Bạn đang xem bài viết Đề Xuất Giải Pháp Thực Hiện Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Điều đáng chú ý là trong chương trình mới này, số lượng môn học, thời lượng học ở cả 3 bậc học: Tiểu học, THCS, THPT đều giảm so với dự thảo. Đặc biệt, hoạt động hướng nghiệp được đẩy mạnh thực hiện từ năm lớp 8. Hoạt động trải nghiệm được coi là một trong những nội dung không thể thiếu trong chương trình mới.
Sau khi chương trình được thông qua, một số lãnh đạo trường học đã có những ý kiến, đề xuất với lãnh đạo Bộ trước khi áp dụng chính thức vào các trường học.
Giảm tiết học phải song hành với giảm kiến thức môn học
Bà Trần Thúy Nga, Hiệu trưởng trường THCS Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội cho biết, việc tư vấn nghề nghiệp, dạy nghề cho học sinh được các trường THCS thực hiện từ năm lớp 8 rất tốt. Điều này sẽ giúp cho những học sinh nào không có năng lực học tập tiếp lên cấp THPT thì có thể chuyển sang học nghề.
Về số tiết học ở bậc THCS trong chương trình GDPT tổng thể giảm so với dự thảo lần 1. Cụ thể, lớp 6, 7 giảm 58 tiết (gồm cả bắt buộc và tự chọn), khối 8, 9 giảm 78 tiết (cả bắt buộc và tự chọn). Tuy nhiên, nếu giảm số tiết học xuống mà chương trình học không thay đổi thì nội dung kiến thức của 1 tiết học lại tăng lên. Vì vậy, nếu chương trình GDPT tổng thể đã giảm thời lượng tiết học xuống phải song hành với việc giảm kiến thức môn học xuống thì mới phù hợp với học sinh.
Việc tích hợp giữa các môn học nên cụ thể hơn như: Tổ hợp các môn Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội, các môn năng khiếu thì cần có sự tích hợp ở nhiều bài học hơn, chứ không nên chỉ tích hợp ở một môn học.
Theo bà Trần Thúy Nga, ở các địa phương có diện tích đất đai rộng sẽ thuận lợi cho các hoạt động trải nghiệm. Còn các trường THCS trong nội thành ở một số thành phố ít có không gian để giáo viên thực hiện hoạt động trải nghiệm. Để thực hiện được hoạt động này, các trường này phải cho học sinh đến địa phương khác.
Trước khi thực hiện chương trình GDPT tổng thể, Bộ GD-ĐT nên có sự truyền đạt, hướng dẫn và tập huấn cho các địa phương thật kỹ lưỡng. Từng trường học, cán bộ quản lý cho đến giáo viên cần nắm thật chắc và đúng những nội dung thay đổi trong chương trình để khi triển khai mới có thể đạt hiệu quả, đồng bộ.
Ngoài ra, đối với hoạt động trải nghiệm không phải là nội dung nào cũng có thể thực hiện tại trường nên rất cần được các địa phương hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất.
Cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên rất quan trọng
Đối với cấp THPT, ông Nguyễn Quốc Bình, Hiệu trưởng trường THPT Việt Đức, Hà Nội nêu quan điểm, trong chương trình GDPT tổng thể vừa được Bộ GD-ĐT thông qua, tổng số tiết học của mỗi năm là 1015 tiết, thấp hơn so với lớp 10 ở bản dự thảo lần 1 là 85 tiết nhưng nhiều hơn lớp 11, 12 so với bản cũ là 30 tiết.
Nếu các trường THPT có thể điều tiết được thời lượng chương trình các môn học thì hoàn toàn có thể dạy học được, không ảnh hưởng gì nhiều đến chất lượng giảng dạy.
Đối với hoạt động trải nghiệm đã được thực hiện ở các trường THPT nhưng vẫn còn ít và sơ sài, chưa được đặt ra là hoạt động thiết yếu trong trường học. Nếu bây giờ hoạt động này được chú trọng hơn thì các thầy cô giáo cần được hướng dẫn một cách cụ thể.
Ngoài ra, hiện nay, các trường THPT công lập đang còn rất khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất để hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động sáng tạo và trải nghiệm.
Theo ông Nguyễn Quốc Bình, để thực hiện chương trình GDPT tổng thể, với điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên như hiện nay, các trường THPT công lập không thể thực hiện chuẩn ngay được mà cần phải có lộ trình, thời gian.
Ví dụ như trong 3 năm đầu, các trường thực hiện hoạt động trải nghiệm được đến đâu, sau bao nhiêu năm thì các trường có thể đạt chuẩn về điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên để đáp ứng cho giảng dạy theo chương trình mới./.
Chương trình GDPT tổng thể có một số thay đổi so với bản dự thảo: Cấp Tiểu học: Môn Ngoại ngữ là môn bắt buộc từ năm lớp 3
So với bản dự thảo công bố lần 1, bản chính thức có nhiều điểm mới. Cụ thể với bậc tiểu học, môn ngoại ngữ 1 đã chuyển thành môn tự chọn đối với lớp 1, lớp 2, và là môn học bắt buộc đối với lớp 3, 4,5. Trong môn học tự chọn đã không còn bóng dáng của môn ngoại ngữ 2.
Số lượng môn học khác cũng được giảm đáng kể. Hai môn học tìm hiểu tự nhiên, tìm hiểu xã hội trong bản dự thảo 1 đã được tích thành môn học tự nhiên và xã hội. Địa lý và lịch sử cũng chỉ được coi là 1 môn học. Môn học bắt buộc ” Cuộc sống quanh ta“ ở bản dự thảo 1 đã không còn có mặt tại bản chính vừa được công bố.
Hai môn thế giới công nghệ và tìm hiểu tin học được tích hợp còn một môn là tin học và công nghệ. Số lượng các môn học giữa các lớp ở bậc tiểu học trong bản chính không giống nhau. Chính vì vậy, lớp 1, lớp 2 tổng số tiết trong năm học là 1015 tiết, lớp 3 là 1085 tiết, lớp 4 và lớp 5 là 1120 tiết.
Như vậy so với bản dự thảo lần 1, số tiết học trong năm của tất cả các lớp tiểu học đều giảm đi đáng kể. Cụ thể, lớp 1, 2 giảm nhiều nhất là 132 tiết (cả bắt buộc và tự chọn), lớp 3 giảm 62 tiết, lớp 4, 5 giảm 64 tiết (cả bắt buộc và tự chọn).
Trong bản chính, nội dung 3 lớp học ở bậc THPT tương đồng, không còn chủ trương dự hướng ở lớp 10 như bản dự thảo lần 1. Chính vì vậy, số lượng môn học, tên môn học ở các lớp 10, 11, 12 là như nhau.
Các môn học được lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp gồm 3 nhóm môn: Nhóm môn Khoa học xã hội: Lịch sử, Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp luật. Nhóm môn Khoa học tự nhiên: Vật lý, Hóa học, Sinh học. Nhóm môn Công nghệ và Nghệ thuật: Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật. Nội dung mỗi môn học thuộc nhóm này được thiết kế thành các học phần, học sinh được lựa chọn học phần phù hợp với nguyện vọng của bản thân và khả năng tổ chức của nhà trường.
Học sinh chọn 5 môn học từ 3 nhóm môn học trên, mỗi nhóm chọn ít nhất 1 môn.
Tổng số tiết học của mỗi năm là 1015 tiết, thấp hơn so với lớp 10 ở bản dự thảo lần 1 là 85 tiết, nhưng nhiều hơn lớp 11, 12 so với bản cũ là 30 tiết.
Những Lưu Ý Khi Thực Hiện Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
Thứ nhất: Xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới của trường theo kế hoạch của Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT và phù hợp với điều kiện của địa phương, nhà trường.
Thứ 3: Tổ chức rà soát, đánh giá thực trạng, xác định nhu cầu giáo viên từng môn học, lớp học; đề xuất kế hoạch bổ sung đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới; chọn cử đội ngũ giáo viên cốt cán đảm bảo số lượng và chất lượng để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng giáo viên đạt hiệu quả.
Thứ 4: Tổ chức rà soát, sửa chữa, sắp xếp để sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện có; xây dựng kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung thiết bị dạy học và lựa chọn sách giáo khoa để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Thứ 5: Phối kết hợp với các cơ quan thông tin – truyền thông tại địa phương đẩy mạnh truyền thông với cha mẹ học sinh và xã hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Thứ 6: Giám sát thường xuyên công việc để kịp thời phát hiện những khó khăn và có các biện pháp xử lý hiệu quả khi phát sinh; tổng hợp ý kiến các tổ/nhóm chuyên môn và báo cáo Sở GD-ĐT trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Thứ 7: Chỉ đạo các tổ/nhóm chuyên môn: Chủ động xây dựng kế hoạch tổ/nhóm chuyên môn, kế hoạch cá nhân; dự báo những thuận lợi, khó khăn và đề xuất những giải pháp giải quyết khó khăn khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Chủ động xây dựng kế hoạch tổ/nhóm chuyên môn, triển khai kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới theo kế hoạch của nhà trường.
Đôn đốc giáo viên xây dựng kế hoạch cá nhân, kịp thời phát hiện những thuận lợi, khó khăn và đề xuất những biện pháp giải quyết khó khăn về chuyên môn nghiệp vụ khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ/nhóm chuyên môn để kịp thời đề xuất với nhà trường các biện pháp xử lý. Tổng hợp ý kiến và báo cáo lãnh đạo nhà trường trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Thứ 8: Chỉ đạo đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên: Chủ động sáng tạo trong thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới theo lộ trình kế hoạch của tổ/nhóm chuyên môn và kế hoạch của nhà trường.
Tích cực tham gia tập huấn đầy đủ và có chất lượng các buổi tập huấn do trường và các cấp quản lý tổ chức. Tham gia sinh hoạt chuyên môn, bồi dưỡng và chủ động trao đổi các vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Chủ động xây dựng kế hoạch cá nhân, thực hiện dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh theo đúng các văn bản quy định. Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, hình thức dạy học và kiểm tra, đánh giá nhằm thực hiện dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Phát hiện những thuận lợi, khó khăn và đề xuất những biện pháp giải quyết khó khăn về chuyên môn, nghiệp vụ.
Tích cực tự làm thiết bị dạy học và xây dựng học liệu điện tử môn học theo phân công của tổ/nhóm chuyên môn trong thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Tổ chức lựa chọn và hướng dẫn học sinh lựa chọn sách giáo khoa mới phù hợp với quy định của Bộ GD-ĐT và điều kiện hoàn cảnh của địa phương, của nhà trường, gia đình học sinh.
Tích cực truyền thông tới cha mẹ học sinh và xã hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông để cha mẹ học sinh và xã hội hiểu rõ hơn về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nói riêng và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nói chung.
Tích cực tự làm thiết bị dạy học và xây dựng học liệu điện tử môn học theo phân công của tổ/nhóm chuyên môn trong thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Ảnh Hải Nam.
Ba yêu cầu đối với giáo viên phổ thông
Bên cạnh đó, ba yêu cầu của chương trình giáo dục mới đối với các cơ sở đào tạo giáo viên phổ thông như sau:
1. Tích cực thực hiện nâng cao năng lực của các trường sư phạm thông qua bộ chỉ số đánh giá năng lực đào tạo của các trường sư phạm theo “Chương trình Phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông” (sau đây gọi tắt là Chương trình ETEP).
2. Các trường sư phạm trọng điểm, chủ chốt phối hợp với các trường sư phạm khác tiến hành nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung đào tạo để xây dựng mới chương trình đào tạo thống nhất trong cả nước; xây dựng các chương trình đào tạo giáo viên để thực hiện các môn học mới theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
3. Phối hợp với các Sở GD-ĐT tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ giáo viên theo nhu cầu thực tế của các địa phương, cơ sở giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới.
Chương trình GDPT mới kế thừa các nguyên lí giáo dục nền tảng như “Học đi đôi với hành”, “Lí luận gắn liền với thực tiễn”, “Giáo dục ở nhà trường kết hợp với giáo dục ở gia đình và xã hội”.
Về nội dung giáo dục, bên cạnh một số kiến thức được cập nhật để phù hợp với những thành tựu mới của khoa học – công nghệ và định hướng mới của chương trình, kiến thức nền tảng của các môn học trong Chương trình GDPT mới chủ yếu là những kiến thức cốt lõi, tương đối ổn định trong các lĩnh vực tri thức của nhân loại, được kế thừa từ Chương trình GDPT hiện hành, nhưng được tổ chức lại để giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực một cách hiệu quả hơn.
Về hệ thống môn học, trong chương trình mới, chỉ có một số môn học và hoạt động giáo dục (HĐGD) mới hoặc mang tên mới là: Tin học và Công nghệ, Ngoại ngữ, Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học; Lịch sử và Địa lí, Khoa học tự nhiên ở cấp THCS; Âm nhạc, Mĩ thuật, Giáo dục kinh tế và pháp luật ở cấp THPT; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở các cấp THCS, THPT.
Giáo Dục Stem Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
Theo chúng tôi Lê Huy Hoàng, thành viên Ban Phát triển CT GDPT Tổng thể, Chủ biên CT môn Công nghệ cho biết, ở cấp độ chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục STEM vừa mang nghĩa thúc đẩy giáo dục các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, vừa thể hiện phương pháp tiếp cận liên môn, phát triển năng lực và phẩm chất người học.
Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, giáo dục STEM đã được chú trọng thông qua các biểu hiện: Chương trình giáo dục phổ thông mới có đầy đủ các môn học STEM. Đó là các môn Toán học; Khoa học tự nhiên; Công nghệ; Tin học.
Vị trí, vai trò của giáo dục tin học và giáo dục công nghệ trong chương trình giáo dục phổ thông mới đã được nâng cao rõ rệt. Điều này không chỉ thể hiện rõ tư tưởng giáo dục STEM mà còn là sự điều chỉnh kịp thời của giáo dục phổ thông trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia giáo dục, nhà quản lí và các trường phổ thông.
Ngoài ra, các chuyên đề dạy học về giáo dục STEM ở lớp 11, 12 dự kiến là các hoạt động trải nghiệm dưới hình thức câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, trong đó có các hoạt động nghiên cứu STEM; Tính mở của chương trình cho phép một số nội dung giáo dục STEM có thể được xây dựng thông qua chương trình địa phương, kế hoạch giáo dục nhà trường; qua những chương trình, hoạt động STEM được triển khai, tổ chức thông qua hoạt động xã hội hóa giáo dục.
Tuy nhiên, để triển khai thực tiễn thì theo PGS. Hoàng cần các điều kiện về cơ sở vật chất như Phòng học bộ môn; hình thành hệ thống các không gian sáng chế (Makerspaces); Về con người: Phải được chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy công nghệ; Kết nối các nhà khoa học ở các trường Đại học, Cao đẳng với các hoạt động giáo dục STEM ở trường phổ thông.
Trao đổi thêm với các chuyên gia, GS. TSKH Đỗ Đức Thái, thành viên Ban Phát triển CT GDPT tổng thể, Chủ biên CT môn Toán cho biết, khi áp dụng STEM, chúng ta được nhiều thứ.
Thứ nhất, giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
Thứ ba, giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết.
Các trường học mong muốn gì?
Là đơn vị đào tạo giáo viên, thầy Lê Xuân Quang, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng, con đường giáo dục STEM cho học sinh trong chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ có một số lưu ý. Cụ thể, giáo dục STEM thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cần hướng tới việc cung cấp cho học sinh các tình huống, bối cảnh đa dạng và phong phú đòi hỏi sự phát triển, vận dụng nhiều tri thức kĩ năng, cho phép học sinh tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề theo các cách khác nhau nhằm đạt được kết quả tốt hơn; cung cấp cho học sinh cơ hội sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
GS. TSKH Đỗ Đức Thái tham gia trao đổi tại Hội thảo.
“Với nội dung, kết cấu của chương trình tổng thể có thể thấy giáo dục STEM sẽ có nhiều không gian, thời gian để triển khai. Về bản chất giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ là một cách tiếp cận liên ngành trong dạy học các môn Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán nhằm tạo cơ hội cho học sinh kết nối những kiến thức được học với những vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Giúp học sinh có thể đưa ra các giải pháp sáng tạo khi có cơ hội áp dụng những kiến thức được học, giúp học snih có những suy nghĩ rộng hơn về những tình huống hay vấn đề nhất định” thầy Quang cho hay.
Theo bà Phạm Thị Minh An, Hiệu trưởng Trường Olympia (Hà Nội), sau 2 năm câu lạc bộ STEM được triển khai tại trường đã mang lại nhiều kết quả tốt. Hoạt động hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học thu được thành quả đáng khích lệ. Năm học 2016-2017 có 10 đề tài tham gia vòng chung kết và tham gia trưng bày, báo cáo sản phẩm thuộc nhiều lĩnh vực STEM.
“Qua những năm đầu triển khai, đội ngũ giáo viên của trường đã tích lũy ít nhiều kinh nghiệm về dạy học theo định hướng STEM. Song song với đó, các giáo viên cũng rất tích cực chia sẻ kinh nghiệm và tập huấn lẫn nhau để nâng cao năng lực và nhân rộng các hoạt động này. Sự tham gia của học sinh trong các giờ học được tổ chức theo định hướng STEM cũng cho thấy sự hứng thú, tích cực và chủ động hơn. Nhờ đó hiệu quả học tập được nâng cao” bà An cho biết.
Ngoài ra, cần tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ từ các cấp lãnh đạo, trường đại học, Viện nghiên cứu, trung tâm giáo dục STEM….và các đơn vị bạn. Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học.
Đại diện Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định cũng đề nghị, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần hỗ trợ nguồn sách khoa học về STEM cho cả giáo viên và học sinh. Tăng cường đào tạo với chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm về STEM cho giáo viên. Có cơ chế ghi nhận cho giáo viên và học sinh có kĩ năng, kiến thức, đóng góp trong lĩnh vực…
Sau một ngày, Hội thảo đã lắng nghe nhiều ý kiến để tiếp tục hoàn thiện nội dung, hình thức của giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông mới.
Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC VẬT LÝ TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI
Thứ năm – 10/08/2017 01:09
Trong thời đại ngày nay, thế giới đang có sự biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Thành quả của các cuộc cách mạng công nghiệp, nhất là cuộc cách mạng lần thứ tư, đang mang lại những cơ hội phát triển nhanh chóng và cũng đặt ra những thách thức không nhỏ, nhất là đối với các nước còn chậm phát triển. Mặt khác, môi trường sống tự nhiên cũng như xã hội của con người đang biến đổi nhanh chóng.
logo HVL anh nen
Chúng ta đang chứng kiến những biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt; ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trầm trọng; chính trị, xã hội đang có nhiều biến động. Đứng trước những thách thức của thời đại, không có con đường phát triển nào tốt hơn là con đường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội để bảo đảm phát triển bền vững. Thách thức của thời đại buộc phải đổi mới giáo dục, đó là nhu cầu cấp thiết và là xu thế tất yếu toàn cầu. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới được quy định rõ trong Nghị quyết 88/2014/ QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của moi học sinh”. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, “chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp người học phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới” [2]. Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu tối thượng của giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng là phát triển năng lực của con người. Biểu hiện của năng lực là kỹ năng giải quyết một tình huống có ý nghĩa, chứ không phải ở việc tiếp thụ một lượng tri thức rời rạc. Để có thể “góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh” thì việc dạy học tích hợp là một cách thức rất hữu hiệu. Vì thế, tuân theo xu thế phát triển của giáo dục thế giới và điều kiện Việt Nam, bên cạnh việc sử dụng những cách thức giáo dục khác, chương trình giáo dục phổ thông mới đã có những bước đi ban đầu về dạy học tích hợp. Là một chương trình môn học của Chương trình giáo dục phổ thông, ^ chương trình môn Vật lý quán triệt đầy đủ quan điểm phát triển, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông dưới góc độ vật lý. Nội dung giáo dục vật lý được phân bố ở cả hai giai đoạn giáo dục, với các mức độ khác nhau. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản được thực hiện qua môn Tìm hiểu tự nhiên (cấp Tiểu học) và môn Khoa học tự nhiên (cấp Trung học cơ sở). Ở giai đoạn giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua môn Vật lý (cấp Trung học phổ thông). Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, thông qua môn Khoa học tự nhiên, giáo dục vật lý giúp học sinh hình thành một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên lý cơ bản của thế giới tự nhiên, góp phần vào việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh, làm nền tảng cho việc học tập ở các mức độ tiếp theo hoặc có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Ngoài việc góp phần cùng với các môn học khác để phát triển các năng lực chung, môn học này còn nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực chuyên môn: i) nhận thức kiến thức khoa học tự nhiên, ii) tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên, iii) vận dụng kiến thức khoa học tự nhiên vào thực tiễn, iv) ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc chú trọng xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực, chương trình môn học cũng tính đến điều kiện cơ sở trang thiết bị và đặc biệt là tính đặc thù của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở nên việc tích hợp được thực hiện sao cho các mạch nội dung được cấu trúc một cách khoa học, đồng thời đảm bảo thuận tiện cho việc tổ chức dạy học. Vì thế, chương trình đã được thiết kế để có thể soạn sách giáo khoa, hay bài giảng của giáo viên được thuận tiện cho mỗi phân môn Vật lý, Hóa học và Sinh học. Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, ở cả ba lớp: 10, 11 và 12, Vật lý là môn học độc lập, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Nội dung môn học được thiết kế thành các bài học và các chuyên đề để vừa bảo đảm phát triển tri thức và kỹ năng thực hành trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông góp phần giúp học sinh củng cố vững chắc các phẩm chất, kỹ năng phổ thông cốt lõi, hoàn thiện dần các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học. Trên cơ sở nội dung nền tảng đã trang bị cho học sinh trong giai đoạn giáo dục cơ bản, chương trình lựa chọn phát triển những vấn đề thiết thực nhất, mang tính ứng dụng cao đối với học sinh trong việc định hướng ngành nghề sau khi hoàn thành Trung học phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông một mặt kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành và mặt khác, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, đồng thời tiếp cận được với những thành tựu của khoa học giáo dục và khoa học Vật lý phù hợp với trình độ nhận thức và tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông gắn lý thuyết với thực hành, gắn nội dung môn học với thực tiễn nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Do những yêu cầu khách quan nói trên nên cấu trúc nội dung chương trình môn Vật lý có những thay đổi so với cấu trúc chương trình môn Vật lý hiện hành. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông chú trọng đến việc đổi mới phương pháp giáo dục, nhằm góp phần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh học môn Vật lý. Như chúng ta đã biết, mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đạt chuẩn của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, hoạt động quản lý và phát triển chương trình, nhằm bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định trong chương trình tổng thể và chương trình môn học. Phạm vi đánh giá bao gồm toàn bộ các môn học mà học sinh học. Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế. Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong nhóm, trong lớp. Việc đánh giá định kỳ do cơ sở giáo dục tổ chức. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục. Phương thức đánh giá bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình học sinh và xã hội. Ở Việt Nam, sự thành bại của một chương trình giáo dục phụ thuộc rất mạnh vào việc quan niệm và tổ chức các “kỳ thi”. Chính các “kỳ thi” hiểu không đúng đã góp phần làm méo mó các mục tiêu của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục ở nước ta. Nếu không trả lại đúng ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá thì các đổi mới trong giáo dục rất khó đạt được mục tiêu mong muốn.
Tác giả bài viết: PGS. TS Nguyễn Văn Khánh
Nguồn tin: Hội Vật Lý
Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Xuất Giải Pháp Thực Hiện Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!