Bạn đang xem bài viết Đề Tài Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Nền Nông Nghiệp Bền Vững Của Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nông nghiệp Việt Nam đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn. Nông nghiệp đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá quan trọng, tham gia ngày càng sâu sắc vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nền nông nghiệp của Việt Nam đã và đang chuyển mạnh từ sản xuất theo mục tiêu số lượng sang hiệu quả và chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và bền vững. Phát triển bền vững nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề trọng tâm mà Đảng và Chính phủ quan tâm và đã được thể hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách như Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được triển khai cùng các chỉ thị, nghị quyết khác của các Đại hội và Hội nghị Trung ương của các khoá V, VI, VII đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nước ta. Đại hội X của đảng đã nhấn mạnh Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng; Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Thực trạng và giải pháp phát triển nền nông nghiệp bền vững của Việt Nam MỤC LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định vào tốp những nước đầu của thế giới. Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2009 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp. Việt Nam vẫn được coi là nước nông nghiệp với khoảng trên 80% dân số sống ở nông thôn và khoảng 74,6% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Có thể nói nông nghiệp, nông thôn là bộ phận quan trọng trong nên kinh tế quốc dân của Việt Nam. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu nông sản đem lại nguồn ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số người dân. Nông thôn là môi trường sống của đa số nhân dân, nơi bảo tồn và phát triển các truyền thống văn hoá dân tộc. Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, và coi đó nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị – xã hội, sự phát triển hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Chính nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà trong những năm qua ngành nông nghiệp và nông thôn đã gặt hái được nhiều thành tựu hết sức đáng mừng. Nông nghiệp Việt Nam không những đảm bảo tự cung tự cấp mà còn trở thành một cường quốc trên thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó ngành nông nghiệp Việt Nam cũng còn có một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như vấn đề phát triển nông nghiệp kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa thức sự xử dụng hiệu quả và phát huy hết các nguồn lực ……… Do dó với mong muốn tìm hiểu thực trạng nền nông nghiệp nước nhà và đề xuất một số giải pháp để phát triển tốt hơn ngành nông nghiệp, em mạnh dạn chọn tiến hành nghiên cứu đề tài tiểu luận: ”Thực trạng và giải pháp phát triển nền nông nghiệp bền vững của Việt Nam”. Do điều kiện hạn chế về trình độ, thời gian nên trong tiểu luận sẽ có nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp thêm của thầy cô giáo và các bạn đọc quan tâm để em có thể hoàn thiện thêm hiểu biết của mình. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài – Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững – Đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam – Đề ra một số giải pháp để phát triển nền nông nghiệp bền vững 1.3 Phương pháp nghiên cứu của đề tài * Phương pháp thu thập số liệu Do điều kiện hạn chế, nên chúng tôi chủ yếu tiến hành thu thập số liệu thứ cấp từ các nguồn: * Phương pháp xử lý số liệu Căn cứ vào mục đích của đề tài, tôi tiến hành thu thập những số liệu cần có bên trên và phân tích các số liệu đó. Tuy nhiên, để phân tích được, tôi sẽ phân tích các số liệu đó ra theo thời gian, sau đó sắp xếp chúng lại để tạo thành một chuỗi thời gian nhằm cho thấy sự thay đổi qua từng năm trong lĩnh vực Nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Từ đó có thể nhận biết được những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục để đưa Nông nghiệp nông thôn Việt Nam phát triển theo hướng Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá. Tuy nhiên, để định lượng chính xác được một số những thành tựu và hạn chế, tôi sử dụng các chương trình (tính toán, xếp hạng,…) trong phần mềm Excel. Một phương pháp nữa phục vụ tôi trong quá trình phân tích và xử lý số liệu là phương pháp so sánh, nhằm so sánh giữa các năm với nhau và so sánh giữa Nông nghiệp với các ngành khác cũng như giữa Nông nghiệp với tổng thể nền kinh tế. PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU – Phát triển bền vững là sự phát triển trong đó lồng ghép các quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường, đảm bảo thỏa mãn những nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của tương lai. – Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. (Hội đồng thế giới về môi trường và Phát triẻn của Liên hợp quốc – WCED) – Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (đặc biệt là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (đặc biệt là tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (đặc biệt là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). – Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được yêu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm giảm khả năng thỏa mãn yêu cầu của thế hệ mai sau (Tổ chức sinh thái và môi trường Thế giới – WORD) – Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phải đáp ứng được 2 yêu cầu cơ bản: Đảm bảo đáp ứng cầu nông sản hiện tại và duy trì được tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau (bao gồm: gìn giữ quỹ đất, nước, rừng, không khí, khí quyển và tính đa dạng sinh học….. – Nông nghiệp bền vững là phạm trù tổng hợp, vừa đảm bảo các yêu cầu về sinh thái, kỹ thuật vừa thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1 Vai trò của Nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế Việt Nam. Về nông nghiệp: “phát triển nền nông nghiệp toàn diện”, trên cơ sở “bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống”, “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng nông, lâm, thủy sản qua chế biến; tăng kim ngạch xuất khẩu”; và tiến tới “Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao”. Về nông thôn: “Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa”; “chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn”; và “Xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại”, trên cơ sở thực hiện các biện pháp:“Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn, chú trọng phát triển hệ thống thủy lợi, bảo đảm đường giao thông thông suốt đến trung tâm xã, có đủ trường học, trạm y tế và nước sạch cho sinh hoạt. Bảo vệ môi trường sinh thái”; “Giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn”. Nền kinh tế Việt Nam trong hơn 20 năm Đổi mới vừa qua (1986-2008) đã đạt được nhiều thành tựu phát triển khả quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản lượng các loại nông sản đều tăng, nổi bật nhất là sản lượng lương thực đều tăng với tốc độ cao từ năm 1989 đến nay. Năm 1989 là năm đầu tiên sản lượng lương thực vượt qua con số 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD. Đến năm 2008 vừa qua sản lượng lương thực đã đạt đến con số kỷ lục 39 triệu tấn và đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 1,7 tỷ USD. Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 3,3%. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng cải thiện hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,5% năm; bộ mặt nông thôn thay đổi theo hướng văn minh; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân được nâng lên cao hơn trước. Nông nghiệp ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn vào tiến trình phát triển, hội nhập của kinh tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986, kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 400 triệu USD. Đến năm 2007 đã đạt tới 12 tỷ USD, tăng gấp 30 lần. Nhờ có những thành tựu, kết quả đó, nông nghiệp không chỉ đã góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã ngày càng tạo ra nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần tích cực vào sự đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong những năm qua. Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. 3.2 Tình hình phát triển nông nghiệp – nông thôn trong thời gian vừa qua. 3.2.1 Một số thành tựu đạt được Về đánh giá thực trạng, kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân nước ta trong những năm vừa qua là khá toàn diện và to lớn, khái quát thành năm thành tựu: Một là, nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; xuất khẩu nông, lâm thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học – công nghệ được nâng cao hơn. Ðáng chú ý là giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng bình quân 16,8%/năm, năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 15,4 tỷ USD chiếm 27,2% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một số sản phẩm có vị thế cao trên thị trường thế giới, như gạo, cao-su, cà-phê, hồ tiêu, hạt điều, đồ gỗ, thủy sản. Hai là, Tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, công nghiệp chế biến được tiếp tục phát triển góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Chúng ta đã có những bước tiến đáng mừng trong việc ứng dụng các biện pháp kỹ thuật mới trong lai tạo giống, cơ khí hóa nông nghiệp và đẩy mạnh được công nghệ chế biến. Bai là, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nổi bật là sự quan tâm đầu tư phát triển thủy lợi theo hướng đa mục tiêu. Từ năm 2000 đến nay đã tăng nhanh cả năng lực tưới và năng lực tiêu, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho 83% diện tích gieo trồng lúa, một số cây trồng khác và cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ. Hệ thống đê sông, đê biển được củng cố, nâng cấp một bước, nhiều công trình tiêu thoát lũ và trên 1.100 cụm tuyến dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng và phát huy tác dụng… Bốn là, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới; kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn. Kinh tế hộ tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng số lượng và quy mô. Đến nay cả nước đã có khoảng trên 12 triệu hộ nông dân hoạt động trong các lĩnh vực trồng trọt, nuôi trồng thủy sản …. Nhờ chính sách dồn điền đổi thửa mà quy mô diện tích của các hộ được tập trung hơn. Kinh tế trang trại phát triển mạnh đa dạng và hiệu quả hơn. Đến 2007 cả nước đã có 113,7 nghìn trang trại, tăng so với năm 2001(52.682 trang trại) là 85,4%. Quy mô trang trại ngày càng mở rộng, góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản suất; là mô hình sản xuất hàng hoá có hiệu quả, góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Năm là, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Năm 2007 thu nhập bình quân đầu người ở khu vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000, đặc biệt là về cơ bản đã xóa được đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%, thành tựu này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Ðồng thời, các công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hóa, thông tin, thể thao cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Biểu đồ 3.1: một số thành tựu trong tăng trưởng ngành nông nghiệp Việt Nam 3.3 Những thách thức trong phát triển bền vững nền nông nghiệp Việt Nam Bên cạnh những thành tựu đã đạt được như trên thì sự phát triển bền vững trong nông nghiệp nông thôn nước ta còn gặp rất nhiều thách thức: – Ruộng đất manh mún, không phù hợp với việc sản xuất hàng hóa lớn, tập trung. Khi mà nền nông nghiệp đã lớn mạnh đảm bảo an ninh lương thực trong nước thì mục tiêu là phải xuất khẩu nông sản phẩm, mang lại hiệu quả cao hơn cho người nông dân. Tuy nhiên, điều này cần có khu sản xuất hàng hóa tập trung, sản xuất đồng loạt theo quy trình kỹ thuật nhất định. Tuy nhiên, Việt nam có dân số làm nông nghiệp đông, đất sản xuất nông nghiệp chật hẹp. Do đó, ruộng đất manh mún nhất là ở vùng đồng bằng Sông Hồng diện tích đất nông nghiệp trung bình của mỗi hộ nông dân chỉ khoảng 0,3hecta. Vì vậy, khó khăn để áp dụng máy móc, cơ giới hóa vào sản xuất, năng suất lao động thấp. – Quá trình cơ giới hóa nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến diễn ra chậm. Đa số các khâu sản xuất trong nông nghiệp đều làm thủ công nên năng suất lao động trong nông nghiệp rất thấp. Điều này là do tình trạng ruộng đất manh mún gây nên, diện tích nhỏ hẹp khó có thể đưa các máy móc lớn vào sử dụng, chủ yếu chỉ có thể sử dụng các máy nhỏ gọn công suất thấp. Ngoài ra, còn do người nông dân còn thiếu vốn để đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị cho quá trình sản xuất. Họ chủ yếu sử dụng sức lao động của gia đình và đổi công theo phương châm “lấy công làm lãi” nên năng suất lao động chưa được cao. – Sự kết hợp giữa công nghiệp và nông nghiệp còn chưa tốt, nhất là công nghiệp chế biến sau thu hoạch. Chúng ta còn rất thiếu các sản phẩm công nghiệp, máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các loại thiết bị này chủ yếu vẫn là đi nhập khẩu, giá thành cao cản trở việc đầu tư của người nông dân. Đặc biệt công nghệ chế biến nông sản sau khi thu hoạch của chúng ta còn rất thiếu. Người nông dân chủ yếu bán các sản phẩm thô, tươi sống có giá trị thấp. Khi vào thời vụ do không có các cơ sở chế biến nên các sản phẩm của người dân bị giảm phẩm cấp nhanh, bị những người thu mua ép giá hoặc không thể tiêu thụ được. Điển hình như: Vải thiều xuất khẩu sang Trung Quốc bị ép thời gian nên đã bị hỏng rất nhiều ở cửa khẩu; lúa gạo bị rớt giá vào mùa thu hoạch …… – Thị trường nông sản bấp bênh thiếu ổn định, giá cả biến động theo hướng bất lợi cho người nông dân. Người nông dân do trình độ còn hạn chế nên vấn đề nắm bắt thông tin thị trường còn yếu, khó có khả năng bán sản phẩm của mình với giá cao. Hơn nữa, ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thì sự nắm bắt thông tin thị trường, luật thương mại quốc tế cũng còn yếu, do đó các sản phẩm nông sản của Việt Nam có thị trường không ổn định. Chúng ta thường bị bất lợi trong các thương vụ cạnh tranh xuất khẩu nông sản hoặc bị ép giá. Tiêu biểu như thị trường tiêu thụ cá Da trơn, cà phê, gạo …… thường xuyên xảy ra những vụ khiếu kiện, ép giá của bạn hàng. Người nông dân chính là người thiệt thòi nhất khi phải chịu nghịch lý được mùa thì nông sản rớt giá, khi mất mùa giá cao thì lại không có nông sản để bán. Điều này làm cho lợi nhuận của người nông dân thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. – Áp dụng ngày càng nhiều các giống cây trồng vật nuôi mới thay thế các giống truyền thống đã làm cho dịch bệnh, sâu bệnh ngày càng nhiều và khó khăn cho công tác phòng chống dịch. Điều này đã làm cho việc sử dụng lạm dụng các sản phẩm hóa học, thuốc trừ sâu ngày càng nhiều gây ô nhiễm môi trường, suy thoái đất, nguồn nước và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người. Người nông dân có trình độ còn hạn chế, chưa ý thức được việc bảo vệ môi trường nên đã sử dụng bừa bãi các sản phẩm thuốc hóa học gây ra ô nhiễm nặng nề về môi trường nông thôn. Điển hình vào các đợt sâu bệnh nở rộ thì nhà nhà đi phun thuốc trừ sâu, gây ra ô nhiêm không hhí nặng nề trên đồng ruộng. Tác hại lâu dài là các hóa chất này ngấm xuống đất, nước ngầm, người dân bị đe dọa nghiêm trọng về sức khỏe. Ngày càng có nhiều căn bệnh lạ nguy hiểm xuất hiện, có những nơi đã xuất hiện “làng ung thư” …… một phần là do môi trường sống bị ô nhiễm từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. – Tình trạng sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên vẫn diễn ra phổ biến ở các vùng nông thôn. Người nông dân vì lợi trước mắt mà đã khai thác một cách quyệt quệ các nguồn tài nguyên quý như rừng, động thực vật ….. làm mất khả năng tái tạo tự nhiên của chúng gây mất cân bằng sinh thái. Đất đai ngày càng bị sói mòn, thoái hóa, ô nhiễm mà không được quan tâm cải tạo phục hồi một cách thỏa đáng. 3.4 Một số đề xuất giải pháp để phát triển nền nông nghiệp nước nhà bền vững – Thực hiện tốt chủ trương dồn điền đổi thửa của Đảng, Nhà nước đã đề ra. Đây là chủ trương đúng đắn để tạo ra khả năng tích tụ ruộng đất có thể áp dụng công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Đồng thời có thể hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Để làm được điều này, đòi hỏi các cấp các ngành cần tuyên truyền vận động nông dân hiểu được chủ trương, nâng cao ý thức cộng đồng mới có thể thực hiện được. Việc dồn điền đổi thửa phải được áp dụng linh hoạt phù hợp với từng địa phương, chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải thực hiện đúng luật định. – Đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn như đường giao thông, hệ thống thủy lợi ….. phục vụ tốt cho công tác tưới tiêu, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất và vận chuyển giao lưu bán các nông sản phẩm. Như vậy sẽ làm nâng cao được năng suất và giá trị sản phẩm. – Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp như sản xuất máy nông nghiệp. Phát triển các cơ sở chế biến nông sản phẩm ngay tại các địa phương để chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Như vậy mới có thể nâng cao được giá trị hàng nông sản, tránh tình trạng ép giá khi được mùa. – Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với thực tế của địa phương vào sản xuất. Nếu đưa được các loại giống cây trồng, vật nuôi thích hợp vào sản xuất sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho bà con nông dân. Những năm qua nhờ thực hiện tốt chủ trương này mà nhiều vùng canh tác lúa kém hiệu quả đã được chuyển sang nuôi troòng thủy sản mang lại lợi nhuận cao cho người nông dân. Một số vùng ven đô đã chuyển từ trồng thuần lúa sang trồng rau mầu, hoa, cây cảnh cung cấp cho nội đô thành phố. Nhờ đó mà có rất nhiều tấm gương nông dân làm giầu lên nhanh chóng. – Sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lao động tại địa phương. Cần có biện pháp đào tạo nâng cao trình độ và sử dụng hợp lý nguồn lao động nông thôn. Đa dạng hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh để tạo việc làm tại chỗ vừa tạo thêm thu nhập, phân công lao động nông thôn làm cho dân cư nông thôn ổn định, giảm bớt sức ép di dân ra thành phố. Thực hiện chủ trương ”ly nông bất ly hương” bằng cách phát triển thêm các ngành nghề phụ ở nông thôn như: hàng mây tre đan, gốm sứ, đúc đồng …… vừa giữ được bản sắc làng nghề vừa thu hút đượng lao động nông nhàn tăng thêm thu nhập cho người dân. – Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển các giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất, chất lượng và sức chống chịu sâu bệnh cao, không thoái hóa, không làm tổn hại đến đa dạng sinh học. Những năm vừa qua, chúng ta cũng đã nghiên cứu được nhiều loại giống cây trồng vật nuôi có giá trị tốt theo hướng này như: giống lúa chịu khô hạn cho đồng bào dân tộc vùng cao, giống lua kháng rầy (CR203) …… nhưng số lượng còn ít. Chúng ta chủ yếu vẫn phải nhập khẩu các giống chất lượng cao từ nước ngoài như: Xoài Thái Lan, các giống lúa của Trung Quốc như Khang Dân, Syngenta …… Trong thời gian tới cần có chính sách đầu tư cho các Viện nghiên cứu, các trung tâm sản xuất giống chất lượng cao để lai tạo các giống mới bản địa sẽ có khả năng thích nghi tốt hơn các giống nhập ngoại. Đồng thời cần có biện pháp thẩm định, chọn lọc kỹ các giống cây trồng, vật nuôi nhập ngoại tránh hiện tượng nhập khẩu tràn lan như thời gian qua đã làm cho ”lợi bất gặp hại” như: Ốc bươu vàng, rùa tai đỏ ……. – Phát triển ngành sản xuất phân bón hữu cơ, phân sinh học, thuốc trừ sâu sinh học để thay thế cho các loại phân bón hóa học vô cơ, thuốc trừ sâu độc hại đang bị sử dụng lạm dụng như hiện nay. Việc lạm dụng các chế phẩm hóa học thời gian qua trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho môi trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đất đai bị thoái hóa, mất cân bằng sinh thái. Do đó, việc sử dụng các chế phẩm sinh học hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên sẽ là giải pháp đúng đắn để cải thiện môi trường đất, làm tăng độ phì, giảm thiểu ô nhiễm mà vẫn làm tăng năng suất và hiệu quả sử dụng. – Tổ chức tập huấn nâng cao hiểu biết, tuyên truyền cho người nông dân hiểu và áp dụng thép hướng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, sử dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM. Làm tốt được điều này sẽ nâng cao được ý thức của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường, góp phần làm cân bằng sinh thái trở lại. Nhiều địa phương đã áp dụng sử dụng các con thiên địch thay cho việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật như: nuôi kiến trong vườn cam để trừ sâu đục thân, hay nuôi ong mắt đỏ để trừ rệp ……. – Cần có biện pháp để bảo tồn nguồn gen quý của những giống cây trồng, vật nuôi tại địa phương. Chúng ta có rất nhiều giống cây con quý như: Lợn móng cái mắn đẻ, gà di có chất lượng thịt ngon, các giống cây ăn quả quý như Bưởi Đoan Hùng, Phúc Trạch ……. Những năm qua chúng ta đã không bảo vệ và lưu trữ tốt những gen quý này nên nhiều giống quý đã dần bị tuyệt chủng. Do đó cần có biện pháp để lưu trữ chúng, phục vụ cho việc lai tạo giống mới chất lượng cao sau này. PHẦN IV: KẾT LUẬN Nông nghiệp Việt Nam đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn. Nông nghiệp đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá quan trọng, tham gia ngày càng sâu sắc vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nền nông nghiệp của Việt Nam đã và đang chuyển mạnh từ sản xuất theo mục tiêu số lượng sang hiệu quả và chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và bền vững. Phát triển bền vững nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề trọng tâm mà Đảng và Chính phủ quan tâm và đã được thể hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách như Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được triển khai cùng các chỉ thị, nghị quyết khác của các Đại hội và Hội nghị Trung ương của các khoá V, VI, VII đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nước ta. Đại hội X của đảng đã nhấn mạnh Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng; Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Cũng là vấn đề “Tam nông” trong giai đoạn hiện nay có nhiều Hội thảo quy tụ rất nhiều các nhà khoa học, các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Nông nghiệp-Nông thôn chúng ta có quyền hy vọng sẽ có những chính sách và giải pháp thiết thực và phù hợp nhằm đưa Nông nghiệp-nông thôn Việt Nam phát triển hài hoà và phù hợp với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Đứng trên những thành công to lớn đã đạt được và đứng trước những thách thức đang gặp phải của việc phát triển nông nghiệp bền vững nền nông nghiệp nước nhà thì cần có những biện pháp, đường lối phát triển phù hợp để cân đối giữa phát triển và tính bền vững. Có như vậy mới làm cho nông nghiệp phát triển ổn định lâu dài, thực hiện thành công xây dựng bộ mặt nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết 26 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đề ra. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Nguyên lý kinh tế nông nghiệp, Đỗ Kim Chung, NXB nông nghiệp 2009 2. Đề án “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn” 3. Phát triển và hội nhập: Phát triển Nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ đổi mới, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn, Báo Nông nghiệp 4. Website của Bộ Nông nghiệp và PTNT: www.mard.gov.vn 5. Website của Tổng cục thống kê: 6. Theo vneconomy, chính sách nào để phát triển Nông thôn, nâng cao thu nhập nông dân, Châu Văn Ly
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tieu_luan_phat_trien_ben_vung_non_nghiep_8024.docx
Luận Văn Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Nền Nông Nghiệp Bền Vững Của Việt Nam
Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định vào tốp những nước đầu của thế giới. Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2009 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp. Việt Nam vẫn được coi là nước nông nghiệp với khoảng trên 80% dân số sống ở nông thôn và khoảng 74,6% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Có thể nói nông nghiệp, nông thôn là bộ phận quan trọng trong nên kinh tế quốc dân của Việt Nam. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu nông sản đem lại nguồn ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số người dân. Nông thôn là môi trường sống của đa số nhân dân, nơi bảo tồn và phát triển các truyền thống văn hoá dân tộc. Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, và coi đó nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị – xã hội, sự phát triển hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Chính nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà trong những năm qua ngành nông nghiệp và nông thôn đã gặt hái được nhiều thành tựu hết sức đáng mừng. Nông nghiệp Việt Nam không những đảm bảo tự cung tự cấp mà còn trở thành một cường quốc trên thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó ngành nông nghiệp Việt Nam cũng còn có một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như vấn đề phát triển nông nghiệp kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa thức sự xử dụng hiệu quả và phát huy hết các nguồn lực . Do dó với mong muốn tìm hiểu thực trạng nền nông nghiệp nước nhà và đề xuất một số giải pháp để phát triển tốt hơn ngành nông nghiệp, em mạnh dạn chọn tiến hành nghiên cứu đề tài tiểu luận: “Thực trạng và giải pháp phát triển nền nông nghiệp bền vững của Việt Nam”. Do điều kiện hạn chế về trình độ, thời gian nên trong tiểu luận sẽ có nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp thêm của thầy cô giáo và các bạn đọc quan tâm để em có thể hoàn thiện thêm hiểu biết của mình.
TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC
TIN KHUYẾN MÃI
Thư viện tài liệu Phong Phú
Hỗ trợ download nhiều Website
Nạp thẻ & Download nhanh
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Nhận nhiều khuyến mãi
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay
NẠP THẺ NGAY
DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN
Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững Ở Việt Nam
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
3
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
5
5. Bố cục của tiểu luận
5 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
7
Khái quát chung về phát triển bền vững
7
1.1.
1.1.1.
Sự hình thành về lý thuyết phát triển bền vững
1.1.2.
Khái niệm về phát triển bền vững
Phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững
15
1.2.1.
Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
15
1.2.2.
Nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững
17
1.2.
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA 2.1. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
2.1.1.
Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
20
2.1.2.
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Việt Nam
24
2.2. Những thành tựu đạt được trong phát triển nền nông nghiệp bền vững ở nước ta
29
2.2.1. Đảm bảo giữ vững được nhịp độ tăng trưởng ổn định và có hiệu quả trong thời gian dài
29
2.2.2. Giải quyết các vấn đề về mặt xã hội nảy sinh trong khu vực nông nghiệp, nông thôn
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
38
1
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp 2.2.3. Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng phát triển sạch, môi trường tự nhiên được bảo vệ và hình thành các vùng nông nghiệp sinh thái
38
2.3. Những hạn chế và thách thức trong phát triển nền nông nghiệp bền vững ở nước ta
39
CHƯƠNG 3- GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA
43
3.1. Các giải pháp để phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta
43
3.1.1. Về luật pháp và quy hoạch
43
3.1.2. Về kinh tế
44
3.1.3. Về kỹ thuật và công nghệ
45
3.2. Phương hướng, chiến lược phát triển
46
KẾT LUẬN
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
58
PHỤ LỤC
59
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
2
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định vào tốp những nước đầu của thế giới. Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2009 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp. Nhờ có sự đổi mới cơ chế, chính sách mà Việt Nam đã thu được rất nhiều thành tựu trong sản xuất nông nghiệp. Với mức tăng trưởng bình quân trên 4% năm, đến nay sản xuất nông nghiệp nói chung đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và đóng góp một phần vào giá trị kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Sản xuất lựơng thực, đặc biệt là lúa gạo tăng lên liên tục cả về diện tích gieo trồng và năng suất, đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, ổn định an ninh lương thực đã tạo ra nền tảng vững chắc cho nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, phục hồi và phát triển mạnh mẽ trong suốt gần 30 năm qua. Những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp là vô cùng to lớn. Song đứng trước những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp Việt Nam đang có những bước chuyển mình phát triển theo xu thế chung của thế giới. Một trong những bước chuyển đó chính là phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Ở Việt Nam vấn đề phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn là một vấn đề mới. Đặc biệt trong gần 30 năm đổi mới vừa qua bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đạt được thì thực tiễn cũng đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều khó khăn và thách thức khi xây dựng nền nông nghiệp hiện đại.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
3
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Đứng trước những khó khăn và thách thức đó, thì việc xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp phát triển theo xu hướng bền vững có ý nghĩa rất quan trọng. Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn tìm hiểu đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp bền vững, tiểu luận đề ra các giải pháp để xây dựng và phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài : –
Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về phát triển bền vững và phát triển
bền vững trong nông nghiệp từ góc độ lý luận và thực tiễn. –
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp bền vững của một
số quốc gia trên thế giới. –
Phân tích thực trạng việc phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt
Nam và những vấn đề đặt ra. –
Đề xuất định hướng và giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững
ở nước ta trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển bền vững trong nông nghiệp. Việc phát triển nông nghiệp bền vững đó được xem xét, tiếp cận trên góc độ: đảm bảo nhịp độ tăng trưởng ổn định, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, xây dựng nền nông nghiệp theo xu thế nền nông nghiệp sinh thái và bảo vệ môi trường. Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
4
–
* Phương pháp xử lý số liệu Căn cứ vào mục đích của đề tài, tôi tiến hành thu thập những số liệu cần có bên trên và phân tích các số liệu đó. Tuy nhiên, để phân tích được, tôi sẽ phân tích các số liệu đó ra theo thời gian, sau đó sắp xếp chúng lại để tạo thành một chuỗi thời gian nhằm cho thấy sự thay đổi qua từng năm trong lĩnh vực Nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Từ đó có thể nhận biết được những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục để đưa Nông nghiệp nông thôn Việt Nam phát triển theo hướng Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá. Một phương pháp nữa phục vụ tôi trong quá trình phân tích và xử lý số liệu là phương pháp so sánh, nhằm so sánh giữa các năm với nhau và so sánh giữa Nông nghiệp với các ngành khác cũng như giữa Nông nghiệp với tổng thể nền kinh tế… 5. Bố cục của tiểu luận Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp bền vững.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
5
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta. Chương 3: Phương hướng và giải pháp để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
6
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG 1.1. Khái quát chung về phát triển bền vững 1.1.1. Sự hình thành về lý thuyết phát triển bền vững Đã có một lịch sử phát triển tương đối dài để hình thành khái niệm phát triển bền vững: + Năm 1963: Phát hành cuốn sách Mùa xuân câm lặng (Silent Spring): Cuốn sách “Mùa xuân câm lặng” của nữ văn sĩ Rachel Carson, được xuất bản năm 1962, với những tiết lộ về những hiểm họa của thuốc trừ sâu DDT, đã hoài nghi một cách biện chứng niềm tin của nhân loại vào tiến bộ khoa học kỹ thuật này và giúp tạo ra một sân khấu cho các phong trào môi trường. DDT, thuốc trừ sâu mạnh nhất từng được biết đến trên thế giới, đã làm tổn thương tới các hệ tự nhiên. Chỉ một lần phun DDT để diệt một loài sâu hại cây trồng, nó không chỉ diệt được loài sâu bệnh trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng, mà đồng thời cũng tiêu diệt luôn nhiều loài côn trùng có lợi khác và tồn lưu như một độc chất trong môi trường. “Mùa xuân câm lặng” đã làm thay đổi nhận thức của người dân Mỹ về môi trường, góp phần thúc đẩy các chính sách về môi trường của đất nước này. + Tháng 4 năm 1968: Câu lạc bộ Rome được thành lập: Đây là một tổ chức phi chính phủ, hỗ trợ cho việc nghiên cứu “Những vấn đề của thế giới” – một cụm từ được đặt ra nhằm diễn tả những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và công nghệ trên toàn cầu với tầm nhìn lâu dài. Tổ chức này đã tập hợp những nhà khoa học, nhà nhiên cứu, nhà kinh doanh cũng như các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới (bao gồm cả Tổng thống Liên xô Mikhail Sergeyevich Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
7
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Gorbachyov và Rigoberta Menchus Tum). Trong nhiều năm, Câu lạc bộ Rome đã công bố một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả bản báo cáo Giới hạn của sự tăng trưởng – được xuất bản năm 1972 – đề cập tới hậu quả của việc tăng dân số quá nhanh, sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên… + Năm 1970: Thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển: Năm 1970, UNESCO thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển, với mục tiêu là phát triển cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý và bảo tồn các tài nguyên của sinh quyển và cải thiện quan hệ toàn cầu giữa loài người và môi trường. + Tháng 6 năm 1972: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường được tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển được đánh giá là hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại, nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Hội nghị có 113 quốc gia tham dự và đã đạt được những kết quả chính sau: (i) Khởi động các cuộc đối thoại Bắc – Nam; (ii) Khởi động chương trình “Viễn cảnh toàn cầu”; (iii) Khởi động sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong giám sát và bảo vệ môi trường; (iv) Thành lập Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP); (v) Đề nghị Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lấy ngày 5 tháng 6 làm Ngày Môi trường Thế giới và quyết định rằng vào ngày này hàng năm các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc và tất cả chính phủ các nước tiến hành các hoạt động trên phạm vi toàn thế giới để tái khẳng định mối quan tâm của cả thế giới đối với việc gìn giữ và cải thiện môi trường sống cho nhân loại. Hội nghị đã có một tuyên bố về môi trường con người, thỏa thuận về một chương trình hành động quốc tế rộng lớn, thành lập Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), Ban thư ký thường trực về môi trường đặt tại Kenya và thành lập Quỹ Môi trường. + Năm 1980: Chiến lược bảo tồn thế giới: Tiếp theo Hội nghị Stockholm, các tổ chức bảo tồn như Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
8
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp (WWF) đã đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế giới”. Chiến lược này thúc giục các nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc gia của mình. Ba mục tiêu chính về bảo tồn tài nguyên sinh vật được nhấn mạnh trong Chiến lược như sau: (i) Duy trì những hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống (như cải tạo đất, tái sinh các nguồn dinh dưỡng, bảo về an toàn nguồn nước); (ii) Bảo tồn tính đa dạng di truyền; và (iii) Bảo đảm sử dụng một cách bền vững các loài và các hệ sinh thái. Từ khi Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố tới nay, đã có trên 60 chiến lược bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong chiến lược này, thuật ngữ Phát triển bền vững lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh ở góc độ bền vững sinh thái. Tiếp theo Chiến lược này, một công trình khoa học có tiêu đề “Cứu lấy Trái đất – Chiến lược cho cuộc sống bền vững” đã được IUCN, UNEP và WWF soạn thảo và công bố (1991) (cuốn sách này đã được Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường dịch ra tiếng Việt vào năm 1993). Trong cuốn sách, nhiều khuyến nghị về cải cách luật pháp, thể chế và quản trị đã được đề xuất. + Năm 1984: Thành lập Ủy ban Brundtland: Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã ủy nhiệm cho bà Gro Harlem Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED), nay còn được biết đến với tên Ủy ban Brundtland. Tới nay, Ủy ban này đã được ghi nhận có những cống hiến rất giá trị cho việc đẩy mạnh sự phát triển bền vững. + Năm 1987: Xuất bản Báo cáo Brundtland: Hoạt động của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới trở nên nóng bỏng khi xuất bản báo cáo có tựa đề “Tương lai của chúng ta” (tựa tiếng Anh: Our Common Futur và tiếng Pháp là Notre avenir à tous, ngoài ra còn thường được gọi là Báo cáo Brundtland). Bản báo cáo này lần đầu tiên công bố chính thức thuật ngữ “phát triển bền vững”, sự định nghĩa cũng như một cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
9
10
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
11
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Chương trình của Liên Hợp Quốc đã đề xuất 5 nội dung của phát triển bền vững gồm: –
Tập trung phát triển những vùng nghèo đói, đặc biệt là những vùng
rất nghèo mà ở đó con người không có lựa chọn nào khác ngoài làm giảm cấp nguồn lực và môi trường. –
Tạo ra sự phát triển cao về tính tự lập của cộng đồng trong điều kiện
có hạn về nguồn lực, nhất là tài nguyên thiên nhiên. –
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực dựa trên các kĩ thuật và công
nghệ thích hợp, kết hợp với khai thác tối đa kĩ thuật truyền thống. –
Thực hiện các chiến lược phát triển nhằm đảm bảo tự lực về lương
thực, cung cấp nước sạch và nhà ở, giữ gìn sức khỏe chống suy dinh dưỡng qua những công nghệ thích hợp. –
Xây dựng và thực hiện các chiến lược có người dân tham gia.
Để có sự phát triển bền vững cần có các yếu tố sau (theo Mal Com Gillis): –
Một hệ thống chính trị đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của người
dân vào việc ra quyết định. –
Một hệ thống kinh tế góp phần tạo sản phẩm thặng dư và kĩ thuật
công nghệ dựa trên tính tự lập và bền vững. –
Một hệ thống sản xuất đảm bảo phục hồi hệ sinh thái cho sự phát
–
Một hệ thống công nghệ làm nền tảng chọn xây dựng các phương
triển. pháp bền vững, lâu dài. –
Một hệ thống quốc tế đẩy mạnh mối quan hệ bền vững về thương
mại và tài chính. Hiện nay, đã có khoảng 120 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự 21 về PTBV cấp quốc gia và gần 7.000 chương trình nghị
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
12
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp sự 21 cấp địa phương. Đối với Việt Nam phát triển bền vững là con đường tất yếu. Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Điều đó đã được khẳng định qua Tuyên bố Rio de Janeiro (1992) về môi trường và phát triển, bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị sự 21. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (2002) ở Johannesburg, các nguyên tắc trên và Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững đã được khẳng định lại và cam kết thực hiện đầy đủ. Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và thực hiện cam kết quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) theo Quyết định 153/QĐTTg ngày 17/8/2004 làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch tổng Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
13
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp thể và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như của các ngành và địa phương. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định: “phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội thông qua cũng chứa đựng nhiều nội dung quan trọng của phát triển bền vững, như gắn phát triển kinh tế tri thức với bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng – an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, quốc phòng – an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội và trên từng địa bàn. Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững còn được phát triển, hoàn thiện và cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2023 được thông qua tại Đại hội XI của Đảng, trong đó nổi bật nhất là quan điểm về mối quan hệ tác động qua lại giữa “phát triển nhanh” với “phát triển bền vững”: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế – xã hội”. Như vậy, Đại hội XI của Đảng đã kế thừa và phát triển quan điểm của các Đại hội Đảng trước đây về phát triển bền vững ở Việt Nam với những nội dung phong phú, đa dạng, cụ thể, toàn diện và khoa học, vừa thể hiện được quan niệm chung của thế giới về phát triển bền vững, vừa phù hợp với khả năng, điều kiện và đặc điểm của Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
14
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Nhằm triển khai thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI về phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 432/2012/QĐTTg ngày 12/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2023 và Quyết định số 160/2013/QĐ-TTg ngày 15/1/2013 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững giai đoạn 2013 – 2023. Điều đó cho thấy có sự thống nhất cao trong nhận thức tư tưởng của Đảng và Nhà nước về vấn đề này. Hiện nay, định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam xác định 19 lĩnh vực ưu tiên: 5 lĩnh vực thuộc kinh tế; 5 lĩnh vực xã hội; 9 lĩnh vực tài nguyên môi trường. Trong các lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên có lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. 1.2. Phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững 1.2.1. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững Cùng với định nghĩa về PTBV, khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững cũng hình thành. Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xướng một số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi trường. Sau khi tổng kết nhiều mô hình và để phát triển toàn diện hơn, năm 1991 khái niệm “Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn Bền vững” (SARD) được đưa ra ở hội nghị của FAO về Nông nghiệp và Môi trường, tổ chức ở Hertogenbosch, tập trung vào những vấn đề bền vững trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông thôn ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Vấn đề quan trọng là khái niệm SARD được nhận thức và khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
15
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
16
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chắn và giới hạn. Nông nghiệp là ngành phải đáp ứng yêu cầu này trong điều kiện quỹ đất trồng trọt đã khai thác cạn, và lại phải tránh sử dụng những đất ít hoặc không thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. Quan niệm “Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững” xứng đáng được đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giúp các quốc gia sớm đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG), bởi vì nó có mối liên kết chặt chẽ với các mục tiêu này, cụ thể là xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường (Sơ đồ 1).
1.2.2. Nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững 1.2.2.1. Phát triển bền vững nông nghiệp về kinh tế Phát triển bền vững nông nghiệp về kinh tế là sự phát triển đảm bảo tăng trưởng, phát triển ổn định lâu dài về mặt kinh tế của nông nghiệp, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế của quốc gia, cộng đồng. Mục tiêu của phát triển bền
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
17
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao đời sống của người dân, tránh được sự suy thóai và gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai. Điều đó được thể hiện ở các tiêu chí sau: – Sản xuất nông nghiệp phải đáp ứng nhu cầu xã hội về sản phẩm nông nghiệp gồm: gia tăng sản lượng, làm tăng giá trị sản phẩm hàng hóa; hàng hóa sản xuất ra đáp ứng một phần nhu cầu sử dụng của người dân; chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường, trước hết là đảm bảo tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. – Hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp ngày càng cao. Người nông dân phải có sự đầu tư tăng năng suất lao động, năng suất ruộng đất và năng suất cây trồng, đảm bảo sản xuất ra một khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. – Sử dụng hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn, lựa chọn hình thức sản xuất phù hợp để sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, tăng năng suất. 1.2.2.2. Phát triển bền vững nông nghiệp về xã hội Phát triển bền vững nông nghiệp về xã hội đó chính là sự đóng góp cụ thể của nông nghiệp cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công bằng trong phát triển. Phát triển nông nghiệp bền vững về xã hội sẽ đảm bảo cuộc sống của người nông dân đạt kết quả ngày càng cao; nâng cao thu nhập, đảm bảo cuộc sống gia đình, cải thiện chất lượng cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội. Giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân. Điều đó được thể hiện ở các yếu tố sau: – Sử dụng hợp lý lao động: phát triển kinh tế nông nghiệp phải đi đôi với giải quyết việc làm cho người lao động.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
18
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp – Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo. – Tăng trưởng kinh tế làm giảm khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 1.2.2.3. Phát triển bền vững nông nghiệp về môi trường Phát triển bền vững nông nghiệp về môi trường là phải khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên đất, nước, rừng, biển, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên kết hợp với việc phát triển nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
19
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA 2.1. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam 2.1.1. Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học – cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo qui luật sinh học nhất định con người không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng, mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các qui luật để có những giải pháp tác động thích hợp với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm thoả đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng quá trình sinh học đó nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng hơn. Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người những sản phẩm tối cần thiết đó là lương thực, thực phẩm. Những sản phẩm này cho dù trình độ khoa học – công nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
20
Giải Pháp Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững
(HNM) – Cùng với việc phát triển các chuỗi sản xuất, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao…, ngành Nông nghiệp Hà Nội đã chú trọng quảng bá, kết nối, xúc tiến tiêu thụ nông sản. Đây là một trong những giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững.
Ít có đơn vị nào như Hợp tác xã Rau an toàn Thụy Hương (xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ), có 100% sản phẩm rau xanh sản xuất ra đều được các trường học, doanh nghiệp, siêu thị ký hợp đồng thu mua. Chủ tịch Hội Nông dân xã Thụy Hương Nguyễn Thị Hường chia sẻ: Hợp tác xã có 20ha trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP, trong đó có 5.000m2 trồng trong nhà lưới, nhà kính và ứng dụng công nghệ cao… Trước đây, chỉ 20% lượng rau của hợp tác xã sản xuất ra được tiêu thụ qua đơn đặt hàng của một số trường học. Nhưng, kể từ khi được ngành Nông nghiệp Hà Nội hỗ trợ, quảng bá, giới thiệu…, lượng rau tiêu thụ qua hợp đồng của hợp tác xã tăng vọt, đến nay không còn phải lo đầu ra.
Tương tự, xã viên Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Tam Hưng (xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai) không còn phải lo đầu ra cho sản phẩm gạo thơm Bối Khê. Giám đốc Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Tam Hưng Đỗ Văn Kiên cho hay: Chuỗi lúa gạo Tam Hưng đang cung ứng cho thị trường hơn 200 tấn gạo chất lượng cao mỗi năm. Toàn bộ sản phẩm đều được doanh nghiệp đặt hàng thu mua. Để có được kết quả này, ngành Nông nghiệp Hà Nội đã giúp hợp tác xã quy trình sản xuất, quảng bá, kết nối với doanh nghiệp, qua đó sản phẩm đến được với người tiêu dùng qua kênh bán hàng uy tín.
Thực tế, thông qua quảng bá, xúc tiến, nông sản đã đến gần hơn với người tiêu dùng là một kết quả tất yếu, tuy nhiên, việc vận dụng quảng bá, kết nối ra sao lại là lộ trình cần được tính toán, sắp xếp hài hòa. Về vấn đề này, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường cho rằng: Sản phẩm được chọn để quảng bá, xúc tiến… phải là những sản phẩm chất lượng, có thương hiệu. Mặt khác, nông dân sản xuất phải theo nhu cầu thị trường, có kế hoạch sản xuất, quảng bá và xúc tiến thương mại cụ thể… Thời gian qua, ngành Nông nghiệp Hà Nội đã tích cực phối hợp với các địa phương, sở, ngành quảng bá, kết nối nông sản…, song đến nay mới có khoảng 15% lượng nông sản an toàn được tiêu thụ thông qua liên kết.
Ở góc độ doanh nghiệp tiêu thụ nông sản, Giám đốc Công ty Big Green Nguyễn Tiến Hưng khẳng định: Sản xuất nông sản an toàn, chất lượng, có chứng nhận, thương hiệu sẽ không lo đầu ra. Tiếc rằng, việc này thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua đã gặp một số khó khăn, vướng mắc. Đây cũng là lý do vì sao dù sản lượng sản xuất rau xanh của Hà Nội đạt gần 600.000 tấn/năm, đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu của người tiêu dùng Thủ đô, 40% còn lại cung cấp từ các địa phương khác, nhưng sản phẩm rau của thành phố vẫn khó tiêu thụ.
Để thúc đẩy kết nối tiêu thụ nông sản, ngoài việc duy trì 80 chuỗi liên kết nông sản an toàn từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, ngành Nông nghiệp Hà Nội sẽ tiếp tục phát triển các chuỗi sản xuất tiêu thụ nông sản, đồng thời xúc tiến tiêu thụ nông sản thông qua chợ nông sản điện tử, sàn giao dịch nông sản an toàn… Ngoài duy trì liên kết, hợp tác với 34 tỉnh, thành phố có nguồn cung nông sản lớn, bảo đảm an toàn, Sở NN&PTNT Hà Nội tiếp tục phối hợp chặt chẽ với 21 tỉnh, thành phố trong Ban Điều phối chương trình phát triển chuỗi cung ứng rau, thịt an toàn cho thành phố Hà Nội trong tiêu thụ nông sản, thực phẩm; tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia hội chợ nông sản thực phẩm an toàn tại các địa phương trong toàn quốc. Sở cũng sẽ xem xét tham mưu thành phố tăng nguồn kinh phí, có nhiều chính sách hỗ trợ người sản xuất, doanh nghiệp trong quảng bá, kết nối sản phẩm nông sản…
Phát Triển Du Lịch Gắn Với Nông Nghiệp Bền Vững Của Tỉnh Vĩnh Long: Thực Trạng Và Giải Pháp
CỦA TỈNH VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY VĨNH LONG
Loại hình du lịch gắn với nông nghiệp từ lâu đã được các nước trên thế giới áp dụng, các nước Châu âu đã quan tâm đẩy mạnh phát triển loại hình du lịch nông nghiệp từ thập niên 80 thế kỷ trước. Thực tiễn đã chứng minh việc phát triển loại hình du lịch nông nghiệp vừa đem lại hiệu quả tích cực về kinh tế, vừa bảo vệ nguồn tài nguyên, môi trường tự nhiên, ít xáo trộn đến đời sống xã hội, nhất là ở khu vực nông thôn, đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của dân tộc.
Việt Nam đang phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp. Sản phẩm và dịch vụ từ hoạt động nông nghiệp đã in sâu vào cuộc sống của người dân. Từ xa xưa, hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa giữa du khách và người nông dân địa phương được xem là hoạt động thương mại đơn giản của cuộc sống thường nhật nhưng cũng có thể xem đó như là khởi điểm của du lịch nông nghiệp. Trong những năm gần đây, du lịch nông nghiệp, du lịch sinh thái đang dần trở thành xu hướng phát triển chung đối với ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong đó có tỉnh Vĩnh Long,với đặc điểm là một tỉnh thuần nông hội tụ những đặc điểm tiềm năng và lợi thế “sông, nước” để phát triển loại hình du lịch nông nghiệp.
Phát triển du lịch canh nông vẫn còn nhiều khó khăn
Tỉnh Vĩnh Long nằm ở hạ lưu sông MêKông, giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu, cách thành phố Hồ Chí Minh 136 km về hướng Nam, cách thành phố Cần Thơ 33 km về hướng Bắc, tiếp giáp 06 tỉnh và thành phố Cần Thơ. Có 05 quốc lộ đi qua và nối liền hai bờ sông Tiền là cầu Mỹ Thuận và sông Hậu là cầu Cần Thơ, cùng với mạng lưới sông ngòi chằng chịt, phân bố tương đối đồng đều đã tạo điều kiện cho Vĩnh Long trở thành đầu mối giao thông nối liền giữa các vùng trong khu vực và lưu thông quốc tế thông qua các cửa biển: Tiểu, Đại, Hàm Luông, Cổ Chiên, Định An,… Hầu hết diện tích của tỉnh đều có nước ngọt quanh năm và hàng năm được bồi đắp một lượng phù sa của sông Tiền và sông Hậu, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, đã tạo nên những cánh đồng lúa vùng cây ăn trái đặc sản, như bưởi 5 roi, cam sành, quýt đường, nhãn, xoài cát Hòa Lộc, chôm chôm,… cùng những loài thủy sản nước ngọt như tôm càng xanh, cá tra, cá ngát, cá cóc, cá điêu hồng,…
Vĩnh Long có nhiều di tích văn hóa, lịch sử như: Nhà thờ Quốc Tổ Hùng Vương và các bậc tiền hiền thời vua Hùng, Văn Thánh Miếu, Văn Xương Các, chùa Tiên Châu, miếu Công Thần, đình Tân Giai, đình Tân Hoa, khu tưởng niệm cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, khu tưởng niệm cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, khu lưu niệm cố giáo sư, viện sĩ, Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa,… và với vẻ đẹp đặc trưng của vùng đồng bằng sông nước, môi trường sinh thái còn khá tốt, Vĩnh Long rất hấp dẫn du khách bởi nét đặc trưng vốn có của tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn.
Từ những năm 1990, tỉnh đã quan tâm tập trung phát triển loại hình du lịch sinh thái gắn với nông nghiệp, với hai tuyến du lịch chính theo dòng sông Tiền và sông Hậu. Các doanh nghiệp hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh đã hình thành và phát triển các điểm du lịch ở cù lao An Bình (huyện Long Hồ) phục vụ khách du lịch với mô hình “Tây ngủ nhà ta” với nhiều khẩu hiệu quảng bá như: Du lịch trong màu xanh đồng bằng sông Cửu Long, Du lịch sinh thái miệt vườn, Du lịch làng quê, Du lịch cộng đồng,…
Trong quá trình phát triển, hoạt động du lịch ở Vĩnh Long luôn gắn với nông nghiệp – lấy sản phẩm nông nghiệp làm nền tảng phát triển sản phẩm du lịch tại địa phương. Người nông dân sản xuất với quy mô hộ gia đình, sản phẩm nông nghiệp gồm các vật nuôi, cây trồng, thực phẩm dinh dưỡng, cây dược liệu, sinh vật cảnh, nuôi trồng thủy sản và các sản phẩm chế biến phục vụ nhu cầu ẩm thực, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gốm,… đều mang tính đơn lẻ, chưa liên kết chặt chẽ với nhau và chưa có khả năng tạo ra chuỗi giá trị bền vững cho các sản phẩm du lịch, các nông hộ chỉ thực hiện theo yêu cầu của các doanh nghiệp lữ hành, chưa có khả năng tạo sản phẩm mới chất lượng phục vụ du khách. Theo thời gian, việc trao đổi, mua bán hàng hóa dần trở nên chuyên nghiệp, chất lượng sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ ngày càng được quan tâm theo hướng phục vụ du khách, hình thành nên những nông trang, vùng sản xuất chuyên canh gắn với du lịch như: vùng sản xuất cải xà lách xoong ở thị xã Bình Minh, khoai lang Bình Tân, các vườn chuyên canh cây ăn trái phục vụ du khách như vườn bưởi Mỹ Hòa (thị xã Bình Minh), vườn cây trái bốn mùa ở cù lao An Bình (huyện Long Hồ), các điểm du lịch homestay (Út Trinh, Phương Thảo,….), khu du lịch Vinh Sang,… Nhìn chung, du lịch gắn với nông nghiệp đã từng bước đáp ứng nhu cầu của du khách khi đến Vĩnh Long.
Thu hoạch chôm chôm ở cù lao An Bình, huyện Long Hồ
Ngày nay, với cường độ công nghiệp hóa, đô thị hóa, con người luôn bị áp lực với công việc, môi trường làm việc căng thẳng cùng với ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng ở các khu vực đô thị, du lịch để hưởng thụ không gian xanh, sạch, đẹp, an toàn và yên bình là nhu cầu lớn của cư dân đô thị. Nắm bắt được nhu cầu này, đối với những người làm du lịch, nhất là đối với các đơn vị kinh doanh lữ hành xem du lịch nông nghiệp không chỉ đơn thuần là việc sử dụng những sản phẩm được tạo ra từ hoạt động nông nghiệp, mà còn tạo cho khách có những trải nghiệm với những hoạt động thường nhật của người dân địa phương như tham gia một ngày làm nông dân trên đồng ruộng, tát mương bắt cá, trồng, chăm sóc cây trồng, một ngày làm địa chủ,… Thông qua các doanh nghiệp lữ hành, du lịch nông nghiệp được phát triển rộng hơn đó là du lịch nông nghiệp – nông thôn. Song song với việc sử dụng những sản phẩm nông nghiệp là việc tham quan cảnh quan vùng nông thôn với những vườn cây ăn trái, những cánh đồng lúa, những trang trại,…. cùng với đó du khách sẽ có cơ hội trải nghiệm phong tục, tập quán canh tác và nét đẹp văn hóa của địa phương. Từ các hoạt động trên đã thu hút khách du lịch đến với du lịch nông nghiệp ngày càng đông. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 20 điểm vườn cây ăn trái tham gia phục vụ khách du lịch, thuộc cù lao An Bình (huyện Long Hồ), cù lao Lục Sỹ Thành (huyện Trà Ôn), cù lao Quới Thiện (huyện Vũng Liêm). Hiệu quả mang lại từ việc tham gia phục vụ khách du lịch khá lớn, làm gia tăng lợi nhuận cho các nhà vườn và tạo nhiều việc làm cho người lao động địa phương. Vào lúc cao điểm mùa trái cây, hàng ngày một số điểm vườn đón trên 100 du khách đến tham quan và thưởng thức trái cây tại vườn.
Đặc biệt, khách du lịch quốc tế rất quan tâm và thích trải nghiệm loại hình du lịch homestay “Tây ngủ nhà ta”, tập trung nhiều ở 04 xã cù lao An Bình, huyện Long Hồ, với 25 homestay với đủ loại hình từ dân dã đến hiện đại, mỗi năm thu hút 200.000 lượt khách nước ngoài, với nhiều hoạt động trải nghiệm tham gia sản xuất nông nghiệp cùng người dân, như nuôi thủy sản, thu hoạch trái cây, câu cá, chế biến món ăn, thức uống, thưởng thức hát bội, đàn ca tài tử và các loại hình giải trí dân gian khác…
Song, hoạt động du lịch gắn với nông nghiệp ở Vĩnh Long còn có một số khó khăn. Toàn tỉnh có trên 25 làng nghề và nghề truyền thống đã được công nhận như làng nghề gốm (huyện Mang Thít), làng nghề trồng lát (huyện Vũng Liêm), làng nghề đan thảm lục bình (huyện Tam Bình),…. với nhiều sản phẩm gia dụng, sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Song, chủ yếu là gia công sản xuất sản phẩm thô, chưa được chế tác hoàn chỉnh để có tính thẩm mỹ cao, chưa thể tạo ra sản phẩm lưu niệm phục vụ đại trà cho khách du lịch nên chưa gắn kết được nhiều với hoạt động du lịch, chủ yếu phục vụ tham quan trải nghiệm.
Du khách quốc tế tham quan trải nghiệm loại hình du lịch sinh thái Vĩnh Long
Hiện nay, tỉnh Vĩnh Long đang xây dựng đề án Bảo tàng Nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Dự kiến Bảo tàng được thành lập với mục đích tôn vinh nền văn minh nông nghiệp và người nông dân, vừa lưu giữ, trưng bày giới thiệu các nông cụ, phương tiện sản xuất nông nghiệp, phong tục, tập quán, sinh hoạt, vừa tạo không gian văn hóa để tái hiện và trình diễn các loại hình văn hóa phi vật thể gắn với đời sống cư dân nông nghiệp. Tỉnh đã tổ chức sưu tầm 1.000 hiện vật nông, ngư cụ, phản ánh gần như toàn diện đặc trưng tập quán sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn của các địa phương, các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bộ sưu tập nông, ngư cụ nêu trên được đánh giá là bộ sưu tập độc đáo và có giá trị về phong tục, tập quán, sản xuất nông nghiệp. Bảo tàng được xây dựng là sự tổng hợp quá trình hình thành, phát triển các sản phẩm nông nghiệp của vùng, là cơ sở trải nghiệm và là điểm đến hấp dẫn để phát triển sản phẩm nông nghiệp phục vụ khách du lịch cho tỉnh Vĩnh Long nói riêng và khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Để phát triển du lịch gắn với nông nghiệp bền vững, tỉnh Vĩnh Long cần triển khai, đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp sau:
– Các sản phẩm từ sản xuất nông nghiệp tạo ra là rất phong phú và đa dạng, luôn gắn liền với văn hóa ẩm thực du lịch và các hoạt động du lịch nông nghiệp trải nghiệm từ lạc hậu đến hiện đại, vấn đề là phải nâng cao nhận thức và đào tạo để nông dân biết thiết kế sản phẩm, quy trình trải nghiệm đảm bảo sự hài lòng và lòng tin về tính tiện ích, an toàn của sản phẩm, đáp ứng được sự mong đợi của du khách.
– Sản phẩm nông nghiệp tham gia phục vụ du khách quốc tế, là một hình thức xuất khẩu tại chỗ có hiệu quả cao. Vì vậy, người nông dân cần hỗ trợ nâng cao kiến thức chuyên môn, quy trình công nghệ sản xuất, sản xuất ra sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, chuyên môn và kỹ năng phục vụ du khách,… để người dân có khả năng sáng tạo các sản phẩm từ nông nghiệp, tạo được niềm tin về an toàn vệ sinh thực phẩm để giới hiệu, quảng bá sản phẩm trực tiếp đến với khách hàng.
– Du lịch nông nghiệp tham gia trải nghiệm hoạt động sản xuất của người nông dân địa phương; du lịch nông thôn tham quan cảnh quan vùng quê và những hoạt động của người dân như chèo thuyền thưởng ngoạn phong cảnh ven sông, ngắm đom đóm về đêm, chạy xe đạp trên đường làng, tham gia sản xuất và các hoạt động văn hóa địa phương …. Có thể hiểu, du lịch nông thôn là sự tổng hợp, liên kết nhiều loại hình du lịch ở địa phương. Khi xây dựng nông thôn mới cần quan tâm đến việc kết hợp với phát triển du lịch như nông thôn xanh, sạch, đẹp, mỗi làng, ấp có sản phẩm đặc trưng như làng nghề, trồng một loại hoa, sinh vật cảnh, trang trí hàng rào, cổng nhà tạo ấn tượng và mỗi người dân là một hướng dẫn viên du lịch để thu hút du khách đến tham quan. Để du lịch nông nghiệp phát triển bền vững cần phải có sự gắn kết với du lịch nông thôn, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp làm du lịch và cộng đồng dân cư tham gia vào chuỗi giá trị của chương trình.
Đặc sản bưởi Năm Roi Vĩnh Long
– Có quy hoạch phát triển du lịch nông nghiệp theo một quy chuẩn cụ thể, kiểm soát được đầu vào và đầu ra của sản phẩm; nhà nước hỗ trợ xây dựng chương trình quảng bá cho loại hình du lịch này, đảm bảo du lịch nông nghiệp được thực hiện quanh năm theo mùa vụ. Có giải pháp hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ hướng dẫn viên và tập huấn cho những người tham gia vào hoạt động du lịch nông nghiệp nông thôn có trình độ lý luận và thực tiễn, năng động, ấn tượng nhằm giúp cho du khách hiểu biết thêm về nguồn gốc hình thành sản vật, hiểu biết về lịch sử văn hóa canh tác, nuôi trồng, sơ chế và quá trình thương mại hóa sản phẩm nhằm kích thích sự tò mò của du khách, đồng thời cũng thông qua thuyết minh sẽ giới thiệu được nét đẹp phong phú về văn hóa của địa phương.
– Kiến nghị Nhà nước có chính sách cụ thể để tạo kênh phân phối sản phẩm nông thôn bằng cách hỗ trợ thành lập các hợp tác xã để tập hợp xã viên tạo nhiều sản phẩm; tạo điều kiện đào tạo kỹ năng nghề, thiết kế sản phẩm, nghiên cứu thị trường và có khả năng tạo chuỗi sản phẩm có chất lượng cao phục vụ khách du lịch.
– Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động du lịch mở nhiều phòng trưng bày bán sản phẩm làng nghề, sản vật địa phương đã được chọn lọc, sáng tạo thành sản phẩm du lịch phục vụ du khách nội địa và quốc tế.
Tóm lại, du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và có tính xã hội hóa cao, vì vậy để cho các loại hình du lịch, trong đó có du lịch nông nghiệp được phát triển bền vững thì rất cần sự chung tay góp sức của các doanh nghiệp, sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và những quyết sách mạnh mẽ từ các cấp lãnh đạo trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng nông thôn mới, tạo cho du lịch nông nghiệp có không gian hoạt động và phát triển bền vững.
Chính Sách Tài Chính Đối Với Sự Phát Triển Của Nông Nghiệp, Nông Dân Và Nông Thôn Việt Nam, Thực Trạng Và Giải Pháp
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch
ThS. Trường Đại học Lâm nghiệp
an ninh quốc phòng; Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Các chính sách phát triển “tam nông” trong đó có chính sách tài chính luôn được đặt lên hàng đầu và có sự điều chỉnh cho phù hợp trong mỗi thời kỳ. Thời gian qua, có nhiều chính sách tài chính được triển khai một cách đồng bộ đã góp phần giải quyết vấn đề nguồn lực đầu tư tài chính cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển nông nghiệp hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng KT – XH nông thôn; đảm bảo tài chính cho việc phát triển khoa học – công nghệ trong nông nghiệp; đào tạo nghề nghiệp và nâng cao trình độ cho nông dân; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn và nông dân, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Bên cạnh những thành tựu trên thì trong quá trình thực thi chính sách cũng đã tồn tại những bất cập không nhỏ. Vì vậy, để những chính sách tài chính đó thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, đạt được yêu cầu, mục tiêu phát triển của ngành NN&PTNT thì chính sách cần phải được đánh giá hiệu quả và đưa ra những định
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 – 2012
125
126
hay gián tiếp, thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của “tam nông” là tùy thuộc vào quan điểm sử dụng chính sách của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử và tùy thuộc vào tính khoa học, sự phù hợp của chính sách cũng như quá trình tổ chức thực thi. Mặc dù chính sách thuế của chúng ta đã sử đổi nhiều lần, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn nhưng đến năm 2008 với sự ra đời của Nghị quyết 26-NQ/TW thì chính sách thuế đối với “tam nông” mới thành một thể thống nhất. Song trong suốt gần 70 năm qua, chính sách thuế đối với “tam nông” vẫn theo một quan điểm xuyên suốt là tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp; điều tiết thu nhập một cách công bằng, giảm bớt gánh nặng thuế cho nông dân nghèo, nhất là ở những vùng đặc biệt khó khăn. – Về thuế sử dụng đất nông nghiệp: Chính phủ đã ban hành Nghị định 129/2003/NĐ-CP ngày 03/11/2003 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; Nghị định 61/2010/NĐ-CP ngày 4/6/2010 về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn trong đó có miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Đặc biệt, ngày 23/3/2011, Chính phủ ban hành Nghị định 20/2011/NĐ-CP về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn 2011- 2023. Trong đó, quy định các đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, được giảm 50% số thuế…Bằng việc miễn thuế này, mỗi năm nông dân và khu vực nông nghiệp được gia tăng thu nhập khoảng gần 2.000 tỷ đồng theo giá năm 1999. – Về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thuế đất): Miễn thuế cho các đối tượng sau: Đất ở trong hạn mức địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; Đất ở trong hạn mức của hộ nghèo theo quy định của Chính phủ. Giảm 50% số thuế phải nộp đối với đất ở trong hạn mức tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. – Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Áp dụng
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 – 2012
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch thuế suất ưu đãi về thuế suất và miễn thuế, giảm thuế có thời hạn cho dự án đầu tư vào địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Miễn thuế, giảm thuế có thời hạn cho dự án đầu tư vào kết cấu hạ tầng đặc biệt quan trọng. Miễn thuế đối với thu nhập từ hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã; miễn thuế đối với thu nhập từ dịch vụ kỹ thuật phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. – Về thuế thu nhập cá nhân: Miễn thuế cho phần thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chưa qua chế biến thành sản phẩm khác hoặc chỉ sơ chế thông thường. Miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất để sản xuất. – Về thuế giá trị gia tăng: Mặc dù có điều chỉnh giảm đối tượng không chịu thuế và thay đổi thuế suất, song các mặt hàng rất thiết yếu là sản phẩm nông nghiệp vẫn quy định không chịu thuế, các mặt hàng thiết yếu vẫn áp dụng thuế suất thấp 5% – Về các loại phí: Miễn giảm thủy lợi phí là một “cú hích” quan trọng đối với “tam nông”. Thủy lợi phí được miễn cho các hộ gia đình, cá nhân có đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối trong hạn mức và diện tích đất 5% công ích do địa phương quản lý mà hộ gia đình, cá nhân được giao hoặc đấu thầu chuyển quyền sử dụng từ 01/01/2008. Nhìn chung, trong những năm gần đây, chính sách thuế, phí đối với “tam nông” đã tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn kinh tế xã hội khó khăn để tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và tạo công ăn việc làm cho nông dân; ưu đãi đầu tư vào kết cấu hạ tầng nông thôn; ưu đãi để thúc đẩy “dồn điền, đổi thửa” từng bước phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn.
1.2. Nhiều chính sách tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn được triển khai thực hiện đồng bộ trong cả nước a. Nhóm các chính sách tín dụng thương mại đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Chính sách tín dụng là một trong những công cụ quan trọng được Ðảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm để phát triển nông nghiệp, nông thôn đối với một nước nông nghiệp truyền thống như nước ta. Với sự ra đời của Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, tín dụng nông nghiệp nông thôn đã đạt được một số kết quả. Dòng vốn tín dụng ngân hàng chảy vào khu vực nông nghiệp, nông thôn đã được khơi thông, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và nâng cao đời sống nhân dân… Tuy nhiên, quá trình triển khai Quyết định bộc lộ một số bất cập, cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung và nâng lên thành Nghị định cho phù hợp với tình hình đất nước sau 10 năm phát triển. Ngày 12/4/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, thay thế Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 14/2010/TT-NHNN ngày 14/6/2010 hướng dẫn đầy đủ, chi tiết các điểm mới của Nghị định 41/2010/NĐ-CP so với Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg. Nghị định 41/2010/NĐ-CP quy định cụ thể các đối tượng được vay vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, Nghị định trên cũng cho phép các tổ chức tín dụng được cho vay không có tài sản đảm bảo tối đa đến 50 triệu đồng đối với cá nhân, hộ sản xuất; tối đa đến 200 triệu đồng đối với hộ kinh doanh, sản xuất phục vụ nông nghiệp, nông thôn; tối đa
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 – 2012
127
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch đến 500 triệu đồng đối với hợp tác xã, chủ trang trại. Trong trường hợp có thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng, tổ chức tín dụng được thực hiện khoanh nợ không tính lãi cho người vay tối đa là 2 năm đối với dư nợ hiện còn tại thời điểm khoanh nợ và số lãi tổ chức tín dụng đã khoanh được giảm trừ vào lợi nhuận trước thuế của tổ chức tín dụng. Có thể thấy rằng bên cạnh việc tạo ra một hành lang pháp lý hoàn thiện hơn, Nghị định 41/2010/NĐ-CP đã tạo nhiều ưu đãi giúp khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, được bảo đảm bởi các chính sách hỗ trợ khi gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, đồng thời, tạo điều kiện cho sự phát triển, tăng trưởng mạnh mẽ tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. b. Nhóm các chính sách tín dụng hỗ trợ nông dân sản xuất kinh doanh Bên cạnh việc triển khai Nghị định 41/2010/NĐ-CP thì các chính sách tín dụng hỗ trợ người nông dân trong hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục được triển khai. Điển hình là một số chính sách sau: – Hỗ trợ lãi suất, vốn mua máy móc thiết bị: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 (và các Quyết định sửa đổi) về hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02/2010/TT-NHNN ngày 22/01/2010 quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng trong năm 2010. – Chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch: Do thiếu vốn để đầu tư máy móc, thiết bị, kho bãi để thực hiện tốt việc bảo quản nông sản sau thu hoạch nên tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp còn cao 12 – 13%. Để giảm thiểu những tổn thất trên, Thủ tướng
128
Chính phủ đã ban hành Quyết định 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 về chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản và Quyết định 65/2011/QĐTTg ngày 02/12/2011 sửa đổi, bổ sung Quyết định 63; Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 65/2011/TT-BTC ngày 16/5/2011 hướng dẫn hỗ trợ lãi suất vay vốn và cấp bù chênh lệch lãi suất do thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản; Ngân hàng Nhà nước cũng có Thông tư 03/2011/TT-NHNN ngày 08/3/2011, Thông tư 22/2012/TT-NHNN ngày 22/6/2012 hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm thiệt hại sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản… với mục tiêu đề ra đến năm 2023 giảm được tối thiểu 50% tổn thất đối với nông sản, thủy sản so với hiện nay. Đây là một chính sách đúng đắn và hợp lòng dân, rất cần thiết đối với nền nông nghiệp nước ta. c. Nhóm các chính sách tín dụng hỗ trợ cho mục tiêu an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới Kết quả từ cuộc điều tra mức sống hộ gia đình mới nhất năm 2010 cho thấy tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn là 17,4%. Vì vậy, chính sách tín dụng xóa đói, giảm nghèo là cần thiết để nâng cao mức sống người nông dân. Trong những năm qua, nhiều chính sách tín dụng đã được hình thành để thực hiện công tác an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trên toàn quốc như chính sách tín dụng cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội theo tinh thần Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ; Chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ cận nghèo được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ. Theo đó, giảm 15% lãi suất cho vay khu vực II miền núi, giảm 30% lãi suất cho vay khu vực III miền núi, hải đảo, vùng đồng bào khơ me
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 – 2012
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch tập trung và các xã đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135, giảm lãi suất cho vay 20% đối với thương nhân vay vốn để dự trữ, bán lẻ các mặt hàng thiết yếu, thu mua hàng nông, lâm sản ở khu vực II, III miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc. 1.3. Chính sách bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai thực hiện thí điểm ở một số địa phương trên một số cây trồng, vật nuôi điển hình Hiện nay, giá trị sản xuất nông nghiệp ở nước ta chiếm khoảng trên 20% GDP nhưng do vị trí địa lý đặc thù cùng với cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế nên sản xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh. Thời gian qua, một số doanh nghiệp như Bảo Việt, Bảo Minh cũng đã triển khai một số nghiệp vụ bảo hiểm trên một số loại cây trồng, vật nuôi nhưng do nhiều nguyên nhân như số người tham gia bảo hiểm ít, phí bảo hiểm cao, tổn thất phải bồi thường lớn. Mặt khác, lại không nhận được sự hỗ trợ của nhà nước nên hoạt động bảo hiểm trong nông nghiệp chưa đạt được kết quả như mong muốn. Để giúp người nông dân hạn chế được những tổn thất khi rủi ro xảy ra đối với hoạt động nông nghiệp Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 121/2011/TT-BTC có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2011 hướng dẫn Quyết định 315/QĐ-TTg ngày 01/03/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân nghèo sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ 80% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân cận nghèo sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ 60% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân không thuộc diện nghèo, cận nghèo sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ 20% phí bảo hiểm cho tổ chức sản xuất nông nghiệp.
2. Những tác động tích cực của chính sách tài chính đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam Với các chính sách tài chính đối với phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn được triển khai mạnh mẽ và đồng bộ trong thời gian qua đã đem lại những thành quả đáng kể góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển “tam nông” được thể hiện trên các mặt sau: Tổng vốn đầu tư dành cho “tam nông” tăng lên đáng kể: Cụ thể vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đã tăng liên tục từ 22.323 tỷ đồng năm 2006 lên đến khoảng 52.495 tỷ đồng năm 2011.
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2009,2010,2011-NXB Thống kê
Vốn đầu tư toàn xã hội dành cho lĩnh vực nông nghiệp tăng lên thể hiện chính sách tài chính thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp phần nào đã phát huy tác dụng. Có được điều này, bên cạnh những chính sách tài chính kịp thời thì không thể phủ nhận vai trò định hướng cũng như sự dẫn đầu của khu vực kinh tế Nhà nước trong việc đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp. Số vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước vào nông nghiệp liên tục tăng trong giai đoạn 2006 – 2011 từ 11.939 tỷ đồng năm 2006 đến 19.127 tỷ đồng năm 2011.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 – 2012
129
Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Nền Nông Nghiệp Bền Vững Của Việt Nam trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!