Bạn đang xem bài viết Đề Tài Tác Động Của Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu Tới Các Doanh Nghiệp Việt Nam Và Giải Pháp Khắc Phục được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG 1: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM. 3 1.1 Khái quát về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 -2008 3 1.2 Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam. 7 1.2.1 Doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất 7 1.2.2 Giá các yếu tố đầu vào tăng cao 9 1.2.3 Thị trường đầu ra bị thu hẹp. 11 1.2.4 Việc làm không đầy đủ. 14 1.2.5 Lợi nhuận giảm mạnh. 15 1.2.6 Nhiều doanh nghiệp phá sản. 16 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP SAU KHỦNG HOẢNG. 18 2.1 Giải pháp từ phía nhà nước. 18 2.1.1 Cần tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ vốn sản xuất cho các doanh nghiệp 18 2.1.2 Kích thích đầu tư đi đôi với giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. 21 2.1.3 Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ thuế đối với doanh nghiệp. 23 2.2 Giải pháp thuộc về doanh nghiệp. 24 2.2.1 Thay đổi chiến lược kinh doanh. 24 2.2.2 Chú trọng hơn đến thị trường trong nước. 26 2.2.3 Kiểm soát tài chính chặt chẽ và hợp lý hóa chi phí sản xuất. 28 KẾT LUẬN 31 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 32 LỜI MỞ ĐẦU Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng mà ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế là vô cùng lớn. Khủng hoảng ảnh hưởng rất sâu rộng đối với nền kinh tế không chỉ trong một quốc gia mà đối với cả khu vực. Nó tác động làm cho tốc độ tăng trưởng giảm, đầu tư giảm, lạm phát tăng cao, thất nnghiệp gia tăng … Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 vừa qua xảy ra tại Mỹ đã tác động rất lớn tới các nền kinh tế ở các quốc gia. Đặc biệt là đối với những nước phát triển như: Nga, Nhật, Đức, EU… Nói như vậy không có nghĩa là các nước đang phát triển không bị ảnh hưởng. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp, các tập đoàn. Một thực tế là rất nhiều doanh nghiệp tồn tại hàng hơn trăm năm với đầy đủ kinh nghiệm, địa vị, thương hiệu nhưng cũng phải tuyên bố phá sản như Lehman Brothers. Vậy thì ta có thể tưởng tượng được rằng các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển sẽ phải gặp những khó khăn như thế nào. Đề tài : ” Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục” nhằm mục đích phân tích những tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam trên phương diện về vốn, lao động, thị trường kinh doanh…v.v. Từ đó cho thấy được những giải pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua thời kì khó khăn . Thêm nữa tôi cũng xin cung cấp những thông tin cho thấy chính bản thân các doanh nghiệp cũng sẽ đã và đang nỗ lực để vượt qua khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nội dung đề tài gồm 2 chương: Chương 1: Khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam. Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau khủng hoảng. CHƯƠNG 1 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Khái quát về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 – 2008. Bản chất của khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng sản xuất “thừa”. Biểu hiện của khủng hoảng trước hết là ở chỗ, hàng hóa không tiêu thụ được, tư bản không thu hồi được chi phí sản xuất, nhiều xí nghiệp bị phá sản, đóng cửa, số người thất nghiệp tăng lên. Trong thời kì khủng hoảng, sản xuất thừa hàng hóa không phải là tuyệt đối mà là tương đối. Nghĩa là, thừa hàng hóa chỉ là thừa so với nhu cầu có khả năng thanh toán, chứ không phải thừa so với nhu cầu thực tế của xã hội.[2, Tr. 139] Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007 – 2008 là khủng hoảng tài chính, mà thực chất là sự mất khả năng thanh toàn của các tổ chức tài chính, ngân hàng do sự đổ vỡ bong bong bất động sản nhà ở. Tiếp theo là sự khan hiểm tín dụng do sự mất khả năng thanh toán đó gây ra. Đây là đợt khủng hoảng có tính thế kỷ, bởi nó không chỉ có quy mô lớn và tác động sâu rộng khắp thế giới, mà đây cũng là lúc để người ta nhìn lại mô hình và các lý thuyết làm cơ số cho sự phát triển của CNTB hàng chục năm qua.[3, Tr.31] Mầm mống của khủng hoảng xuất phát từ chính sách tín dụng dễ dàng đối với thị trường nhà ở, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay vốn mua nhà. Chính sách này đã tạo điều kiện rất lớn cho người dân có quyền sở hữu tài sản nhà đất. Việc vay và cho vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ tăng nhanh một cách kỷ lục. Doanh số cho vay dưới chuẩn từ 200 tỷ USD năm 2002 đã bùng nổ thành 1300 tỷ USD vào năm 2007. Khi nền kinh tế Mỹ đi xuống, những người vay tiền mua nhà không trả được nợ, bị các ngân hàng xiết nợ và phát mại tài sản hàng loạt. Chính vì vậy mà giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong quý III năm 2007, mức tồi tệ nhất kể từ khủng hoảng tài chính 1930. Kể từ tháng 8/2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình bị mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã rất lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi hàng loạt khiến cho các tổ chức đó ngày càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng bắt đầu hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra. Từ Mỹ rồi lan sang các nước khác vì nhiều tổ chức tài chính ở các nước phát triển cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ. Chính vì thế mà khi bong bóng nhà ở của Mỹ bị vỡ thì các tôt chức tài chính này cũng gặp khó khăn tương tự như ở Mỹ.[14, Tr.95] Suy thoái kinh tế đã đẩy các ngân hàng tài chính hàng đầu nước Mỹ lần lượt bị lâm nguy. Mở đầu là Bear Stearn chuyên cho vay mua nhà. Đến tháng 3/2008 FED buộc phải cứu Bear Stearn bằng gói bảo trợ trị giá 30 tỷ USD. Tháng 8/2008 giá cổ phiếu của Fannie Mae và Freddie Mac, hai định chế tài chính do chính phủ Mỹ bảo trợ hoạt động trên thị trường nhà ở sụt giảm mạnh. Ngày 7/9/2008 Mỹ chi 200 tỷ USD tiếp quản Fannie Mae và Freddie Mac. Sau các nỗ lực cứu nguy thị trường tài chính của Mỹ. Tình hình đã không sáng sủa hơn. Ngày 15/9/2008 Ngân hàng Lehman Brothers tồn tại trong lịch sử 160 năm đã phải nộp đơn phá sản với món nợ lớn nhất từ trước đến nay trong lịch sử nước Mỹ những 613 tỷ USD. Sau sự việc này hệ thống tài chính thế giới lâm vào cảnh lúng túng cực độ. Trước tình hình đó, tập đoàn tài chính Merrill Lynch đã ” tự bán mình” cho ngân hàng Mỹ (Bank of America). Đến ngày 16/9/2008, FED phải đồng ý chi 85 tỷ USD để cứu tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới AIG cũng đang ngấp nghé bên bờ vực sụp đổ bởi các khoản bảo hiểm độc hại. Đến cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2008 thế giới chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng lớn, thị trường tín dụng bị tê liệt, khủng hoảng lan rộng và nhanh sang tất cả các khu vực khác trên thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu đến nay đã hình thành rõ nét với sức tàn phá ghê ghớm. Ngày 25/9/2008, Washington Mutual bị cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ phong tỏa, đây là sự sụp đổ một ngân hàng tiết kiệm lớn nhất trong lịch sử của Mỹ với khoản lỗ 19 tỷ USD. Vào ngày 29/9/2008, ngân hàng lớn thứ sáu của Mỹ Machvia đã thua lỗ 17,2 tỷ USD, cổ phiếu giảm 93% và bị ngân hàng CityGroup mua lại với giá 2,2 tỷ USD.[9, Tr.4] Tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ khiến ngân hàng trung ương Mỹ, Anh, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi thông đồng vốn. Nước Mỹ chiếm 25% GDP của toàn cầu và một tỷ lệ lớn trong các giao dịch tài chính quốc tế, nên tác động của cuộc khủng hoảng ở Mỹ không chỉ ở trong nước Mỹ mà còn vượt cả ra ngoài biên giới Mỹ, tác động tới các nền kinh tế khác trên thế giới. Sau Mỹ, đến Singapore, Nhật Bản, rồi đến các nước dùng đồng tiền chung EURO cũng tuyên bố suy thoái, các nước mới nổi và đang phát triển cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Vào tháng 10/2008, FED, ECB và bốn ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc đại suy thoái năm 1929 – 1933. Sự suy thoái kinh tế đồng loạt diễn ra khắp các châu lục đã đấy kinh tế thế giới vào suy thoái. Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2008 chỉ đạt 3,0% giảm 2,2% so với năm trước. Tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển đạt 0,6% so với 3,7% của năm trước. Trong đó tăng trưởng của Nhật Bản giảm 0,7% đã gây khá nhiều bất ngờ. Ngoài ra các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển là 6% so với 8.3% của năm trước. Trung Quốc sau nhiều năm tăng trưởng hai con số đã sụt giảm xuống 9,0%. Tăng trưởng thương mại thế giới cũng sụt giảm mạnh từ 7,3% năm 2007 xuống 3%. Một số nền kinh tế thì sụp đổ do không chống đỡ nổi cơn bão tài chính. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho cả nền kinh tế thế giới bị che phủ bởi những mảng tối mà khó có thể nhận biết được rồi các nước chịu ảnh hưởng sẽ phải mất bao nhiêu năm để phục hồi và thoát ra khỏi khó khăn này. Đã có nhiều dự báo nền kinh tế của các nước Mỹ, Đức, Nhật sẽ tiếp tục suy thoái. .[14, Tr.96] Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã có ảnh hưởng rõ rệt đến nền kinh tế thế giới thông qua tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng GDP. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tăng liên tiếp trong suốt năm 2008 là cho số người mất việc nhiều hơn bất cứ năm nào kể từ chiến tranh thế giới thứ II với con số 2,6 triệu người. Các công ty, tập đoàn đua nhau cắt giảm nhân công trong năm 2008 khiến cho số người mất việc trong thời gian này chiếm 73% con số cả năm, tương ứng 1,9% triệu người. Không chỉ có Mỹ, tình hình Châu Âu cũng bất ổn không kém. Một loạt các hãng, tập đoàn lớn của Anh đã tuyên bố cắt giảm nhân viên khiến tỷ lệ thất nghiệp của nước này đã tăng lên cao nhất trong 11 năm qua. Thêm nữa, tại Pháp chỉ trong tháng 8/2008 số người thất nghiệp tăng thêm 40.000 người. Tỷ lệ thất nghiệp của Eurozone lên tới 7,6% trong năm 2008. [14, Tr.96] Hơn thế nữa, khủng hoảng kinh tế thế giới đã tác động đến nền kinh tế thế giới qua các kênh thương mại và đầu tư. Nó khiến cho nàn song sáp nhập công ty chững lại, giái trị các vụ sáp nhập và mua lại xuyên biên giới giảm đáng kể, khoảng 30%, chỉ đạt hơn 1000 tỷ USD so với 1630 tỷ USD năm 2007. Điều này dẫn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên thế giới năm 2008 suy giảm, chỉ đạt khoảng 1600 tỷ USD, giảm 10% so với mức 1833 tỷ USD năm 2007.[ 6,Tr.17] Trước tình hình này Cục Dự trữ Liên Bang Hoa Kỳ ( Fed) đã hạ lãi suất nhiều lần từ mức 5,25% vào tháng 8/2007 xuống 1% vào tháng 10/2008. Thêm nữa, đầu năm 2009 Fed cũng giảm cả lãi suất chiết khấu xuống còn 1,25% so với 1,75% trong tháng 10/2008 và mức 5% trong thời điểm cuối năm 2007. Hành động này nhằm giảm chi phí các khoản vay từ Fed của các ngân hàng thương mại, góp phần làm tan băng thị trường tín dụng. [ 6, Tr.37] Ngoài ra, chính quyền chúng tôi đã đưa ra chương trình cứu trợ tài chính trị giá 700 tỷ USD mà Quốc hội nước này đã thông qua sau nhiều lần sửa đổi. Đối với người dân, hầu hết sẽ nhận được một khoản tín dụng thuế là 400 USD trong khi các cặp vợ chồng sẽ nhận được khoản tín dụng thuế 800 USD. Nhiều sinh viên sẽ nhận được khoản tín dụng thuế cho học phí là 2.500 USD. Những người mua nhà lần đầu tiên có thể nhận được một khoản tín dụng thuế lên đến 8.000 USD. Đối với chính phủ Đức, ngày 13/1/2009 đã nhất trí với gói kích thích kinh tế trị giá 50 tỷ Euro ( 67 tỷ USD) nhằm giúp nền kinh tế Đức vượt qua thời kỳ suy thoái. Trong kế hoạch này, khoảng 17 tỷ Euro được chi cho cơ sở hạ tầng và khoảng 18 tỷ Euro là để giảm thuế cho các các nhân và doanh nghiệp. [6, Tr.27] Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho những nền kinh tế lớn mạnh nhất nhì trên thế giới cũng phải lúng túng trước những quyết định về chính sách của mình, những chính sách mà chưa từng được đưa ra để cứu nền kinh tế suy thoái từ trước cho tới nay. Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị ảnh hưởng lớn. Thị trường vốn của Việt Nam đang bị tác động bởi sự thay đổi hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài, nơi mà họ giữ một tỷ lệ không nhỏ giá trị cổ phiếu và trái phiếu ( hiện chiếm 20% tổng số vốn của thị trường chứng khoán Việt Nam). Trên thị trường chứng khoán đã có hiện tượng rút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài khi họ bán chứng khoán hàng loạt trên hai sàn giao dịch Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và chuyển vốn ra nước ngoài. Luồng vốn FDI năm 2008 được duyệt lên đến 64 tỷ USD, gấp 3 lần năm 2007, nhưng trên thực tế vốn giải ngân chỉ khoảng 11 tỷ USD ( 17,2%). Trong năm 2009 nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã có sự suy giảm rõ rệt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nhà đầu tư nước ngoài hạn chế hơn trong việc đầu tư mới hay mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong 3 tháng đầu năm 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỷ USD đầu tư nước ngoài. Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi động dự tính sẽ đạt 6 tỷ USD trong ba tháng đầu năm, thấp hơn cùng kỳ năm ngoái tới 40%. Trong khi đó đầu tư công khó có khả năng tăng trở lại do thâm hụt ngân sách của Việt Nam đang ở mức rất cao. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn cả về vốn lẫn đầu ra sản phẩm nên họ cũng không mặn mà với việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này khiến cho tổng mức đầu tư toàn xã hội sẽ suy giảm mạnh trong năm 2009. Còn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tuy vốn đăng ký dự án FDI năm 2008 là 64 tỷ USD, đạt mức kỷ lục kể từ khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (năm 1987) đến nay nhưng trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn, thị trường các nước bị thu hẹp, trong khi các dự án FDI chủ yếu là các dự án sản xuất xuất khẩu. Do vậy, một mặt do khả năng tài chính bị thu hẹp của các công ty mẹ tại chính quốc, mặt khác do thị trường thế giới thu hẹp nên các nhà đầu tư hạn chế triển khai dự án.[6, Tr.37] Xét một cách tổng quan thì do tác động của khủng hoảng toàn cầu khiến cho đầu tư suy giảm, gây ra những khó khăn cho các hoạt động của doanh nghiệp trong nước. Trong nội bộ nền kinh tế, các doanh nghiệp chua chát phải chịu lãi suất cao do các khoản phí cho vay, lãi suất đầu ra của nhiều ngân hàng thương mại đang đội trần tới vài phần trăm ( lên tới 21 – 22%), khiến cho nhiều doanh nghiệp đã thiếu vốn trong sản xuất lại phải đối diện với những lãi suất ngân hàng cao hoặc đứng trước sự lựa chọn giữa việc vay vốn ngân hàng với lãi suất cao để tiếp tục sản xuất. Tính đến năm 2010, doanh nghiệp đã kinh doanh có lãi hơn. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã phải ngậm ngùi bỏ qua những hợp đồng xuất khẩu có giá trị do thiếu vốn. Đối với hàng nông sản, ngoài mặt hàng gạo, sắn lát khó khăn về đầu ra thì các mặt hàng khác đều có triển vọng tốt về xuất khẩu trong năm nay. Năm 2010, do thời tiết không thuận nên mùa vụ thất bát. Theo thông tin từ Chánh văn phòng Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, ông Trần Đức Tụng thì, vụ mùa hồ tiêu năm nay trên thế giới sản lượng giảm từ 20-25%, sản lượng tiêu của Việt Nam cũng giảm xấp xỉ 20%. Sản lượng của ngành điều năm 2010 cũng giảm từ 20-30%. Do sản lượng giảm nên giá cả xuất khẩu của các mặt hàng nông sản như điều, tiêu đứng ở giá cao. Đại diện Hiệp hội Điều cho rằng, giá điều nhân xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm có thể sẽ tăng thêm 14% nữa so với mức giá hiện nay. Hiện tại, rất nhiều doanh nghiệp điều đã kí được hợp đồng với giá rất tốt. Dù tình hình xuất khẩu khả quan về lượng cũng như giá. Tuy nhiên, các hiệp hội cho rằng, do không tiếp cận được với nguồn vốn nên các doanh nghiệp trong ngành không thể dự trữ đủ nguyên liệu cho sản xuất. Mặt khác, do lãi suất lên cao trong thời điểm các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu cho nên các doanh nghiệp ngành điều mới chỉ mua được 300.000 tấn điều thô trong nước và nhập khẩu khoảng 100.000 tấn. Hiện ngành điều cần có 1.100 tỷ đồng để mua hết lượng hạt điều thô còn tồn đọng trong nước khoảng 50.000 tấn và 5.700 tỷ đồng để nhập khẩu 350.000 tấn điều thô đáp ứng cho nhu cầu sản xuất 6 tháng cuối năm. Giá điều thô nhập khẩu đang ở mức 1.100 USD/tấn. Đến nay, ngành điều đã sản xuất gần hết lượng nguyên liệu đã thu mua được. Năng suất sản xuất của ngành điều Việt Nam là 650.000 tấn/năm. Còn đối với ngành cà phê, do không có tiền nên các doanh nghiệp chỉ mua dự trữ được 7-8% so với kế hoạch là 200.000 tấn trong lúc giá cà phê xuống thấp ở thời gian qua. Như vậy, doanh nghiệp cà phê trong nước lại càng chịu thêm nhiều áp lực với các đơn vị liên doanh với nước ngoài.[17] Giá các yếu tố đầu vào tăng cao Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 khiến cho nhiều doanh nghiệp điêu đứng trước sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào. Đặc biệt là ngành dệt may gặp khá nhiều khó khăn khi giá nhập khẩu nguyên phụ liệu tăng cao. Từ tháng 10/2008, giá sắt thép đã tăng 55%, tương ứng với 16.000 VNĐ và 20.000 VNĐ/ kg, trong khi giá gạch tăng 50%. Do tác dộng của giá phôi trên thị trường thế giới cùng với chi phí đầu vào tăng cao, giá bán thép xây dựng trong 2 tháng đầu năm 2009 tăng từ 14 – 18 % do giá thép nhập khẩu , giá thép phế để sản xuất phôi thép, và giá dầu mazud dùng để sản xuất thép đều tăng cao. Giá thép và nguyên vật liệu xây dựng tăng đã khiến việc xây dựng trở nên khó khăn và nhiều nhà thầu phải điêu đứng. Bộ Công Thương cho biết, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5 ước đạt 65,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với tháng 4 và tăng 13,8% so với tháng 5/2009. Như vậy, tính chung 5 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 301,5 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ, trong đó: khu vực kinh tế Nhà nước tăng 9,8%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước có tốc độ tăng 12,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao nhất 16,8%. Cũng theo Bộ Công Thương, 5 tháng qua, các sản phẩm phục vụ sản xuất có mức tăng trưởng cao như: điện tăng 17,7%, than tăng 4,3%, khí đốt tăng 16,7%, khí hóa lỏng (LPG) tăng gấp 2 lần, xăng dầu các loại tăng gấp 7 lần … Nhóm các sản phẩm cơ khí cũng có mức tăng trưởng cao như: động cơ điện tăng 26,7%, động cơ diezen tăng 41,7%, máy công cụ tăng 44,8%… các sản phẩm phục vụ tiêu dùng như may mặc, sữa bột, bia lần lượt tăng 14,4%, 35,8% và 15.3%… Riêng các sản phẩm phục vụ ngành nông nghiệp như: phân urê giảm 2,3%; phân NPK giảm 14,2% do nhu cầu hạn chế.[12] Bộ Công Thương cũng đưa ra nhận định sản xuất công nghiệp từ nay đến cuối năm có khả năng đạt và vượt kế hoạch năm (trên 12%). Tuy nhiên, do tình hình cung ứng điện trong mùa khô có khó khăn, trong thời gian từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 6 phải điều tiết, sẽ có phần nào ảnh hưởng đến sản xuất. Hơn nữa, giá đầu vào cho sản xuất tiếp tục tăng nhanh hơn giá bán sản phẩm, nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không cao; việc vay vốn tín dụng cho đầu tư cũng như cho hoạt động xuất khẩu hạn chế, nhiều dự án không vay được, trong khi vốn ngân sách thuộc kế hoạch năm 2010 không đáp ứng nhu cầu và một số dự án đã có khối lượng thực hiện cao, nên khả năng bảo đảm tiến độ đầu tư rất khó khăn. [12] Thị trường đầu ra bị thu hẹp. * Thị trường xuất khẩu. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23 – 25 %. Không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ, mà cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ còn tác động gián tiến đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Nhật Bản – hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này cũng cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16.5% trong khi năm 2007 là 18%.[6, Tr38] Về nông sản xuất khẩu, đến tháng 12/2008 giá các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã giảm mạnh. So với thời điểm giá cao nhất trong năm thì giá gạo giảm 58%, cà phê giảm 24%, cao su giảm 48%, hạt điều, hạt tiêu đều có mức giảm 20%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 12/2008 đạt 1,15 tỷ USD, giảm 2% so với tháng 11/2008 ( đạt 1,17tyr USD), giảm 34% so với tháng 7/2008 – tháng đạt kỷ lục 1,75 tỷ USD. Xuất khẩu nông sản gặp nhiều trở ngại do việc thanh toán quốc tế. Tình trạng này xảy ra nhiều
Luận Văn Đề Tài Tác Động Của Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu Tới Các Doanh Nghiệp Việt Nam Và Giải Pháp Khắc Phục
Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng mà ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế là vô cùng lớn. Khủng hoảng ảnh hưởng rất sâu rộng đối với nền kinh tế không chỉ trong một quốc gia mà đối với cả khu vực. Nó tác động làm cho tốc độ tăng trưởng giảm, đầu tư giảm, lạm phát tăng cao, thất nnghiệp gia tăng Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 vừa qua xảy ra tại Mỹ đã tác động rất lớn tới các nền kinh tế ở các quốc gia. Đặc biệt là đối với những nước phát triển như: Nga, Nhật, Đức, EU Nói như vậy không có nghĩa là các nước đang phát triển không bị ảnh hưởng. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp, các tập đoàn. Một thực tế là rất nhiều doanh nghiệp tồn tại hàng hơn trăm năm với đầy đủ kinh nghiệm, địa vị, thương hiệu nhưng cũng phải tuyên bố phá sản như Lehman Brothers. Vậy thì ta có thể tưởng tượng được rằng các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển sẽ phải gặp những khó khăn như thế nào. Đề tài : ” Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục” nhằm mục đích phân tích những tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam trên phương diện về vốn, lao động, thị trường kinh doanh v.v. Từ đó cho thấy được những giải pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua thời kì khó khăn . Thêm nữa tôi cũng xin cung cấp những thông tin cho thấy chính bản thân các doanh nghiệp cũng sẽ đã và đang nỗ lực để vượt qua khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nội dung đề tài gồm 2 chương: Chương 1: Khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam. Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau khủng hoảng.
TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC
TIN KHUYẾN MÃI
Thư viện tài liệu Phong Phú
Hỗ trợ download nhiều Website
Nạp thẻ & Download nhanh
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Nhận nhiều khuyến mãi
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay
NẠP THẺ NGAY
DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN
Khủng Hoảng Toàn Cầu Ảnh Hưởng Kinh Tế Việt Nam, Thực Trạng Và Giải Pháp
1/ Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến Việt nam: Những tháng cuối năm 2008 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng mạnh như Mỹ, dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp thế giới. Tác động bởi sự suy thoái toàn cầu, đã đảo lộn và ảnh hưởng đến các nước, rõ nhất vẫn là hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi nước. Tại Việt nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu …Việt nam là một trong những nước ảnh hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu năm 2008
STT
MẶT HÀNG
TIỀN(Triệu USD)
1
Dầu thô
10450
2
Dệt May
9108
3
Da giầy
4697
4
Hải sản
4562
5
Lúa gạo
2902
6
Đồ gỗ
2779
7
Điện tử ,máy tính
2703
8
Cà phê
2023
9
Cao su
1597
10
Than đá
1444
11
Dây & cáp điện
1014
12
Khác
19622
Nguồn: http// www.indembassy.com.vn/tabid/960/default.aspx
Điều đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam bị sụt giảm, từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,23% năm 2008 và chỉ còn 5,32% năm 2009. ( nguồn từ thông báo cục thống kê cuối tháng 12-2009)
Từ tác động của khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng đến các thị trường Mỹ, EU, Nhật…chính sự khó khăn của thị trường, ảnh hưởng đến sản phẩm của Việt nam, có thời điểm nông sản xuất khẩu giảm mạnh so với thời điểm giá cao nhất trong năm : Gạo đã giảm 58%, Cao su giảm 48%, Cà phê giảm 24%… cả những tháng đầu năm 2009 so với 2008 Tổng kim ngạch xuất khẩu Nông, Lâm ,Thủy sản… Việt nam giảm 15%.
Sự tác động khủng hoảng Thế giới làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam gặp rất nhiều khó khăn một phần bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho ngày càng nhiều. Phần thì chịu ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm lãi suất cho vay cao vượt xa khả năng kinh doanh của doanh nghiệp (lãi suất đi vay không ngừng được nâng lên và lãi suất cho vay cũng tăng lên từ 14% năm (năm 2007) và đã tăng 20% và 24% năm ( năm 2010). Tuy rằng ngân hàng nhà nước đã đưa mức lãi trần nhưng đều không đạt kết quả do các ngân hàng thương mại không thực hiện triệt để. Nợ xấu ngân hàng ngày càng có xu hướng gia tăng. Từ những lý do trên các doanh nghiệp khó, lại càng khó hơn và số doanh nghiệp đã tự giác đóng cửa, tuyên bố phá sản tăng 21,8% so với năm 2010 và công nhân là những nạn nhân gánh hậu quả, thực tế là thất nghiệp ngày càng nhiều hơn. Doanh số bán lẻ và tiêu dùng dịch vụ năm 2011 chỉ tăng 4% mức tăng thấp nhất từ trước đến nay
Bên cạnh đó, công tác nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam cũng không tốt hơn các doanh nghiệp xuất khẩu. Tại sao? Người lao động thu nhập thấp hơn chi dùng, để giảm khó khăn cho sinh hoạt gia đình người dân phải cắt, giảm chi tiêu, thất nghiệp trong xã hội gia tăng, …làm cho những doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam ngần ngại trước cuộc sống mà mức thu nhập của người dân thấp hơn so với mức tiêu dùng hàng hóa, vậy giới hạn nhập khẩu hàng tiêu dùng của các doanh nghiệp nằm trong một số mặt hàng cần thiết mà các nhà nhập khẩu Việt Nam xác định giới hạn an toàn không bị lỗ, nhưng nhập mức độ cầm chừng hoặc co cụm, hạn chế phát triển và mở rộng.
Từ xuất khẩu cho đến nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đều giảm, gây khó khăn cho các doanh nghiệp làm dịch vụ, sản xuất các phụ liệu đi kèm, hỗ trợ cho xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng như: bao bì, đóng gói, vận chuyển… đều giảm, lượng hàng tồn kho tăng…
Trước tình hình khó khăn, Doanh nghiệp Việt nam làm gì?
Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Như ông cha ta đã nói, chính lúc này chúng ta nhìn lại mình và tìm cho mình một lối thoát.
* Lường trước sự khó khăn, hợp tác liên kết kinh doanh và tận dụng cơ hội khai thác thị trường mới trong thời kỳ khủng hoảng toàn cầu các doanh nghiệp đều cố gắng thắt lưng, buộc bụng, tiết kiệm, kết hợp với nhau vượt qua thời điểm khó khăn này, các doanh nghiệp thành lập câu lạc bộ, cùng có tiếng nói chung với đối tác quốc tế, tránh tranh mua, dành bán trong nước làm thiệt hại cho các doanh nghiệp, phải có kế hoạch, phải có chiến lược và hướng đi, cùng hợp tác, liên kết tạo thành sức mạnh trong lợi thế so sánh. Tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành nghề trong việc đa dạng hóa các hình thức liên kết. Thiết lập các quỹ hỗ trợ tài chính, quỹ nghiên cứu khoa học nhằm thực hiện các dự án nghiên cứu chung của các doanh nghiệp, tăng cường hợp tác thay vì cạnh tranh chia sẻ thị trường. Trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn có những cơ hội đến với chúng ta nếu chúng ta biết đón bắt nó lúc nào, và như thế nào, ngay trong lúc này các doanh nghiệp phải cùng nhau khai thác thế mạnh của mình trên các thị trường Mỹ, EU, Nhật,( trong cái rủi có cái may, cũng có những doanh nghiệp nước khác bị khủng hoảng, không có khả năng bước vào thị trường này nên nó cũng là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam), ngay lúc này các doanh nghiệp nhanh chân mở rộng, tìm kiếm thị trường mới như : Trung đông, Ai cập… Các mặt hàng chủ lực của chúng ta như gạo, chè, thủy sản, rau quả, may mặc…đang xâm nhập vào thị trường này nhưng vẫn còn rất yếu, các doanh nghiệp cần nắm bắt các thông tin, nhanh chóng, kịp thời giải quyết thông tin, đây là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp. Trong thời kỳ khủng hoảng này “Cái khó ló cái khôn” các doanh nghiệp phải tạo cơ hội cho mình, hợp tác, xác định làm ăn lâu dài, khẳng định tiềm năng, thương hiệu của mình trên thị trường, trên mảnh đất mới này. Không phải chúng ta chỉ dừng lại từ thị trường Ai Cập mà chúng ta phải vươn xa, vươn rộng trên mảnh đất kim cương này thông qua con đường Ai Cập. Đối với thị trường trong nước, trong những năm gần đây nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đang là thị trường giàu tiềm năng, còn bỏ ngõ. Vì vậy việc đầu tư công nghệ tham gia vào khâu chế biến, bảo quản và phân phối sau thu hoạch tại những vùng sản xuất trọng điểm của đất nước. Có lẽ đây cũng là thời cơ lớn để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường nội địa, một thị trường được đánh giá thiếu tính ổn định nhiếu năm qua. Như vậy sau cơn khủng hoảng các doanh nghiệp vừa có thị trường truyền thống vừa mở rộng thị trường mới quốc tế.
* Nhà nước luôn theo dõi và đưa ra những định hướng hỗ trợ cho các Doanh nghiệp : Đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu, quan tâm hơn các kênh phân phối tại nước nhập khẩu, tổ chức hội chợ, quảng bá thương hiệu, quảng bá hình ảnh của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn mở các văn phòng đại diện ở những thị trường lớn và tốt nhằm dễ nắm thông tin, xác định khách hàng và tìm kiếm khách hàng, theo dõi tình hình thị trường, giảm thiểu rủi ro cho nhà xuất khẩu, tiếp cận thị trường nhanh, khai thác các lợi thế mà các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu lợi thế cạnh tranh đó đến nước sở tại có lợi thế cạnh tranh hơn.
Thông qua các Lãnh sự quán các nước, Nhà nước tìm kiếm các đối tác tạo điều kiện để các Doanh nghiệp, dễ dàng tiếp xúc và xúc tiến đàm phán thương mại nhằm tìm thị trường mới trong lúc các Doanh nghiệp đang lúng túng trong việc xuất khẩu hàng hóa với thị trường truyền thống.
* Chính sách Nhà nước và Doanh nghiệp thắt lưng, buộc bụng, vượt khó Những khó khăn mà khủng hoảng toàn cầu mang lại đã làm cho hoạt động xuất khẩu bị khó khăn, một số doanh nghiệp co cụm sản xuất hoặc đóng cửa ngừng hoạt động và công nhân mất việc vì Doanh nghiệp không có tiền trả lương, hàng bán chậm, vay ngân hàng đến hạn không đáo hạn được …để các Doanh nghiệp không bị đình đốn sản xuất, xuất khẩu, không bị vỡ hợp đồng do thiếu tài chính, Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ và tiếp tục cho vay. Bên cạnh đó Nhà nước áp dụng hàng loạt biện pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát với chính sách tài khóa, giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán, hạn chế lưu thông tiền mặt, cho tạm hoãn, giãn tiến độ thi công một số công trình đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả, tập trung vốn cho các công trình mang lại hiệu quả kinh tế thấy được như: Nhà máy điện, Nhà máy lọc dầu…đồng thời hạn chế thất thu thuế, tích cực thu thuế , nợ tồn đọng
* Ngoài ra, Chính phủ điều hành chính sách tiền tệ, linh hoạt, hiệu quả tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu, cũng như thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng nhằm tránh những hiện tượng tiêu cực đổ bể mang tính dây chuyền với thị trường trong nước và có giải pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời không để chúng xuất hiện, Nhà nước phải quản lý chặt việc giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do nhằm hạn chế sự đầu cơ ngoại tệ và gây sức ép tỷ giá, thông qua Ngân hàng Nhà nước tiến hành thực hiện nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm và bình ổn tỷ giá trên thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập các thiết bị,… hỗ trợ cho Doanh nghiệp mở rộng sản xuất và xuất khẩu, kích thích cho các doanh nghiệp trong nước cùng phát triển sản xuất, bình ổn cuộc sống. Nhà nước phải sử dụng công cụ quản lý vĩ mô nhằm điều chỉnh thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhanh, mạnh, chất lượng, phù hợp với thị hiếu thị trường trong thời kỳ khó khăn này, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường mở rộng thị trường và thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu.
Ngay lúc này các doanh nghiệp phải tự cứu lấy mình, đừng trông chờ vào phép màu nhiệm nào cả mà chúng ta phải tự tin vào chính mình, vào chính sách chủ trương của Đảng, và Chính phủ. Chúng ta, còn một thị trường đang bỏ ngõ mà các Doanh nghiệp cứ chạy theo lợi nhuận xuất khẩu, bỏ quên thị trường nội địa đầy tiềm năng 86 triệu dân, được sự tư vấn của chính phủ kêu gọi “ Chúng ta là người Việt nam hảy dùng hàng Việt Nam” , sự khích lệ với tinh thần dân tộc, quả thật đánh đúng vào lòng tự trọng của người Việt Nam, người tiêu dùng sẵn sàng đón nhận sản phẩm của mình một cách tự hào, nhìn lại thời điểm đó ( 2008- 2010) sản phẩm Việt Nam tràn đầy các siêu thị , chợ từ nam chí bắc, thị trường nội địa rất dễ dãi và hiểu được thời kỳ khó khăn, mỗi người có trách nhiệm góp sức mình, dùng sản phẩm mình là yêu nước, người tiêu dùng hiểu được điều đó thì các doanh nghiệp phải có trách nhiệm đảm bảo tốt sản phẩm, tôn trọng người tiêu dùng. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong lúc khủng hoảng này đồng thời góp sức bình ổn kinh tế, không để những biểu hiện tiêu cực xảy ra trên thị trường.
* Thông thoáng môi trường đầu tư Kêu gọi doanh nghiệp trong nước và doanh nhân nước ngoài thành lập doanh nghiệp và hoạt động phải tốt hơn các doanh nghiệp đầu tư trước đó, nhằm thu hút vốn đầu tư và nâng cao năng lực sản xuất mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và các sản phẩm sản xuất, bình ổn thị trường, hạn chế lạm phát. Muốn được như vậy ngay cả chính sách vĩ mô phải tạo thuận lợi cho nhà đầu tư bên cạnh đó chính sách địa phương cũng thông thoáng từ khâu thủ tục ban đầu, hệ thống cơ sở hạ tầng phải được đầu tư nâng cấp và sửa chữa cho hoàn thiện, địa phương phải tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao trước khi kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực mà địa phương có thế mạnh, có chính sách hấp dẫn khuyến khích các nhà đầu tư vào. Không đem con bỏ chợ mà thật sự hỗ trợ các nhà đầu tư trong đó đôi bên cùng có lợi, mục đích lâu dài có sự giới thiệu nhau trên thị trường khi các nhà đầu tư có điều kiện và xét thấy thật sự có hiệu quả sau thời gian hoạt động (qua môi trường đầu tư của các doanh nhân nước ngoài trên địa bàn Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam cũng có được mặt trên thị trường nội địa, sẽ có những bài học tốt cho sản phẩm và cơ hội để nhìn lại sản phẩm mình trên thị trường của mình)
Sự khủng hoảng đã xảy ra trên thế giới với qui mô toàn cầu, nó đưa một số quốc gia đứng bên bờ vực phá sản như; Hi Lạp, Pakistan … làm cho bao nhiêu người phải thất nghiệp, bao nhiêu người không nhà, không cửa và ly tán… với Việt Nam tuy có bị ảnh hưởng nhưng chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ với vai trò của Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đã kịp thời điều tiết, nắm vững con thuyền, lèo lái vược qua cơn nguy kịch (2008-2010), tuy rằng hôm nay nó vẫn còn ê ẩm cho nền kinh tế nhưng khẳng định một lần nữa, chúng ta đã vượt qua nạn dịch, đã dần ổn định, phát triển.
Nhìn lại vấn đề, chúng ta đã dự báo nhưng vẫn không có giải pháp giải quyết để sự khủng hoảng đó gây sâu rộng cho nền kinh tế, như vậy chứng tỏ sức đề kháng nền kinh tế chúng ta còn yếu chưa đủ sức để ngăn chặn. Thời gian đến chúng ta phải tăng cường kiểm tra quản lý các hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính nhằm ngăn chặn trước không nên để kinh tế rơi vào trạng thái bất ổn,
Đây là một nạn dịch mà chưa có kháng sinh để trị, chính điều đó chúng ta phải phòng ngừa. Tuy rằng đất nước đã hội nhập nên chịu sự chi phối của khủng hoảng là đúng nhưng nếu chúng ta có năng lực, đánh giá được tình hình, biết phối hợp đồng bộ từ vĩ mô, vi mô, năng lực tài chính, nội lực trong dân, quan hệ quốc tế… tạo nên một sức mạnh chế ngự được khủng hoảng nhằm hạn chế thấp nhất ảnh hưởng nền kinh tế nước ta.
NCS. Trần Khắc Xin, ThS Trần Minh Cường HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH KV III
Việt Nam Trước Khủng Hoảng Và Suy Thoái Kinh Tế Toàn Cầu
Cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài đã phá vỡ các hoạt động kinh tế toàn cầu. Kinh tế thế giới cuối năm 2008 và đầu năm 2009 tiếp tục suy giảm mạnh, các nước công nghiệp phát triển đang rơi vào giai đoạn khủng hoảng tồi tệ nhất trong gần 70 năm qua. Đối với Việt , mặc dù hệ thống tài chính vẫn chưa bị ảnh hưởng nhưng sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư, kiều hồi… đã bị tác động tương đối rõ. Kinh tế Việt hiện nay chịu tác động chủ yếu thông qua 02 kênh: Xuất khẩu giảm cả về lượng lẫn giá do kinh tế thế giới suy thoái; nhu cầu giảm sút và đầu tư nước ngoài sụt giảm. GDP quý I/2009 chỉ tăng 3,1% mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ từ năm 2000 đến nay. Dự báo đến 2009 tăng trưởng GDP chỉ ở khoảng 4,8% đến 5,6%. “Cơn địa chấn” khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động đến kinh tế Việt qua một số mặt sau đây:
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà “trượt dốc”, mặt khác cạnh tranh trong xuất khẩu vào thị trường Mỹ khốc liệt hơn do một số nhà xuất khẩu giảm giá hàng xuất khẩu để tiêu thụ lượng hàng hoá xuất khẩu bị tồn đọng. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt hiện nay, chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ suy giảm sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt trong năm 2008, năm 2009 và cả năm 2010 (nếu nền kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi).
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng. Bên cạnh đó khủng hoảng tài chính Mỹ cũng tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản -hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt . Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, theo đó nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt sẽ có xu hướng giảm. Quý IV/2008, kim ngạch xuất nhập khẩu vào 2 thị truờng này tháng sau đều giảm so với tháng trước. Kim ngạch xuất nhập khẩu quý I/2009 có xu hướng tăng nhẹ. Dự báo kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 chỉ tăng 3-5%.
Đối với vốn đầu tư của nước ngoài (kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp).
Có thể các nhà đầu tư ngoại sẽ rút vốn khỏi thị trường Việt Nam để ứng cứu cho công ty mẹ tại các thị trường lớn, nhưng khả năng này là rất ít, một mặt vì lượng vốn đầu tư của mỗi nhà đầu tư ở thị trường Việt Nam là không nhiều và hiện Việt Nam vẫn được coi là địa điểm đầu tư an toàn có độ tin cậy cao. TTCK Việt là một nơi có ưu thế đầu tư khi tình hình kinh tế vĩ mô Việt đang có chiều hướng tốt dần.
Một số vấn đề khác cần quan tâm là khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư chứng khoán Việt
Thị trường BĐS có mối liên hệ mật thiết với thị trường vốn và tài chính. Hoạt động đầu tư kinh doanh BĐS đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Hiện nay tiềm lực tài chính của hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt
Giá BĐS giảm sẽ kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng đầu tư thương mại rơi vào tình thế bất lợi. Gần đây, FDI đổ vào Việt tăng nhanh trong đó gần 50% đầu tư vào BĐS. Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính sẽ là bất lợi cho việc giải ngân vốn FDI ở Việt đặc biệt là FDI trong lĩnh vực BĐS.
Khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc hiện nay tuy không làm ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài chính tiền tệ, TTCK và các yếu tố tâm lý của người dân. Tuy nhiên, việc cho vay BĐS của các ngân hàng ở Việt là khác xa so với ở Mỹ vì vậy khó xảy ra một cuộc khủng hoảng trên thị trường BĐS Việt . Theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt thì cho vay BĐS chiếm khoảng 9,5% tổng số dư nợ của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Mặc dù vậy việc tác động gián tiếp đến thị trường BĐS Việt Nam như đã nói ở trên là có thể, Việt Nam đã lường trước tình hình này và Chính phủ đã có những giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn ảnh hưởng xấu.
Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dùng. Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn khó khăn. Nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô do chi phí sản xuất tăng đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Năm 2008 các ngân hàng tăng lãi suất để phục vụ mục tiêu thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát, các doanh nghiệp rất khó khăn khi phải vay ngân hàng với lãi suất cao.
Các hoạt động dịch vụ sẽ bị thu hẹp, đặc biệt là lượng khách du lịch sẽ giảm, cho đến nay ngành du lịch đã tổ chức nhiều chương trình khuyến mãi nhưng tình hình chung là chưa sáng sủa.
Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I/2008 Chính phủ Việt đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả khôn lường của “cơn bão tài chính”. Rất may là Việt đã kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý để phòng vệ, chống bão ngay từ đầu năm. Các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác dụng, lạm phát giảm, tính thanh khoản giữa các ngân hàng được tăng cường, thanh khoản của thị trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân thương mại, tăng cường ngân sách nhà nước, thắt chặt chi tiêu công, tăng dự trữ ngoại tệ.
Sự chao đảo của thị trường thế giới khiến giá nguyên liệu giảm cũng giúp Việt “dễ thở” hơn và làm giảm gánh nặng ngân sách trợ cấp giá nguyên liệu. Các NHTM cũng được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp của Ngân hàng Nhà nước. Nếu nhìn nhận từ góc độ kinh tế vĩ mô, các chỉ số kinh tế đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên bước sang năm 2009, khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn tiếp tục trầm trọng. Kinh tế thế giới suy thoái. Kinh tế Việt đã có những dấu hiệu suy giảm, đặc biệt là nền kinh tế đang chịu tác động của suy giảm tổng cầu do xuất khẩu và đầu tư nước ngoài giảm sút.
Thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tài chính và các Bộ, ngành đã có những động thái phối hợp chính sách nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu tiêu dùng và đầu tư, nới lỏng đáng kể chính sách tài chính tiền tệ và đảm bảo an sinh xã hội. Những chính sách đó là: nới lỏng tài khoá mà quan trọng nhất là Bộ Tài chính đã đưa ra là việc giảm, giãn nộp thuế, hoàn thuế (GTGT, TNDN và TNCN) điều chỉnh hàng rào thuế quan trong khuôn khổ cho phép của cam kết WTO để hỗ trợ sản xuất trong nước.
Các chính sách điều hành về tài khoá và tiền tệ trong những tháng qua là đúng hướng và kịp thời đã góp phần quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng dương. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hiện chỉ có 12 nước có tốc độ tăng trưởng dương trong quý I/2009 trong đó có Việt tăng trưởng 3,1% là một nỗ lực rất lớn. Nhìn chung kinh tế quý I/2009 đã có nhiều biểu hiện tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, giá cả, lãi suất, tỷ giá đều tương đối ổn định và nằm trong tầm kiểm soát. TTCK, thị trường BĐS từ tháng 4/2009 đến nay đã có dấu hiệu ấm lên.
6. Nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới. Kích thích phát triển thị trường trong nước. Đẩy mạnh việc chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại. Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu: Tập trung vào xuất khẩu những mặt hàng Việt
8. Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định. Việt
11. Đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, hiệu quả, minh bạch.
Một Số Giải Pháp Ngăn Chặn Tác Động Khủng Hoảng Kinh Tế Thế Giới Đến Nền Kinh Tế Việt Nam
Cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ đã diễn ra ngày một sâu rộng trong các tháng qua và đã lan rộng ra khắp thế giới, đã có nhiều tác động không thuận đến các nền kinh tế, trong đó có nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, mức độ phạm vi ảnh hưởng chưa thể đánh giá và dự báo chính xác do tình hình khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và thế giới đang tiếp tục diễn biến khó lường. Do vậy, trong bài báo này, bước đầu chúng tôi xin phân tích, đánh giá và đề xuất một số giải pháp ngăn chặn tác động khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới đến nền kinh tế nước ta trong thời gian tới. I. ĐIỂM LƯỢC TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG KINH TẾ MỸ VÀ THẾ GIỚI TRONG THỜI GIAN QUA
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và thế giới đã có mầm mống khởi nguồn từ trước ngày 6/8/2007 khi Công ty Thế chấp nhà Mỹ (American Home Morgage) làm đơn xin phá sản. Tiếp theo sự khởi nguồn này là nhiều ngân hàng và công ty lâm vào khó khăn và bộc lộ rõ nét là sự sụp đổ và khó khăn của các ngân hàng và công ty tài chính lớn và nổi tiếng ở Mỹ (Wachovia, Washington Mutual Inc, Bear Sterns, Fannie Mae, Fredie Mac, Lehman Brothers, Merrill Lynch, Tâp đoàn bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIG), Goldman Sachs, Morgan Stanley…).
Mặc dù đã có rất nhiều biện pháp của Chính phủ Mỹ đã đưa ra nhưng đến đầu tháng 11 này, các cơ quan của Mỹ đã phải đóng của thêm một ngân hàng nữa là Freedom Bank đưa tổng số ngân hàng bị giải thể là 17 ngân hàng. Đến thời điểm hiện nay thì nhiều người dân Mỹ thi nhau xin phá sản, cụ thể là tháng 10/2008, cá nhân nộp đơn xin phá sản tăng 8% so với tháng trước (108.905 lượt người), tức là mỗi ngày có 4.936 đơn xin phá sản, tăng 34% so với cùng kỳ năm 2007. Tại một số bang của Mỹ, tình hình người dân lâm vào phá sản rất cao, như tại bang Nevada, số đơn xin phá sản trong tháng 10/2008 tăng 70% so với cùng kỳ năm trước, bang California và Florida là 80% và 62%. Tóm lại nền kinh tế Mỹ hiện nay là khá trầm trọng và đã lây lan khủng hoảng này sang hầu khắp các nước trên thế giới.
Các thị trường chứng khoán trên thế giới đồng loạt sụt giảm mạnh trước diễn biến thị trường tài chính Mỹ. Đặc biệt, ngày 17/9, bất chấp nỗ lực giải cứu AIG, thị trường chứng khoán Mỹ đã có mức sụt giảm kỷ lục do đợt bán tháo cổ phiếu được coi là tồi tệ nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
Do mức độ trầm trọng và lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nền kinh tế trên thế giới đã và đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực và đã có nền kinh tế lâm vào khủng hoảng mặc dù các nước này đã phối hợp sử dụng một nguồn lực tài chính lớn chưa từng có (tới hàng nghìn tỷ USD) và gần như tất cả các biện pháp có thể để hỗ trợ thanh khoản và cứu hệ thống tài chính khỏi sụp đổ.
Đối với châu Á, khủng hoảng kinh tế đã tràn vào và Inđônêxia là nước hứng chịu đầu tiên. Tiếp theo là các nền kinh tế ở châu Á khác cũng đang từng bước bị ảnh hưởng ở mặt này, mặt khác với mức độ nặng nhẹ khác nhau, thể hiện ở hàng loạt thị trường chứng khoán ở châu Á bị rơi tự do, nhiều công ty tài chính, ngân hàng khó khăn, thua lỗ và có nguy cơ phá sản. Nền kinh tế Nhật Bản đang lâm vào khủng hoảng trong những ngày gần đây: giá chứng khoán giảm mạnh, nhiều ngân hàng, công ty đã và đang trên bờ vực thẳm. Như vậy, cuộc khủng hoảng này đã được coi là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Đánh giá ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế Mỹ đến thời điểm hiện nay trên toàn thế giới là rất khó, nhưng có thể thấy đây là một con số khổng lồ. Mới đó mà nhiều quốc gia đã phải bơm ra hàng trăm tỷ USD để cứu vãn tình hình và ổn định kinh tế. Đó là chưa kể đến những thiệt hại tiếp theo từ kinh tế suy giảm, không tăng trưởng, rối loạn và thất nghiệp đang chờ phía trước. Cho tới thời điểm hiện tại, tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu.
Nguyên nhân của khủng hoảng lần này ở Mỹ là do một số nguyên nhân chính như: (i) Đầu tư bất động sản và tiêu dùng quá lớn; (ii) Do chính sách tài chính, tiền tệ quá lỏng, nên đã khuyến khích tiêu dùng và trực tiếp là cho vay dưới chuẩn để đầu tư bất động sản; (iii) Chứng khoán hoá tràn lan thiếu kiểm soát: các ngân hàng đầu tư ở Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản (MBS, MBO, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường; (iv) Sự quản lý, giám sát và điều hành của Chính phủ lỏng lẻo trong suốt thời gian dài, đặc biệt là do chủ thuyết tự do hoá tài chính và thị trường tự do tự điều tiết; (v) Chủ thuyết tân tự do kinh tế Mỹ dựa vào tiêu dùng tư nhân (gần 70% GDP) và chi tiêu Chính phủ (13% GPD).
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới đã đặt chính phủ các nước phải đưa ra các biện pháp chống đỡ như: Thứ nhất là sửa đổi các quy định hiện hành nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các ngân hàng nhằm ngăn chặn nguy cơ rút tiền hàng loạt của dân chúng trong thời gian ngắn (tăng mức bảo hiểm tiền gửi, hoặc cam kết bảo đảm an toàn tiền gửi và chi trả đầy đủ tiền gửi tiết kiệm cho dân chúng, cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính vay tiền; Thứ hai là nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách bơm một lượng tiền lớn cho nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng; giảm lãi suất, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng khả năng thanh khoản; Thứ ba là quốc hữu hoá, nhà nước mua lại các khoản nợ xấu, mua lại cổ phần chi phối và nắm quyền điều hành; khuyến khích các ngân hàng, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp mua lại các tổ chức đổ vỡ và phá sản. Tiếp theo là cơ cấu lại các ngân hàng và hệ thống tài chính trong nước; Thứ tư là cơ cấu lại quản trị các ngân hàng, tăng cường hệ thống giám sát bảo đảm an toàn, cơ cấu lại các khoản vay, cắt giảm nhân viên, tiết kiệm chi phí, chấn chỉnh lại các quy định nội bộ…; Thứ năm là vay tiền của IMF để xử lý khó khăn trong nước…; Thứ sáu là thực hiện một số giải pháp hỗ trợ và kích thích sản xuất hoặc đưa tiền ra để đầu tư vào những dự án hạ tầng lớn…
Như vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới lần này đặt chúng ta nhìn nhận lại sự kết hợp hài hoà giữa thị trường tự do và quản lý của nhà nước. Phải chăng việc tập trung hoá quá cao đã không thành công thì việc tự do hoá nền kinh tế thái quá cũng không thành công. Vấn đề không phải là đối lập nhau giữa thị trường tự do với điều tiết của nhà nước mà cần kết hợp hài hoà. Câu hỏi hiện nay là chính sách và liều lượng tự do hoá đến đâu thì thành công và bền vững, vai trò điều tiết của nhà nước cần thiết ở chừng mực nào.
Tình hình kinh tế Mỹ và thế giới từ nay đến cuối năm 2008 và năm 2009 sẽ có nhiều khó khăn, Theo IMF, tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2008 ở mức 2,8% và 2,2% năm 2009; theo HSBC, tăng trưởng kinh tế Mỹ quý IV năm 2008 là -3,0% và 2009 tăng trưởng Quý I là -0,8%, Quý II là 1,5%, Quý III là 2,6%, Quý IV là 2,8%, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ sẽ tăng lên, cuối năm 2008 ở mức 8% và 2009 là 7,8%. Tốc độ tăng tăng xuất khẩu và nhập khẩu Mỹ sẽ giảm mạnh: cuối năm 2008, xuất khẩu giảm -1,5%, nhập khẩu giảm -3,8%, đầu năm 2009 xuất khẩu giảm -1,7% và nhập khẩu giảm – 7,1%.
II. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN NƯỚC TA
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới chắc chắn sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế nước ta trên cả góc độ trực tiếp và gián tiếp, tuy nhiên mức độ không giống như các nước khác và chưa thể xác định cụ thể, cũng không quá lo, không hoảng hốt, nhưng không chủ quan mà bình tĩnh để xem xét, xử lý. Mặc dù, đã có nhiều ý kiến và chắc chắn sẽ còn nhiều ý kiến nữa đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế giới đến nước ta, nhưng nhìn chung có thể nói, nền kinh tế nước ta đang có chiều hướng chuyển động tốt, trở lại dần với xu thế ổn định, lạm phát được kiềm chế, tăng trưởng ở mức hợp lý, các cơ chế chính sách đang từng bước được rà soát phù hợp hơn. Nhìn vào các ngành, lĩnh vực cụ thể, chúng tôi xin nêu một số ý ban đầu như sau:
– Đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Mặc dù bị thiệt hại nặng vì lũ lụt, thiên tai ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung gây ra hư hỏng nặng về hoa màu, nhưng khả năng vụ mùa vẫn được bảo đảm. Năm 2009, khả năng sản xuất lương thực thực phẩm cũng ở mức ổn định, không bị ảnh hưởng lớn của khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới.
– Đối với sản xuất công nghiệp cũng có khó khăn, nhưng những khó khăn hiện nay là do lạm phát cao đem lại, đặc biệt là khó khăn trong lĩnh vực xây dựng. Năm 2009, khi giá cả thế giới ở mức thấp và giá trong nước ổn định, đặc biệt đi theo đó là lãi suất tín dụng ngân hàng sẽ giảm xuống tương ứng thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội khôi phục và phát triển sản xuất, ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới cũng sẽ không nhiều vì sức mua trong dân vẫn cao, mức tiêu thụ hàng hoá trong các tháng vẫn ở trong phạm vi khả quan.
– Đối với dịch vụ, về cơ bản có ảnh hưởng nhưng không lớn vì khi giá cả giảm xuống thì nhu cầu dịch vụ sẽ tăng lên và người tiêu dùng sẽ được hưởng thụ nhiều hơn các loại hình dịch vụ. Đối với dịch vụ tài chính, ngân hàng sẽ tốt hơn khi lãi suất tín dụng ngân hàng giảm xuống, chi phí dịch vụ ngân hàng ở mức thấp thì nhiều doanh nghiệp và cá nhân sẽ có điều kiện vay vốn và sử dụng các dịch vụ này nhiều hơn.
– Đối với xuất – nhập khẩu thì có ảnh hưởng trên các mặt như: do nhập khẩu các nước giảm nên xuất khẩu của ta giảm, hơn nữa giá cả các mặt hàng giảm nên mặc dù tổng sản lượng hàng xuất khẩu vẫn tăng nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm. Đó là chưa kể các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn trong huy động vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tháng 8/2008, ta xuất khẩu 6,1 tỷ USD, tháng 9/2008 giảm xuống còn 5,3 tỷ USD. Năm 2009 khả năng xuất khẩu sẽ không tăng cao do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trên các mặt nêu trên. Đối với nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2008 tăng 42,6% và nhập siêu bằng 30,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2009, nhập khẩu sẽ giảm nhưng không nhiều, khả năng nhập siêu sẽ cao.
– Hệ thống ngân hàng: Có 3 chi nhánh ngân hàng Mỹ hiện đang hoạt động tại Việt Nam là JP Morgan Chase, Citibank và FENB. Tuy nhiên chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động ngân hàng của các chi nhánh này tại Việt Nam. Về hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có một số tác động gián tiếp, tuy nhiên cũng không đáng kể. Một số tác động có thể là: diễn biến của tỷ giá và lãi suất USD. Đô la Mỹ đã có diễn biến phức tạp do tâm lý lo lắng của nhà đầu tư. Khủng hoảng ở Mỹ có thể làm người dân dự đoán USD sẽ xuống giá nghiêm trọng, và họ có thể rút USD khỏi ngân hàng, hoặc bán USD để mua VND gửi vào. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã có một số giải pháp chỉ đạo, điều hành để ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, rà soát và kiểm soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại…
– Về tài chính, ngân sách và bảo hiểm có một số tác động nhẹ như giảm nguồn thu NSNN, hay người dân sẽ giảm các hoạt động bảo hiểm nhưng những vấn đề này về cơ bản là ổn định.
– Đầu tư nước ngoài vào nước ta: có thể được xem xét ở trên các góc độ và các mặt như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta (FDI); đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán (FII), Viện trợ phát triển chính thức (ODA), Vay nợ nước ngoài và các nguồn khác.
Đến thời điểm hiện nay, Mỹ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ cóá hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 4,1 tỷ USD, các dự án phần lớn còn ở giai đoạn đầu và phần nhiều đầu tư vào hạ tầng dài hạn (khách sạn du lịch, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải bưu điện). 65% đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam là vào lĩnh vực dịch vụ, trong đó khách sạn du lịch chiếm 52%. Đây là khu vực có thể chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng cụ thể còn phụ thuộc vào tốc độ giải ngân của các dự án tại nước ngoài và tiềm lực, chiến lược đầu tư của từng công ty. Luồng vốn FDI thực hiện trong 10 tháng đầu năm đạt 9,1 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2007. Nhìn chung, các nhà đầu tư đến từ châu Âu và Mỹ chỉ chiếm khoảng 5% trong số 59,3 tỷ USD đăng ký, trong khi các nhà đầu tư châu Á chiếm khoảng 80% (13% từ Nhật Bản và 67% từ các nước châu Á khác). Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới không chỉ gây ra khó khăn cho các nhà đầu tư Mỹ mà còn cho các nhà đầu tư từ các nước khác do sự liên thông và lệ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế và các nhà đầu tư.
Đối với nguồn vốn FDI đã bắt đầu bị ảnh hưởng nhẹ. Một số dự án đăng ký mới có xu hướng chững lại, trong tháng 10/2008, chỉ số 68 dự án đăng ký mới với tổng số vốn đăng ký là 2,02 tỷ USD, thấp hơn so với các tháng đầu năm (bình quân 1 tháng đầu năm số dự án đăng ký mới là trên 98 dự án với tổng số vốn trên 6,25 tỷ USD; 9 tháng đầu năm 2008 có 885 dự án đăng ký với tổng số vốn 56,27 tỷ USD). Tháng 10 năm 2008, tổng số vốn thực hiện chỉ đạt 15% so với số vốn đăng ký mới và tăng thêm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta sẽ sút giảm nhẹ vì các nước đều khó khăn, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khó khăn hơn vì chi phí vốn sẽ đắt đỏ hơn. Hơn nữa, nhiều công ty mẹ yêu cầu các công ty con đầu tư tại nước ta phải giảm đầu tư rút vốn về để tháo gỡ khó khăn cho công ty mẹ.
Tính đến thời điểm này, có khoảng 70 quỹ đầu tư quốc tế lớn nhỏ đang thực hiện giải ngân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ khiến các quỹ đầu tư nước ngoài khó huy động vốn hơn hoặc sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi những thị trường lớn của họ đang có vấn đề. Luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng và có khả năng sẽ chảy ngược ra nếu tình hình thế giới tiếp tục xấu đi.
– Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ thị trường chứng khoán thế giới. Mặc dù tình hình vĩ mô của Việt Nam 10 tháng đầu năm khả quan, nhưng chịu ảnh hưởng từ sự sụt giảm chứng khoán toàn cầu gây tâm lý cho các nhà đầu tư nên VN-Index cũng giảm liên tục. Hiện nay, VN-Index đã xuống dưới mức thấp và niềm tin của các nhà đầu tư cũng bị ảnh hưởng nhiều. Nhà đầu tư nước ngoài không bán chứng khoán ồ ạt nhưng cũng không mua vào nhiều chứng khoán.
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và toàn cầu cũng gây khó khăn cho việc phát hành trái phiếu và chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế vì chi phí tăng cao và ít nhà đầu tư hơn do dòng vốn khan hiếm. Nếu chúng ta phát hành để huy động với lãi suất quá cao thì đưa về đầu tư trong nước sẽ không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sẽ dẫn đến khó có khả năng trả nợ khi đến hạn.
Một nguồn lực tài chính mà chúng ta có thể hy vọng tương đối ổn định là nguồn kiều hối. Trong một vài năm trở lại đây nguồn kiều hối đã vào nước ta ở mức 9 – 10 tỷ USD, ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân và đầu tư kinh doanh, thì trong hai năm qua, nguồn vốn này đưa về nước còn thêm mục đích đầu tư bất động sản và đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, tình hình khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới hiện nay có thể làm cho nguồn này giảm vì tỷ lệ thất nghiệp ở các nước gia tăng, thu nhập của nhiều người sẽ giảm mạnh. Hơn nữa, thị trường chứng khoán và bất động sản ở ta cũng không còn hấp dẫn như trước đây nên khoản đầu tư vào các lĩnh vực này qua con đường kiều hối sẽ giảm mạnh.
Cùng với khó khăn của các nguồn vốn trên, thì nguồn vốn vay nước ngoài cũng sẽ bị hạn chế vì khan hiếm về vốn, chi phí vốn cao và người cho vay cũng sẽ bớt đi. Hơn nữa nếu vay để đầu tư trong giai đoạn này thì hiệu quả rất thấp nên cũng sẽ ít nhà đầu tư cố đi vay nước ngoài về để đầu tư nên khả năng đầu tư từ nguồn vốn này sẽ giảm.
Bên cạnh sự khó khăn và giảm đầu tư nước ngoài tại nước ta trong thời gian tới do khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới như đã nêu ở trên, thì chúng ta cũng thấy những cơ hội để các nguồn vốn này giảm không nhiều, đó là:
– Việt Nam đang được coi là nền kinh tế, đất nước có môi trường đầu tư ổn định nên nhiều nhà đầu tư vẫn muốn đầu tư vào nước ta. Nhiều nhà đầu tư vẫn tin vào tương lai và triển vọng phát triển của nền kinh tế nước ta và cho rằng tác động của khủng tài chính Mỹ và thế giới vào nước ta chỉ ở mức độ nhất định và sẽ khắc phục trong thời gian tới.
– Các nhà đầu tư Nhật Bản, Châu Âu đã nhắm vào khu vực Đông Nam Á và lên chiến lược trong 10 năm tới, trong đó nhấn mạnh nhất vào Việt Nam.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
Trước tình hình khủng hoảng tài chính, tíán dụng thế giới và nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, lạm phát tháng 10 đã ở mức -0,19%, tháng 11 là -0,76% so với tháng 10, nhưng vẫn đang ở trong tình trạng lạm phát cao. Do vậy, mục tiêu tổng quát về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2009 đã được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 6/11/2008 là: “Tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010”. Bên cạnh những khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới vào nước ta, phải kể đến những khó khăn nội tại nền kinh tế như: do thủ tục phiền hà, vướng mắc không được tháo gỡ nên nhiều công trình, dự án, doanh nghiệp gặp khó khăn
Chúng ta cần chuẩn bị các biện pháp tổng thể:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục chíánh sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không đưa các giải pháp sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến của thị trường như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt hạ lãi suất xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, bảo đảm các khoản nợ này ở mức an toàn. Rà soát và kiểm soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm lành mạnh hoá hệ thống này tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai, tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán. Rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân hàng. Rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án có tính rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
Thứ ba, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ nông nghiệp khắc phục hậu quả bão lụt, hỗ trợ người dân sản xuất lương thực, thực phẩm và người dân nghèo vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng cuối năm.
Thứ tư, tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực công nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm thuế cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời điểm trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.
Thứ năm, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương trình được triển khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh bất động sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản.
Thứ sáu, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm nhập khẩu của Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, nhất là trong các khâu thu mua nguyên liệu nông sản bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các vật tư quan trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ bảy, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó theo dõi việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các nước Châu Âu để có thể hỗ trợ khi cần thiết.
Thứ tám, tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của cơ sở bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời khuyến khích tiêu dùng hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà nước và công nhân ở các doanh nghiệp.
Thứ chín, tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát thường xuyên, cập nhật thông tin trong và ngoài nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình; qua đó có được phản ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.
Bitcoin Là Giải Pháp Cho Cuộc Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu
Admir Tulic, một người đam mê và là nhà đầu tư tiền điện tử đã so sánh Bitcoin với một phương án để khắc phục khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong một bài phân tích gần đây của mình, Người quản lý cộng đồng chúng tôi cho rằng tiền điện tử sẽ tiếp tục tiên phong và đánh bại những gì anh ta gọi là “hệ thống in tiền và nợ quá lớn dẫn thẳng đến sự tuyệt chủng hàng loạt “
Bitcoin và tiền điện tử sẽ là giải pháp để giải quyết các vấn đề tồn đọng của nợ công. Thật sự là rất vô lý khi một đứa trẻ mới sinh ra lại gánh trên vai mình một khoản nợ, khoản nợ ấy là do chính phủ và chính sách yếu kém gây ra. Tại sao hậu quả lại đổ lên vai những đứa trẻ mới sinh ra như vậy, đó là sự yếu kém của thế giới tập trung, nơi quyền lực được tập trung vào một số cá thể nhất định.
Lạm phát như một khoản thuế cho người nghèoSai lầm đầu tiên được thực hiện là cho các ngân hàng thông qua quyền lực và vai trò của họ để in tiền ra từ các khoản nợ để đi nuôi nền kinh tế, nếu hệ thống quản lý của chính phủ quá yếu kém, sẽ dẫn dến các ngân hàng trung ương in tiền mất kiểm soát, dòng tiền lớn được đẩy vào nền kinh tế dẫn đến SIÊU LẠM PHÁT. Nó cũng là nguyên nhân và lý do để chính phủ tăng thêm thu nhập thông qua việc tăng thuế để phục vụ cho việc trả nợ.
Một hệ quả khác của hệ thống nợ công là để duy trì trật tự kinh tế hiện tại – tạo ra nợ mới, khiến mọi người tiếp tục mắc bẫy bên trong nợ công. Trong bối cảnh này theo Admir Tulic, chỉ có một giải pháp và giải pháp đó là Bitcoin.
Bitcoin như một giải pháp cho chính sách tiền tệ do nợ điều khiểnAdmir Tulic tin rằng Bitcoin thể hiện tất cả những phẩm chất của đồng tiền ổn định cần thiết với nguồn cung tiền có hạn. Nguồn cung của nó được giới hạn ở mức 21.000.000 BTC và không thể tạo ra BTC mới bằng cơ chế nợ. Theo quan điểm của ông, từ chối tham gia vào hệ thống tài chính dựa trên fiat hiện tại không chỉ là một khả năng xảy ra trong tương lai mà còn là một điều cần thiết hoặc một nghĩa vụ phục vụ cho một tương lai mà hành tinh này muốn thoát khỏi nô lệ đối với hệ thống nợ công.
David Tawil chủ tịch của ProChain Capital nói với BTCManager :
Kết luận, Admir Tulic chỉ ra rằng nhiều ngân hàng trung ương lớn đã chốt lãi suất của họ ở mức 0% vì gánh nặng nợ đã trở nên không bền vững. Theo ông, điều này chỉ ra rằng chúng ta đã đạt đến giới hạn của hệ thống hiện tại và đã đến lúc nên hướng đến một xu thế mới dựa trên Bitcoin.
Vào tháng 10/2023 , BTCManager đã có bài viết rằng Tổng giám đốc Janus Capital là Bill Gross cũng cho rằng các nhà đầu tư cuối cùng sẽ chuyển sang Bitcoin khi các ngân hàng trung ương sa lầy trong các khoản nợ và in tiền với lãi suất chưa từng có.
Theo Tradingig/BTCManager Biên soạn lại bởi Blogtien.com
Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài Tác Động Của Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu Tới Các Doanh Nghiệp Việt Nam Và Giải Pháp Khắc Phục trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!