); hay Hiến pháp quy định Quốc hội quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước (khoản 5), nhưng trên thực tế, chính sách này do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định (bằng Pháp lệnh).
3. Rà soát, bổ sung các nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội để phù hợp với nội dung của Hiến pháp năm 2013; tường minh một số nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hộiSo với Hiến pháp năm 1992, nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định tại Điều 74 Hiến pháp năm 2013, trong đó có một số nhiệm vụ, quyền hạn mới được bổ sung: Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 8) (thẩm quyền này theo Hiến pháp năm 1992 thuộc Chính phủ); Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (khoản 6); Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 12).
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với một số nhiệm vụ, quyền hạn như: giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh (khoản 2); Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (khoản 3); Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 4); Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội (khoản 5).
Một điều cần chú ý là: để Hiến pháp được tuân thủ và thực thi – yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền, trong thời gian tới, Ủy ban thường vụ Quốc hội cần quan tâm nhiều hơn tới việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh (khoản 2), đặc biệt là giải thích Hiến pháp năm 2013 – một nội dung rất quan trọng trong hoạt động triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.
4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần bảo đảm “sứ mệnh” đại diện của Quốc hộiTừ đầu thế kỷ XX, nhất là thời gian gần đây đang xảy ra những nghịch lý trong quá trình phát triển của các thiết chế đại diện: mặc dù các thiết chế này ngày càng trở thành những thiết chế trung tâmcủa chế độ dân chủ ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng cũng chính giai đoạn này đã chứng kiến sự quan liêu, xơ cứng, tính mất cân đối và thiếu tính hiệu quả trong hoạt động của các thiết chế đó, nhất là trong hoạt động lập pháp của Nghị viện/Quốc hội. Nhà chính trị học nổi tiếng người Italia Norberto Bobbio đã gọi Nghị viện là thiết chế của “những lời hứa hão” (broken promises), tức là đã xảy ra sự trái ngược giữa “cái được hứa và sự thật hiện hữu”[1] . Pier Ferdinando Casini, Chủ tịch tổ chức Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) cho rằng sự phát triển của các thiết chế đại diện đang đối mặt với sự khủng hoảng trong hoạt động lập pháp[2] . Người dân ở nhiều quốc gia đã đặt ra câu hỏi: các thiết chế đại diện, đặc biệt là Nghị viện/ Quốc hội có thực sự nói lên tiếng nói của họ, có đại diện cho họ và thực sự quan tâm đến họ trong sự đa dạng của cộng đồng dân cư hay không?[3] Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Trên diễn đàn quốc tế, trong một thời gian dài, chức năng lập pháp được xác định là một chức năng quan trọng duy nhất của Nghị viện/ Quốc hội [4] . Sau đó, ở nhiều nước, cùng với lập pháp, giám sát trở thành chức năng chính của Nghị viện[5] . Hiện nay chức năng của Quốc hội cũng chưa được nhận thức thống nhất: ở phương Tây, người ta cho rằng Nghị viện/ Quốc hội có ba chức năng chính: chức năng lập pháp, chức năng giám sát và chức năng đại diện[6] . Ở Việt Nam, có ý kiến cho rằng “Quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân cả nước [7] ; có ý kiến nhấn mạnh chức năng lập pháp, nhưng cho rằng ngoài chức năng lập pháp, Quốc hội còn thực hiện nhiều chức năng khác [8] ; phổ biến nhất hiện nay có lẽ là quan điểm cho rằng Quốc hội có ba chức năng: chức năng lập pháp, chức năng quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước [9] .
Không loại trừ nguyên nhân do chưa thống nhất về mặt thuật ngữ, nhưng rõ ràng, hiện nay vẫn chưa có sự nhận thức chính xác và thấu đáo về “tính” đại diện của thiết chế này. Và như vậy, tất yếu dẫn đến một hệ quả là vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà nước chưa được “đặt” đúng vị trí của nó.
Các đại biểu do nhân dân trực tiếp bầu ra, thì họ là người đại diện cho nhân dân. Có lẽ vì bầu cử Nghị viện/ Quốc hội ra đời sớm và phổ biến hơn so với bầu cử các chức danh trong hành pháp và tư pháp, nên thuật ngữ cơ quan đại diện hiện nay được sử dụng với nghĩa phổ biến là chỉ Nghị viện/ Quốc hội. Tính đại diện của thiết chế này gắn liền với chức năng lập pháp – chức năng khởi thủy khi sinh ra nó. Chức năng lập pháp của thiết chế này tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới[10] . Đại diện là trung tâm của các lý do vì sao Quốc hội tồn tại[11] và là tiêu chí đầu tiên khi bàn về Quốc hội.[12]
Thời kỳ đầu khi Nghị viện ra đời, lập pháp thường được xác định là một chức năng duy nhất của thiết chế này; lúc đó có thể đồng nhất giữa tính đại diện với chức năng lập pháp. Sau đó, lập pháp không còn là chức năng duy nhất; những chức năng khác, như giám sát hành pháp hay quyết định ngân sách quốc gia lần lượt ra đời, thì việc đồng nhất giữa tính đại diện với chức năng lập pháp không còn chính xác nữa. Do vậy, quan điểm coi chức năng đại diện tồn tại bên cạnh chức năng lập pháp, chức năng quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, chức năng giám sát[13] cần được bàn luận, bởi lẽ nếu coi đại diện là chức năng của Quốc hội, thì chức năng này không thể “cùng hàng” với lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao. Lôgic của vấn đề là ở chỗ: Quốc hội là thiết chế đại diện cho nhân dân để thực hiện quyền lập pháp; đại diện cho nhân dân để quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, và đại diện cho nhân dân để giám sát tối cao. Như thế đại diện không thể “cùng vai” với lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao, mà đại diện là thuộc tính bao trùm, chi phối các hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao.
Theo chúng tôi Bùi Xuân Đức, “Chức năng đại diện cần phải coi là trung tâm, quyết định sự tồn tại và phát triển của các Nghị viện/Quốc hội nói chung. Nếu chức năng đại diện không được chú trọng thì các chức năng khác của Quốc hội như lập pháp, quyết định những vấn đề cơ bản và giám sát khó có thể vận hành tốt vì khi đó, ý chí của người dân và lợi ích của họ khó có thể được phản ánh một cách đúng đắn trong các quyết sách của Quốc hội”[14] . Mark Freeman cho rằng nếu coi đại diện là chức năng (function) của Quốc hội, thì lập pháp được gọi là vai trò (role) của thiết chế này. Ở hầu hết các quốc gia, lập pháp là vai trò chính và vai trò của thiết chế này có thể được mở rộng ở một số nước, như giám sát hành pháp, thông qua ngân sách. Tuy nhiên, tất cả các vai trò, dù là vai trò chính, mang tính khởi thủy là lập pháp, hay các vai trò được mở rộng sau này như giám sát hành pháp, đều phải xuất phát từ chức năng đại diện[15] và việc thực thi các vai trò là góp phần thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội.
Suy nghĩ theo hướng đó, chúng tôi cho rằng, tiến trình dân chủ hóa, sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân đang và sẽ diễn ra ở Việt Nam, một trong những mắt xích quan trọng nhất là cần đổi mới Quốc hội, vì Quốc hội là hiện thân của dân chủ, là phương thức quan trọng bậc nhất thực hiện quyền lực nhân dân. Bên cạnh đó, vì Quốc hội là thiết chế đại diện mà thông qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nên Quốc hội phải là tấm gương phản chiếu các cơ cấu xã hội. Nói cách khác, Quốc hội Việt Nam phải là thiết chế nói lên tiếng nói của tất cả các bộ phận xã hội sinh sống trên đất nước Việt Nam. Để làm được điều đó, trước hết cần đổi mới từ nơi gốc rễ là chế độ bầu cử. Trong Cuốn sách Electoral System Design: The New International IDEA Handbookdo nhiều học giả uy tín biên soạn, có tính chất hướng dẫn về bầu cử đối với nhiều quốc gia trên thế giới, đã khẳng định: bầu cử có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiến tạo chế độ dân chủ[16] . Muốn có Quốc hội thực sự của dân, do dân và vì dân, thì chế độ bầu cử, trên đó Quốc hội hình thành phải thực sự tự do, tiến bộ và công bằng. Tuy nhiên, cần chú ý rằng đổi mới chế độ bầu cử mới chỉ là tiền đề (điều kiện cần), việc làm tiếp theo là đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của Quốc hội mà một trong những nội dung đổi mới thiết chế này là phải thực sự coi các ủy ban của Quốc hội là trụ cột (bên cạnh việc nâng cao vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động của từng đại biểu Quốc hội), đổi mới nhận thức về chức năng đại diện của Quốc hội để Quốc hội thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
5. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần tập trung vào đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hộiTheo quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có các chức năng cơ bản: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Để bảo đảm các chức năng nói trên không bị chệch hướng, Quốc hội Việt Nam trước hết cần bảo đảm tính đại diện. Nói cách khác, đại diện (representation) là “sứ mệnh” của Quốc hội; sứ mệnh này bao trùm lên hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Nhưng ai, chủ thể nào giúp Quốc hội thực hiện sứ mệnh đó? Rõ ràng, các ủy ban của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội phải là những chủ thể chính có trách nhiệm trả lời các câu hỏi đó. Tất cả các chủ thể khác chỉ mang tính tổ chức, nghiệp vụ, cùng với các ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội để thực hiện sứ mệnh đó. Nói cách khác, các thiết chế trụ cột của Quốc hội, trong đó Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội có vai trò quan trọng nhất trong việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội.
Trong hoạt động của nghị viện ở các nước, các ủy ban đóng vai trò nòng cốt. W. Wilson, Tổng thống thứ hai mươi tám của Hoa Kỳ đã phát biểu: “Quốc hội tại kỳ họp toàn thể là Quốc hội trình diễn; Quốc hội trong các Ủy ban là Quốc hội làm việc”[17] .
Ở Việt Nam, trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên, đa số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm, thì hiệu quả hoạt động của Quốc hội càng phụ thuộc vào hoạt động của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Để thực hiện được vai trò trên, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội cần đổi mới theo các tiêu chí sau đây:
Một:tăng cường vai trò, sự chủ động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và từng đại hội Quốc hội trong việc phác họa chương trình, kế hoạch xây dựng Luật, pháp lệnh trong từng nhiệm kỳ, trong từng năm. Đây là tiêu chí rất quan trọng, vì hoạt động này có vai trò lớn trong việc định hướng hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội. Cần đánh giá cụ thể về số lượng, chất lượng, thứ tự ưu tiên đối với các dự án luật, pháp lệnh.
Hai: Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã chủ động khởi xướng đối với việc xây dựng mới, sửa đổi Hiến pháp hay chưa? Mức độ chủ động đến đâu? Sự tham gia, vai trò của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội vào tiến trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp trong từng công đoạn cụ thể được thể hiện như thế nào? Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội chủ động khởi xướng (sáng kiến lập pháp) và trình các dự án luật, dự ánh pháp lệnh hay chưa? Cần đánh giá về mức độ, số lượng, tần suất, sự cân đối giữa các lĩnh vực của các đạo luật, luật, pháp lệnh được các thiết chế này khởi xướng, phát động và xây dựng. Theo chúng tôi, đây là tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, nhất là định hướng đổi mới trong thời gian tới.
Ba: Các kiến nghị cụ thể của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh.
Bốn: Hoạt động thẩm tra của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh với tính chất là cơ quan phản biện: sự đánh giá đúng sai, tính hợp lý hay không hợp lý, vai trò trong việc góp ý, điều chỉnh, ngăn ngừa.
Năm: Vai trò của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc giải thích, cung cấp thông tin cho Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, báo chí, các phương tiện truyền thông và các tầng lớp nhân dân.
Sáu: Vai trò của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật đối với từng dự án luật, dự án pháp lệnh. Đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp, thì việc bảo đảm chủ quyền nhân dân, phát huy trí tuệ các tầng lớp nhân dân được thể hiện thông qua vai trò của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội như thế nào?
Bảy:Vai trò của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc bảo đảm tính đồng bộ, tính toàn diện, tính minh bạch, tính khả thi, kỹ thuật lập pháp như thế nào?
Tuy nhiên, cần chú ý rằng, việc giải quyết các vấn đề nói trên không xuất phát từ một lực lượng, một cơ cấu xã hội nào, mà cần dựa vào tính đại diện, xuất phát từ chủ quyền nhân dân, ý chí và nguyện vọng của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam như phần trên đã phân tích.
Ngoài ra, một nội dung rất quan trọng là cần chú ý đến quy định tại Điều 84 Hiến pháp năm 2013 “1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. 2. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Nói cách khác, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội phải là những chủ thể quan trọng trong việc chủ động khởi xướng sáng kiến lập pháp, xây dựng các dự án Luật. Tăng cường và nâng cao hiệu quả của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong lĩnh vực này không chỉ có ý nghĩa trong việc khởi động và phát động cỗ xe “Quốc hội” trong hoạt động xây dựng pháp luật, mà còn có ý nghĩa quan trọng giúp luật được ban hành là của chính Quốc hội, chứ không phải là của Chính phủ hay các chủ thể khác – một hiện tượng phổ biến hiện nay ở Việt Nam.
CHÚ THÍCH* PGS-TS Luật học, Trưởng khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Xem: David Beetham,Parliament and democracy in the twenty-first century a guide to good practice, Inter- Parliamentary Union , 2006, tr.viii, 1, hoặc xem: Văn phòng quốc hội, Thiết chế nghị viện những khái niệm cơ bản, Chương trình Dự án VIE/02/007 “Tăng cường Năng lực các cơ quan dân cử ở Việt Nam”- Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Hà Nội – Việt Nam 2005, tr. 1.
[2] David Beetham,tlđd, tr.viii, 1; hoặc xem: Văn phòng quốc hội, tlđd,tr. vii.
[3] David Beetham,tlđd, tr.viii, 1. hoặc xem: Văn phòng quốc hội, tlđd, tr. vii.
[4] Văn phòng Quốc hội Việt Nam- Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Thiết chế Nghị viện -Những khái niệm cơ bản,Dự án VIE/02/007, Hà Nội – Việt Nam 2005, tr. 5.
[5] Văn phòng Quốc hội Việt Nam, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, , tr. 22.
[6] chúng tôi Bùi Xuân Đức, “Nhận thức về chức năng đại diện và thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2(117), tháng 2/2008, tr. 5.
[7] Xem: PTS. Phan Trung Lý, Giáo trình Luật Nhà nước Việt Nam – Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội, 1994, tr. 272.
[8] Xem: chúng tôi Nguyễn Đăng Dung, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam(PGS.TS. Bùi Xuân Đức Chủ biên) – Khoa Luật,Viện Đại học mở Hà Nội, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr. 278.
[9] Xem: Phạm Đức Bảo, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam(PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, TS. Vũ Hồng Anh đồng Chủ biên) – Trường Đại học luật Hà Nội, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 336; Nguyễn Thanh Bình, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam(PGS.TS. Bùi Xuân Đức, chúng tôi Võ Khánh Vinh đồng chủ biên) – Trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế, Huế, 1997, tr. 257; chúng tôi Bùi Xuân Đức, Nhận thức về chức năng đại diện và thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2(117), tháng 2/2008, tr. 5.
[10] Making reconciliation work: the role of parliaments(Handbook for Parliamentarians N°10 – 2005), tr. 10.
[11] Văn phòng Quốc hội Việt Nam – Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Thiết chế Nghị viện – Những khái niệm cơ bản,Dự án VIE/02/007, Hà Nội 2005, tr. 28.
[12] “The first criterion of a democratic parliament is that it should be representative of the people. In the first instance this means that parliament should reflect the popular will as expressed in the choices electors make for their representatives and for the political parties in whose name they stand”. Xem: David Beetham, Parliament and Democracy in the twenty-first Century a Guide to Good Practice, Inter-Parliamentary Union , 2006, tr. 13;Mark Freeman, Making reconciliation work: The role of Parliaments, International IDEA/ IPU, 2005, tr. 10.
[13] Văn phòng Quốc hội Việt Nam- Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Thiết chế Nghị viện -Những khái niệm cơ bản, Dự án VIE/02/007, Hà Nội – Việt Nam 2005.
[14] chúng tôi Bùi Xuân Đức, Nhận thức về chức năng đại diện và thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2(117), tháng 2/2008, tr. 8.
[15] Mark Freeman (2005), Making reconciliation work: the role of parliaments, International IDEA/ IPU, 2005, tr. 10.
[16] Andrew Reynolds, Ben Reilly and Andrew Ellis, With José Antonio Cheibub, Karen Cox, Dong Lisheng, Jørgen Elklit, Michael Gallagher, Allen Hicken, Carlos Huneeus, Eugene Huskey, Stina Larserud, Vijay Patidar, Nigel S. Roberts, Richard Vengroff, Jeffrey A. Weldon, Electoral System Design: The New International IDEA Handbook, International Institute for Democracy and Electoral Assistance 2005, tr. 1.
[17] “Congress in session is Congress on public exhibition, whilst Congress in its committee rooms is Congress at work” Xem: Woodrow Wilson, Congressional Government Baltimore, the Johns Hopkins University Press, 1981, tr. 69.
Điều Lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động phát huy truyền thống tất đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng đúng đắn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao sức chiến dấu và năng lực lãnh đạo cách mạng.
Chương I ĐẢNG VIÊN Điều l:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Điều 2:
Đảng viên có nhiệm vụ:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3 Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước 4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Điều 3:
Đảng viên có quyền:
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Bộ Chính trị.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Điều 4:
Thủ tục kết nạp đảng viên (kể cả kết nạp lại):
1. Người vào Đảng phải:
– Có đơn tự nguyện xin vào Đảng;
– Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ;
– Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.
Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, dược ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
2. Người giới thiệu phải:
– Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào Đảng ít nhất một năm;
– Báo cáo với chi bộ về lý lịch, phẩm chất, năng lực của người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới thiệu của mình.
Có điều gì chưa rõ thì báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.
3. Trách nhiệm của chi bộ và cấp ủy:
– Trước khi chi bộ xét và đề nghị kết nạp, chi ủy kiểm tra lại điều kiện của người vào Đảng và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức đoàn thể nơi người đó sinh hoạt.
Vấn đề lịch sử chính trị của người vào Đảng phải thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị.
– Chi bộ xét và đề nghị kết nạp từng người một, khi được ít nhất hai phần ba số đảng viên chính thức trong chi bộ tán thành thì đề nghị lên cấp ủy cấp trên; khi có quyết định của cấp ủy cấp trên, chi bộ tổ chức lễ kết nạp từng người một.
– Đảng ủy cơ sở xét, nếu được ít nhất hai phần ba số cấp ủy lên tán thành kết nạp thì đề nghị lên cấp ủy cấp trên trực tiếp.
– Ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng hoặc cấp ủy cơ sở được ủy quyền xét, quyết định kết nạp từng người một.
4. Nơi chưa có đảng viên hoặc có đảng viên nhưng chưa đủ điều kiện giới thiệu thì cấp ủy cấp trên trực tiếp cử đảng viên về làm công tác tuyên truyền, xem xét, giới thiệu kết nạp Đảng.
Trường hợp đặc biệt do Bộ Chính trị quy định.
Điều 5:
1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ.
2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu thấy không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp ủy có thẩm quyền quyết định xóa tên trong danh sách đảng viên dự bị.
3. Nghị quyết của chi bộ về đề nghị công nhận đảng viên chính thức phải được cấp ủy có thẩm quyền quyết định.
4. Tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định công nhận đảng viên chính thức.
Điều 6:
Việc phát và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên và thủ tục chuyển sinh hoạt đảng do Bộ Chính trị quy định.
Điều 7:
Đảng viên tuổi cao sức yếu, tự nguyện xin giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng do chi bộ xem xét, quyết định.
Điều 8:
1. Đảng viên bỏ sinh hoạt chi bộ hoặc không đóng đảng phí ba tháng trong năm mà không có lý do chính đáng; đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, không làm nhiệm vụ đảng viên, đã được chi bộ giáo dục mà không tiến bộ thì chi bộ xem xét đề nghị lên cấp có thẩm quyền xóa tên trong danh sách đảng viên.
2. Các trường hợp trên nếu đảng viên có khiếu nại thì chi bộ báo cáo cấp ủy có thẩm quyền xem xét.
3. Đảng viên xin ra khỏi Đảng do chi bộ xem xét, đề nghị cấp có thẩm quyền chuẩn y kết nạp quyết định.
Chương II NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG Điều 9:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở một cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa sẽ thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Điều 10:
1. Hệ thống tổ chức của Đảng được tập tương ứng với hệ thống tổ chức của Nhà nước.
2. Tổ chức cơ sở đảng được tập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo quy định tại Chương VI. Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Bộ Chính trị.
3. Cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định lập hoặc giải thể đảng bộ, chi bộ trực thuộc.
Điều 11:
1. Cấp ủy triệu tập đại hội khi hết nhiệm kỳ, thông báo trước cho cấp dưới về thời gian và nội dung đại hội.
2. Cấp ủy triệu tập đại hội quyết định số lượng đại biểu và phân bổ cho các đảng bộ trực thuộc căn cứ vào số lượng đảng viên, số lượng đảng bộ trực thuộc, vị trí quan trọng của từng đảng bộ, theo hướng dẫn của Bộ Chính trị
3. Đại biểu dự đại hội gồm các ủy viên ban chấp hành cấp triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu.
4. Việc chỉ định đại biểu chỉ thực hiện đối với tổ chức đảng hoạt động trong điều kiện đặc biệt không thể mở đại hội để bầu cử được, theo quy định của Bộ Chính trị.
5. Đại biểu dự đại hội phải được đại hội thẩm tra tư cách và biểu quyết công nhận Cấp ủy triệu tập đại hội không được bác bỏ tư cách đại biểu do đại hội cấp dưới bầu, từ trường hợp đại biểu đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy, bị khởi tố truy tố, tạm giam.
6. Đại hội chỉ hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba số đại biểu hoặc đảng viên được triệu tập tham dự và có ít nhất hai phần ba số tổ chức đảng trực thuộc có đại biểu tham dự.
7. Đại hội bầu đoàn chủ tịch (chủ tịch) để điều hành công việc của đại hội.
Điều 12:
1. Cấp ủy viên phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến thức và năng lực tham gia lãnh đạo tập thể, hoàn thành ít nhiệm vụ được giao; đoàn kết cán bộ, đảng viên, được quần chúng tín nhiệm.
2.Số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc quyết định; số lượng cấp ủy viên cấp nào do đại hội cấp đó quyết định, theo hướng dẫn của Bộ Chính trị. Cấp ủy các cấp cẩn được đổi mới, bảo đảm tính kế thừa và phát triển qua mỗi lần đại hội.
3. Đoàn chủ tịch (chủ tịch) hướng dẫn bầu cử:
– Đại biểu có quyền nhận xét, chất vấn về người ứng cử và người được đề cử;
– Bầu cử bằng phiếu kín;
– Người trúng cử phải được số phiếu bầu quá một nửa so với tổng số đại biểu được triệu tập hoặc so với tổng số đảng viên chính thức của đảng bộ, chi bộ.
Trường hợp số người có số phiếu quá một nửa nhiều hơn số lượng cần bầu thì lấy số người có số phiếu cao hơn; nếu ở cuối danh sách trúng bí có nhiều người ngang phiếu nhau và nhiều hơn số lượng cần bầu thì bầu lại số người ngang phiếu đó để lấy người có số phiếu cao hơn, không cần phải quá một nửa.
Trường hợp bầu lại mà số phiếu vẫn ngang nhau, có bầu nữa hay không do đại hội quyết định.
Nếu bầu một lần mà chưa đủ số lượng quy định, có bầu thêm nữa hay không do đại hội quyết định.
Điều 13:
1. Cấp ủy khoá mới nhận sự bàn giao từ cấp ủy khoá trước, điều hành công việc ngay sau khi được bầu và được công nhận chính thức khi có quyết định chuẩn y của cấp ủy cấp trên trực tiếp.
2. Việc bổ sung cấp ủy viên thiếu do cấp ủy đề nghị, cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định; số lượng cấp ủy viên sau khi bổ sung không vượt quá tổng số cấp ủy viên do đại hội dã bầu. Khi thật cần thiết, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định tăng thêm một số cấp ủy viên cấp dưới.
3. Khi thật cần thiết, cấp ủy cấp trên có quyền điều động một số cấp ủy viên cấp dưới, nhưng không quá một phần ba ứng số cấp ủy viên do đại hội đã bầu.
4. Cấp ủy viên xin rút khỏi cấp ủy, do cấp ủy xem xét đề nghị lên cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định; đối với ủy viên Trung ương, do Ban Chấp hành Trung ương quyết định. Cấp ủy viên đương nhiệm ở đảng bộ nào, khi có quyết định nghỉ hoặc chuyển công tác đến đơn vị khác ngoài đảng bộ thì thời tham gia cấp ủy đương nhiệm ở đảng bộ đó.
5. Đối với tổ chức đảng mới thành lập, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy lâm thời; chậm nhất trong vòng một năm, kể từ ngày có quyết định chỉ định, tổ chức đảng đó phải tiến hành đại hội; nếu kéo dài thêm thời gian phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý.
6. Đối với tổ chức đảng không thể mở đại hội được, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy của tổ chức đảng đó.
Điều 14:
1. Cấp ủy mỗi cấp tập các cơ quan tham mưu giúp việc theo hướng dẫn của Bộ Chính trị.
2. Khi cần, cấp ủy tập tiểu ban, hội đồng, tổ công tác và giải thể khỉ hoàn thành nhiệm vụ.
Chương III CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở TRUNG ƯƠNG Điều 15:
1. Đại hội đại biểu toàn quốc do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm.
2. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ vừa qua; quyết định đường lối, chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới; bầu Ban Chấp hành Trung ương; bổ sung, sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần.
3. Khi Ban Chấp hành Trung ương xét thấy cần hoặc khi có hơn một nửa số cấp ủy trực thuộc yêu cầu thì Ban Chấp hành Trung ương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường. Đại biểu dự Đại hội bất thường là các ủy viên Trung ương đương nhiệm, đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc đầu nhiệm kỳ, đủ tư cách.
Điều 16:
1. Ban Chấp hành Trung ương tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị Điều lệ Đảng các nghị quyết của Đại hội; quyết định những chủ trương chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần chúng và công tác xây dựng Đảng; chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhiệm kỳ tiếp theo, Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có).
2. Ban Chấp hành Trung ương họp thường lệ sáu tháng một lần; họp bất thường khi cần
Điều 17:
1. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số ủy viên Bộ Chính trị; bầu ủy ban Kiểm tra Trung ương; bầu Chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Trung ương trong số ủy viên ủy ban Kiểm tra Trung ương. Số lượng ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên ủy ban Kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương quyết định. Bộ Chính trị cử Thường vụ Bộ Chính trị.
2.Bộ Chính trị lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; báo cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Thường vụ Bộ Chính trị thay mặt Bộ Chính trị lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng; chuẩn bị các vấn đề trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định; chỉ đạo thực hiện các chủ trương về kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng; giải quyết công việc hằng ngày của Đảng.
Chương IV CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở CÁC CẤP ĐỊA PHƯƠNG Điều 18:
1. Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh do cấp ủy cùng cấp triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm.
Điều 19:
1. Cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh ủy, thành ủy), cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên.
2. Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, quận ủy, thị ủy do ban thường vụ triệu tập thường lệ ba tháng một lần; họp bất thường khi cần.
Điều 20:
1. Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, quận ủy, thị ủy bầu ban thường vụ; bầu bí thư và phó bí thư trong số ủy viên thường vụ; bầu ủy ban kiểm tra; bầu chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trong số ủy viên ủy ban kiểm tra.
2. Số lượng ủy viên ban thường vụ và ủy viên ủy ban kiểm tra do cấp ủy quyết định theo hướng dẫn của Bộ Chính trị.
3. Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cùng cấp và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức cán bộ; quyết đỉnh triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy.
4. Thường trực cấp ủy gồm bí thư, các phó bí thư, chỉ đạo kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, của ban thường vụ và cấp ủy cấp trên; giải quyết công việc hằng ngày của đảng bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của ban thường vụ.
Chương V TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Điều 21:
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường. thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở có các tổ đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
5.Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện: Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
– Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
– Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Điều 22:
1. Đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở đảng do cấp ủy cơ sở triệu tập: cơ sở xã, phường, thị trấn năm năm một lần; các cơ sở khác năm năm hai lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm đối với xã phường và sáu tháng đối với các cơ sở khác.
3. Đảng ủy, chi ủy cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.
4. Đảng ủy cơ sở có từ chín ủy viên trở lên bầu ban thường vụ; bầu bí thư, phó bí thư trong số ủy viên thường vụ; dưới chín ủy viên chỉ bầu bí thư, phó bí thư.
Điều 23:
Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ:
1. Chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh và chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị – xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
5. Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng ủy cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.
Điều 24:
1. Chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có ba đảng viên chính thức Chi bộ đông đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng; tổ đảng bầu tổ trưởng, nếu cần thì bầu tổ phó; tổ đảng hoạt động dưới sự chỉ dạo của chi ủy.
2. Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần chúng và công tác phát triển đảng viên kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng viên; thu, nộp đảng phí. Chi bộ, chi ủy họp thường lệ mỗi tháng một lần.
3. Đại hội chi bộ do chi ủy triệu tập một năm một lần; nơi chưa có chi ủy thì do bí thư chi bộ triệu tập Khi được đảng ủy cơ sở đồng ý có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá ba tháng.
4. Chi bộ có dưới chín đảng viên chính thức, bầu bí thư chi bộ; nếu cần, bầu phó bí thư. Chl bộ có chín đảng viên chính thức trở lên, bầu chi ủy. bầu bí thư và phó bí thư chi bộ trong số chi ủy viên.
Chương VI TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM Điều 25:
1. Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; xây dựng Quân đội và Công an trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính tri và trật tự an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất nước.
2. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam hoạt động theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3. Các ban của cấp ủy đảng theo chức năng giúp cấp ủy hướng dẫn, kiểm tra công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam.
Điều 26:
1. Đảng ủy Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân ủy Trung ương) do Bộ Chính trị chỉ định, gồm một sẽ ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Quân đội và một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Quân đội, dặt dưới sự lãnh dạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị.
2. Quân ủy Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội.
3. Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác đảng công tác chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên.
Điều 27:
1. Cấp ủy đảng trong bộ đội chủ lực và bộ đội biên phòng ở cấp nào do đại hội cấp đó bầu, lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt; trường hợp đặc biệt do cấp ủy cấp trên chỉ định.
2. Đảng ủy quân khu gồm các đồng chí công tác trong đảng bộ quân khu do đại hội cùng cấp bầu và các đồng chí bí thư tỉnh, thành ủy trên địa bàn quân khu được chỉ định tham gia; lãnh đạo thực hiện nghị quyết của cấp trên, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phối hợp với cấp ủy địa phương thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong quân khu.
3. Tổ chức đảng quân sự địa phương ở cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương cấp đó về mọi mặt, đồng thời chấp hành nghị quyết của đảng ủy quân sự cấp trên về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương. Cơ quan chính trị cấp trên phối hợp với cấp ủy địa phương chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong lực lượng vũ trang địa phương.
4. Đảng ủy quân sự tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã gồm các đồng chí công tác trong đảng bộ quân sự địa phương do đại hội cùng cấp bầu, đồng chí bí thư cấp ủy địa phương và một số đồng chí ngoài đảng bộ quân sự địa phương được chỉ định tham gia theo quy định của Bộ Chính trị.
Điều 28:
1. Đảng ủy Công an Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Công an nhân dân và một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Công an nhân dân một số đồng chí công tác thuộc Đảng bộ Công an Trung ương, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị. Đảng ủy Công an Trung ương nghiên cửu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, chính sách, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo mọi mặt công tác trong Công an.
2. Cấp ủy công an cấp nào do đại hội cấp đó bầu, trường hợp thật cần thiết do cấp ủy cấp trên chỉ định. Cấp ủy lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt.
3. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong các đơn vị thuộc đảng bộ công an, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương; phối hợp với cấp ủy địa phương chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong lực lượng công an địa phương.
4. Cơ quan xây dựng lực lượng công an mỗi cấp đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị, công tác quần chúng trong đảng bộ, hoạt động dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan xây dựng lực lượng cấp trên.
Điều 29:
1. Tổ chức đảng công an nhân dân địa phương cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy cấp đó đồng thời chấp hành nghị quyết của đảng ủy công an cấp trên về giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo xây dựng lực lượng công an nhân dân ở địa phương và xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
2. Đảng ủy công an tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã do đại hội cùng cấp bầu và đồng chí ủy viên thường vụ cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận, thị ủy được chỉ định tham gia.
Chương VII CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG VÀ ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP Điều 30:
1. Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của Đảng.
2. Các cấp ủy đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tồ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Điều 31:
1. Ủy ban kiểm tra các cấp do cấp ủy cùng cấp bầu, gồm một số đồng chí trong cấp ủy và một số đồng chí ngoài cấp ủy.
2. Các thành viên ủy ban kiểm tra và chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp dưới phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu điều động chủ nhiệm ủy ban kiểm tra sang công tác khác phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý.
3. Ủy ban kiểm tra làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy cùng cấp và sự chỉ đạo, kiểm tra của ủy ban kiểm tra cấp trên.
Điều 32:
Ủy ban kiểm tra các cấp có nhiệm vụ:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
2.Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3 Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
5. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Chương VIII KHEN THƯƠNG VÀ KỶ LUẬT Điều 34:
Tổ chức đảng và đảng viên có thành tích được khen thưởng theo quy định của Bộ Chính trị
Điều 35:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công minh, chính xác, kịp thời.
2. Hình thức kỷ luật:
– Đối với tổ chức đảng: khiển trách cảnh cáo, giải tán;
– Đối với đảng viên chính thức: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ;
– Đối với đảng viên dự bị: khiển trách, cảnh cáo.
Điều 36:
Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm:
1. Chi bộ quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong chi bộ.
Đảng ủy cơ sở quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ, cách chức cấp ủy viên cấp dưới.
Đảng ủy cơ sở được ủy quyền quyết định kết nạp đảng viên thì có quyền quyết định khai trừ đảng viên, nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý.
2. Cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên cùng cấp.
Ban thường vụ cấp ủy quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp và cấp trên.
3. Ban Chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị.
Bộ Chính trị quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị quản lý, nhưng không phải là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
4. Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý và cấp ủy viên cấp dưới trực tiếp.
5. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp trên có quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật do cấp dưới quyết định.
6. Đảng viên giữ nhiều chức vụ bị kỷ luật cách chức thì tuỳ mức độ, tính chất vi phạm mà cách một hay nhiều chức vụ.
Điều 37:
Thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng vi phạm:
1 Cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định khiển trách, cảnh cáo tổ chức đảng cấp dưới.
2. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng do cấp ủy cấp trên trực tiếp đề nghị, cấp ủy cấp trên cách một cấp quyết định. Quyết định này phải báo cáo lên cấp ủy cấp trên trực tiếp và ủy ban Kiểm tra Trung ương.
3. Chỉ giải tán một tổ chức đảng khi tổ chức đó phạm một trong các trường hợp: có hành động chống đường lối, chính sách của Đảng; vi phạm đặc biệt nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng hoặc pháp luật của Nhà nước.
Điều 38:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm không thuộc thẩm quyền quyết định kỷ luật của cấp mình thì đề nghị lên cấp có thẩm quyền quyết định.
2. Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý không đúng mức đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm thì cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên quyết định các hình thức kỷ luật theo thẩm quyền, đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng đó.
3. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng và khai trừ đảng viên phải được ít nhất hai phần ba số thành viên của tổ chức đảng cấp dưới đề nghị và do tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định .
Điều 39:
1. Đảng viên vi phạm phải kiểm điểm trước chi bộ, tự nhận hình thức kỷ luật; nếu từ chối kiểm điểm hoặc bị tạm giam, tổ chức đảng vẫn tiến hành xem xét kỷ luật. Trường hợp cần thiết, cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp có thẩm quyền trực tiếp xem xét kỷ luật.
2. Tổ chức đảng vi phạm phải kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật và báo cáo lên cấp ủy cấp trên quyết định.
3. Trước khi quyết định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền nghe đảng viên vi phạm hoặc đại diện tổ chức đảng vi phạm trình bày ý kiến.
4. Quyết định của cấp dưới về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải báo cáo lên cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên trực tiếp; nếu đảng viên vi phạm tham gia nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng thì phải báo cáo đến các cơ quan lãnh đạo cấp trên mà đảng viên đó là thành viên.
5. Quyết định của cấp trên về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải được thông báo đến cấp dưới, nơi có tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; trường hợp cần thông báo rộng hơn thì do cấp ủy có thẩm quyền quyết định.
6. Kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm có hiệu lực ngay sau thi công bố quyết định.
7. Tổ chức đảng, đảng viên không đồng ý với quyết định kỷ luật thì trong vòng một tháng, kể từ ngày nhận quyết định, có quyền khiếu nại với cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên cho đến Ban Chấp hành Trung ương.
Việc giải quyết khiếu nại kỷ luật, thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị.
8. Khi nhận khiếu nại kỷ luật, cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra thông báo cho tổ chức đảng hoặc đảng viên khiếu nại biết; chậm nhất ba tháng đối với cấp tỉnh, thành phố, huyện, quận và tương đương sáu tháng đối với cấp Trung ương, kể từ ngày nhận được khiếu nại phải xem xét, giải quyết, trả lời cho tổ chức đảng và đảng viên khiếu nại biết.
9 Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, tổ chức đảng và đảng viên bị kỷ luật phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật
Điều 40:
1. Đảng viên bị hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên phải khai trừ ra khỏi Đảng.
2. Tổ chức đảng bị kỷ luật giải tán, cấp ủy cấp trên trực tiếp lập tổ chức đảng mới hoặc giới thiệu sinh hoạt đảng cho số đảng viên còn lại.
3. Đảng viên bị kỷ luật cách chức, trong vòng một năm, kể từ ngày có quyết định, không được bầu vào cấp ủy, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương và cao hơn.
4. Việc đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy của cấp ủy viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng phải được cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra có thẩm quyền quyết định theo quy định của Bộ Chính trị.
Chương IX ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI Điều 41:
1. Đảng lãnh đạo Nhà nước và đoàn thể chính trị – xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
2. Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị – xã hội.
3. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị – xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hoá thành các văn bản luật pháp của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện có.
Điều 42:
1. Trong cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và đoàn thể chính trị – xã hội cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, do bầu cử lập ra, cấp ủy cùng cấp lập đảng đoàn gồm một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập đảng đoàn thì tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Bộ Chính trị
2. Đảng đoàn do cấp ủy cùng cấp chỉ định; có bí thư, nếu cần có phó bí thư. Đảng đoàn làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp ủy.
3 Đảng đoàn lãnh đạo, thuyết phục các thành viên trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; liên hệ mật thiết với nhân dân; đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết đinh theo thẩm quyền; kiểm tra việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng.
Điều 43:
1. Trong cơ quan hành pháp, tư pháp cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cấp ủy cùng cấp lập ban cán sự đảng gồm một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập ban cán sự đảng thì tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Bộ Chính trị.
2. Ban cán sự đảng do cấp ủy cùng cấp chỉ định; có bí thư, nếu cần, có phó bí thư Ban cán sự đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp ủy.
3. Ban cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; đề xuất với cấp ủy về phương hướng nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng.
Chương X ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỔ CHÍ MINH Điều 44:
1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
2. Cấp ủy đảng lãnh đạo trực tiếp tổ chức đoàn cùng cấp về phương hướng, nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.
Điều 45:
Đảng viên còn trong tuổi đoàn phát sinh hoạt và công tác trong tổ chức đoàn.
Chương XI TÀI CHÍNH CỦA ĐẢNG Điều 46:
1. Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng, thu từ các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp của Đảng, ngân sách nhà nước và các khoản thu khác.
2. Bộ Chính trị quy định thống nhất nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính, tài sản của Đảng, mức đóng đảng phí của đảng viên.
3. Hằng năm, cấp ủy nghe báo cáo và quyết định nhiệm vụ tài chính của cấp mình.
Chương XII CHẤP HÀNH ĐIỀU LỆ ĐẢNG Điều 47:
Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng
Điều 48:
Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Cập nhật thông tin chi tiết về Điều Lệ Hội Lhpn Việt Nam (Bổ Sung, Sửa Đổi) trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!