Xu Hướng 4/2023 # Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Ở Trường Tiểu Học # Top 11 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Ở Trường Tiểu Học # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Ở Trường Tiểu Học được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Quản lý chỉ đạo Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường tiểu học A/Đặt vấn đề I .Cơ sở lý luận . Phẩm chất đạo đức – bộ phận quan trọng trong cấu trúc nhân cách toàn diện của con người theo quan điểm Mác xít. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường luôn là vấn đề cần quan tâm. Đồng thời với việc dạy văn hoá các em có ngoan ngoãn chăm chỉ thì mới có thể học tập tốt được, bên cạnh đó việc tiếp thu tốt kiến thức các bộ môn văn hoá là nền tảng xây dựng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn trong sáng của các em. Giáo dục đạo đức cùng với công tác tư tưởng chính trị trong nhà trờng là nhiệm vụ chính trị hàng đầu góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ trung tâm- nhiệm vụ chuyên môn nhất là trong tình hình hiện nay, khi các giá trị truyền thống trong xã hội đang bị xói mòn, tệ nạn xã hội đang len lỏi, xâm nhập vào nhà trường. Cấp tiểu học – cấp học có vị trí nền móng (luật giáo dục) trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà ường tiểu học là nơi đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nhân cách toàn diện cho học sinh. Giáo dục đạo đức cho học sinh thế hệ mới – chủ nhân tơng lai của nền khoa học công nghệ hiện đại càng có vị trí quan trọng trong mục tiêu giáo dục toàn diện. Cùng với gia đình, xã hội, nhà trờng có trách nhiệm “phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng” cho học sinh. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh, không đơn thuần trên lý thuyết, truyền thụ trang bị cho các em nguồn tri thức khoa học về tự nhiên xã hội, con ngời, cách làm việc trí óc, mà còn hớng tới sự tạo dựng phát triển những phẩm chất nhân cách, giá trị nhân văn, đạo đức cho học sinh góp phần hoàn thiện nhân cách phù hợp yêu cầu định hớng xã hội. Phải hình thành cho các em có sự phát triển toàn diện nhân cách, đó là sự thống nhất biện chứng giữa đức và tài hay là sự toàn vẹn về phẩm chất và năng lực. Sự hài hoà giữa đức và tài có ý nghĩa xã hội, có giá trị xã hội con ngời. Nh Bác Hồ nói: ” Có tài mà không có đức là con ngời vô dụng Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó ” Vì vậy việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong nhà trờng là một trong những biện pháp quản lý rất quan trọng đối với ngời quản lý. II . Cơ sở thực tiễn Trong thực tế hiện nay chất lợng giáo dục đạo đức của học sinh nói chung và của học sinh tiểu học nói riêng có phần giảm sút bởi ảnh hởng của nhiều nguyên nhân: Sự cạnh tranh của cơ chế thị trờng có mặt tích cực là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, song lại là mảnh đất tốt cho t tởng cơ hội, thực dụng vụ lợi phát triển chủ nghĩa cá nhân ích kỷ coi đồng tiền là trên hết dẫn đến sự xuống cấp về đạo đức xã hội từ ngời lớn đến trẻ em, đến mọi mặt của đời sống xã hội cụ thể là: Trong gia đình: một số cha mẹ học sinh thiếu gơng mẫu, ông bà cha mẹ, chửi mắng lẫn nhau, một số gia đình còn khoán trắng bỏ mặc cho nhà trờng và xã hội, thậm chí còn nuông chiều con cái thiếu văn hoá, dẫn đến một số học sinh vô lễ với ngời trên, nhiều em không vâng lời ông bà, bố mẹ, lời lao động lời học, trộm cắp Trong giao tiếp nói năng thô lỗ, cục cằn. Ngoài xã hội: Hiện tợng tiêu cực, các hành vi đạo đức thiếu văn minh nh một số tụ điểm chiếu phim ảnh băng hình có nội dung đồi truỵ ảnh hởng lớn đến hành vi đạo đức của các em. Trong nhà trờng: học sinh tiểu học phần lớn là ngoan, biết vâng lời cô giáo, thực hiện tốt nội quy, quy định của nhà trờng đề ra. Tuy nhiên đánh giá một cách khách quan mà nói học sinh hiện nay rất nhạy cảm, rất dễ thích ứng với các hiện tợng tiêu cực ngoài xã hội: hiện tợng nói tục, các hành vi thiếu văn hoá vẫn còn. Đặc biệt học sinh không biết áp dụng kiến thức đã học vào thực tế. Chẳng hạn học sinh lớp 2 vừa đợc học bài “Giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng” nhng lại rất mất trật tự trong giờ học hoặc vất rác bừa bãi ở sân trờng. Học sinh vừa đợc học bài “Lễ phép vâng lời thày cô giáo’’ nhng lại chỉ chào hỏi thầy cô giáo dạy mình hoặc không biết cảm ơn, xin lỗi khi đợc ngời khác giúp hay làm điều gì đó không phải. Sở dĩ vẫn còn có các các hiện tợng trên tôi nghĩ nguyên nhân do: – Gia đình cha thật sự quan tâm đến đời sống tinh thần của con cái. – Do tác động mặt trái của cơ chế thị trờng vào môi trờng sống của học sinh. – Về phía giáo viên: còn coi nhẹ công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Một số thày cô giáo chỉ quan tâm đến việc truyền thụ kiến thức văn hoá, cha thực sự chú trọng đến việc giảng dạy tốt môn học đạo đức cho các em. Nếu có dạy chỉ cung cấp cho các em về mặt lý thuyết mà coi nhẹ thực hành. Trong giờ học, giáo viên chủ yếu sử dụng phơng pháp thuyết trình, giảng giải. Hình thức tổ chức dạy học đơn điệu. Học cha đi đôi với hành. Việc soạn giáo án của giáo viên cha sát với mục đích yêu cầu của bài giảng. Một số trờng cán bộ quản lý trờng học (hiệu trởng, phó hiệu trởng) cha nhận thức rõ vấn đề này, cha quán triệt một cách đúng đắn, sâu sắc nội dung cũng nh tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho các em thông qua bài giảng của môn đạo đức, thông qua việc phối kết hợp giữa: nhà trờng – gia đình – xã hội. Xuất phát từ mục đích yêu cầu và tầm quan trọng của việc giáo dục cho học sinh, trớc tình hình thực tế, là ngời quản lý tôi nghĩ mình phải có trách nhiệm tìm hiểu nguyên nhân, đề ra biện pháp từng bớc tháo gỡ những tồn tại trên. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm: “quản lý chỉ đạo nâng cao chất lợng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trờng tiểu học” B / nội dung sáng kiến kinh nghiệm : I. Những sáng kiến cụ thể áp dụng trong quá trình công tác. Việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ là một quá mối quan hệ phức tạp. Vì thế trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học cần phải linh hoạt, sáng tạo, biết kết hợp nhiều biện pháp. ở bài viết này tôi xin đợc đề cập một số biện pháp cơ bản: 1/ Phối kết hợp với các lực lợng ngoài nhà trờng nâng cao chất lợng giáo dục đạo đức cho học sinh. a) Phối kết hợp với hội cha mẹ học sinh và gia đình các em * Thành lập hội cha mẹ học sinh. Nhà trờng cần tổ chức tốt cuộc họp phụ huynh từ 3 – 4 lần/năm. Đầu mỗi năm học cần kiện toàn chi hội trởng cha mẹ học sinh các lớp đến ban chấp hành hội. Tạo điều kiện cho hội cha mẹ học sinh thực hiện tốt theo điều lệ của hội. Từng thành viên trong BCH nắm bắt kịp thời tình hình rèn luyện của học sinh qua nhà trờng (các GVCN) thông báo với các bậc cha mẹ học sinh. * Thông qua sổ liên lạc. – Chỉ đạo mỗi giáo viên sử dụng có hiệu quả tác dụng của sổ liên lạc hàng năm (4 lần) giáo viên thông báo tới các bậc cha mẹ học sinh vế tình hình học tập, rèn luyện, ý thức từng em. Ngợc lại giáo dục cũng thông qua sổ liên lạc ghi lại nhận xét tình hình của con em mình ở nhà. Qua đó ngời giáo viên có những biện pháp giáo dục phù hợp với từng học sinh. * Thông qua các buổi họp phụ huynh. – Tại các buổi họp phụ huynh. Nhà trờng thông báo tới các bậc phụ huynh nội quy, quy định về học tập, nề nếp của nhà trờng tới các bậc phụ huynh đôn đóc học sinh thực hiện. – Thông qua với gia đình về các chuẩn mực đạo đức mà học sinh phải đạt đợc ở từng lứa tuổi. Phụ huynh trao đổi với giáo viên về việc rèn luyện đạo đức của từng em. Với những học sinh có cá tính, giáo viên cần trao đổi cụ thể với gia đình nắm đợc đặc điểm tâm lý của từng em. Kết hợp với gia đình có các biện pháp cụ thể: có thể mềm dẻo nhng thật kiên quyết với những em có hành vi không đúng. – Nhà trờng tuyên truyền cho các bậc cha mẹ học sinh cần quan tâm hơn nữa đến đời sống tình cảm của học sinh. Tạo cho các em có góc học tập: Có tủ sách, có một môi trờng sống lành mạnh. Cha mẹ anh chị em có mối quan hệ thân thiết, quan tâm đến nhau từ đó có tác dụng tới việc hình thành nhân cách cho các em. b. Thông qua các đoàn thể khác ở địa phơng. Học sinh tiểu học ở lứa tuổi sinh hoạt sao, đội nhi đồng. Ngoài hoạt động ở trờng các em còn tham gia những tổ chức đoàn thể các xóm. Đoàn thể trực tiếp quản lý các em là đoàn thanh niên. Nhà trờng cần có mối liên hệ chặt chẽ với tổ chức này. Với địa bàn xã rộng có 15 thôn xóm chúng tôi đã phân công giáo viên phụ trách phối kết hợp với các đoàn thể trong xóm tổ chức các hoạt động ngoại khoá mang ý nghĩa giáo dục: sửa sang nghĩa trang liệt sĩ, giúp đỡ ngời cô đơn không nơi nơng tựa, bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ gia đình thơng binh liệt sĩ … Phối kết hợp với hội CCB mời các bác, các chú kể chuyện về các anh Bộ đội Cụ Hồ, những thiếu nhi dũng cảm, những tấm gơng anh hùng của các chiến sĩ cách mạng. Phối kết hợp với Hội Phụ nữ tổ chức các hoạt động vui chơi, thể dục thể thao, văn nghệ. với học sinh tiểu học việc hình thành và rèn luyện các hành vi, thói quen đạo đức cho học sinh đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nhân cách. Nó giúp cho các em phát triển thành những con ngời có nhân cách toàn diện. 2/ Phối kết hợp với các lực lợng trong nhà trờng a) Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên: Để làm tốt điều này ngời quản lý phải không ngừng tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ giáo viên thấy đợc trách nhiệm của mình trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Ngời giáo viên không chỉ thực hiện nội dung bài giảng mà phải rèn cho học sinh biết áp dụng kiến thức đã học vào thực tế. Học sinh tiểu học rất nghe lời và làm theo thây cô giáo. Các em coi thầy cô giáo là thần tợng và luôn đúng. Chính vì vậy mỗi giáo viên phải là tấm gơng sáng cho học sinh học tập và noi theo. Là tấm gơng trong lời nói, cách c xử, thái độ trong giao tiếp giữa giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, giáo viên với các tầng lớp nhân dân. Môĩ giáo viên cần có thái độ kiên quyết với những học sinh có biểu hiện hành vi thiếu văn hoá và cùng có trách nhiệm phối kết hợp cộng đồng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh . Thực hiện việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh theo qui định. Kế hoạch này phải đợc thông qua tập thể hội đồng s phạm trong hội nghị cán bộ công chức đầu năm. b) Nâng cao chất lợng giảng dạy môn đạo đức. * Chỉ đạo việc thực hiện nội dung chơng trình môn đạo đức. Chỉ đạo thực hiện đúng nội dung chơng trình sách giáo khoa môn đạo đức ở từng khối lớp là việc làm cần thiết của ngời cán bộ quản lý. Thông qua các bài học đạo … a phơng tạo điều kiện về cơ sở vật chất để chức cho học sinh đi thăm quan du lịch trong và ngoài tỉnh, tham gia các lễ hội truyền thống ở địa phơng. Qua đó giáo dục cho các em truyền thống về quê hơng đất nớc, lòng tự Chỉ đạo cho học sinh tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp nh tổ chức các hội thi; tiếng hát tuổi thơ, búp măng xinh, tham gia các hoạt động xã hội, nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa giáo dục cho các em về truyền thống của Đội đồng thời tạo môi trờng thuận lợi cho học sinh luyện tập, thực hành kiến thức đã học đợc trong bài giảng. * Chỉ đạo tổ chức, cải tiến phơng pháp dạy học môn đạo đức Từ năm học 2002-2003 Bộ GD-ĐT đã triển khai chơng trình giáo dục tiểu học mới trên phạm vi cả nớc. Song song với việc cải tiến nội dung chơng trình thì việc đổi mới phơng pháp, các hình thức tổ chức dạy các môn học (trong đó có môn đạo đức) đã đợc các cấp, các ngành quan tâm. Trong những năm gần đây ngành đã có nhiều đợt hội thảo, thao giảng các cấp để giáo viên cùng với các nhà chuyên môn trao đổi về nội dung chơng trình cũng nh thống nhất phơng pháp dạy. Nhng trong thực tế ở các trờng tiểu học, giáo viên vẫn còn lúng túng khi sử dụng phơng pháp vào bài giảng, các hình thức dạy học cha phong phú. Để khắc phục tồn tại trên ngời quản lý cần phải quan tâm sâu sát tới công tác chuyên môn cụ thể: – Đầu năm học xây dựng các tiết dạy mẫu ở tất cả các khối lớp cho cả trờng dạy. Qua giờ dạy mẫu này cần thống nhất đợc phơng pháp dạy học môn đạo đức để từ đó giáo viên áp dụng vào việc giảng dạy trên lớp. – Chỉ đạo cải tiến, đổi mới hình thức các buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tuần tới từng tổ. Có kế hoạch chỉ đạo sinh hoạt chuyên môn từng tuần từng tháng. Nội dung chính của các buổi chuyên môn là trao đổi rút kinh nghiệm những giờ những ý kiến về nội dung cũng nh về phơng pháp dạy từng bài để cả tổ cùng nhau bàn bạc, thống nhất cách giải quyết. – Để có tiết dạy đạt hiệu quả cao ngời quản lý cần phải chỉ đạo giáo viên cần chuẩn bị chu đáo trớc khi lên lớp: + Nghiên cứu nội dung bài giảng trớc khi lên lớp. Xác định rõ mục đích yêu cầu, kiến thức trọng tâm từng bài, từng phần. Soạn bài chi tiết cụ thể. Bài soạn có duyệt trớc với BGH vào thứ 2 hàng tuần. + Căn cứ vào nội dung bài học chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh, sách báo, trang phục và các đồ dùng phụ trợ khác để phục vụ cho các tiết học có tổ chức trò chơi.. . + Tuỳ từng nội dung bài học, đối tợng học sinh, điều kiện về cơ sở vật chất của lớp, của trờng ngời giáo viên lựa chọn và sử dụng linh hoạt các phơng pháp cũng nh các hình thức dạy học. tin về sách giáo khoa hoặc có thể su tầm những câu chuyện về những gơng tốt ngời thật, việc thật kể cho học sinh nghe để qua đó cung cấp thêm những hiểu biết Hàng năm trớc 20/11 nhà trờng phát động phong trào hội giảng cho tập thể giáo viên trong nhà trờng. Mỗi giáo viên tham dự dạy 2 tiết, trong đó có một tiết Toán hoặc Tiếng Việt và một tiết môn ít giờ. Sau các giờ hội giảng đều đợc tổ chức trao đổi rút kinh nghiệm thống phơng pháp dạy. Mỗi năm nhà trờng tổ chức hai lần hội thảo cần dành riêng quan tâm đến nội dung và phơng pháp giảng dạy môn đạo đức. Mỗi giáo viên viết một sáng kiến kinh nghiệm về các đề tài. Phân công những giáo viên có kinh nghiệm viết sáng kiến kinh nghiệm đổi mới phơng pháp giảng daỵ môn đạo đức, phối kết hợp giáo dục đạo đức học sinh giữa nhà trờng gia đình, xã hội… Sau đó tổ chức cho mỗi tổ trình bày đề tài của mình để toàn thể giáo viên trao đổi, bàn bạc rút kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn. * Bồi dỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Nhà trờng cần coi trọng công tác chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên và thực hiện một cách thờng xuyên. Thực hiện sinh hoạt chuyên môn đúng lịch, đúng kỳ (một tháng 3 lần). Nội dung sinh hoạt chuyên môn phải đợc ban giám hiệu duyệt trớc với các tổ. Điều này sẽ giúp chất lợng các buổi sinh hoạt chuyên môn không ngừng đợc nâng cao. Nội dung sinh hoạt luôn đợc cập nhật, đổi mới không ngừng: triển khai các văn bản hớng dẫn về chuyên môn, kiểm điểm công tác giảng môn nghiệp vụ Với các đợt bồi dỡng thờng xuyên theo chu kỳ của ngành mở cần đông viên giáo viên tham gia một cách đầy đủ có chất lợng. Nhà trờng cần tạo điều kiện mua sách cho giáo viên học tập, tham khảo. Bồi dỡng thêm về chế độ cho giáo viên đi học. Chính vì vậy đến nay trờng tôi đã có 100% giáo viên, cán bộ hoàn thành tốt các đợt bồi dỡng thờng xuyên theo chu kỳ đặc biệt hội thảo về thay sách, học tập chuyên môn cho việc thay sách lớp 1, 2, 3,4. – Phổ biến, chỉ đạo giáo viên đánh giá xếp loại học sinh môn đạo đức cũng nh xếp loại hạnh kiểm theo đúng các văn bản chỉ đạo hớng dẫn của Bộ Giáo dục và đào tạo. Tóm lại: trong công tác chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh, thông qua việc chỉ đạo giảng dạy môn đạo đức trong nhà trờng ngời cán bộ quản lý phải biết kết hợp nhiều biện pháp, tiến hành một cách thờng xuyên liên tục lâu dài thì mới từng bớc đạt đợc mục tiêu kế hoạch của năm học, tạo ra những chuyển biến sâu sắc về nhận thức về hành vi của học sinh. Học sinh ngoan học tập chăm chỉ có nề nếp góp phần nâng cao chất lợng giáo dục toàn diện. II. kết quả cụ thể về chất lợng giáo dục đạo đức Năm học Sốhọc sinh Đánh giá mới (Thực hiện đầy đủ 4 nhiệm vụ ) Tốt Khá tốt Cần cố gắng 2003- 2004 736 100% 82,5% 17,5% 0% 2004- 686 100% 88% 12% 0% 2005 2005- 2006 635 100% 91,5% 8,5% 0% 2006- 2007 (Học kỳ I) 578 100% Qua bảng kết quả cho thấy tỷ lệ học sinh có hạnh kiểm tốt tăng nhanh, số học sinh có hạnh kiểm khá tốt giảm, số học sinh có hạnh kiểm cần cố gắng không có. Học sinh ngoan ngoãn kính thầy yêu bạn, vâng lời ông bà cha mẹ thầy cô giáo, các nề nếp học tập học sinh thực hiện tốt, từ đó hoạt động ngoài giờ lên lớp ngày một tốt hơn, chất lợng giáo dục toàn diện ngày một nâng cao. Các chỉ số thi đua của nhà trờng luôn đạt thứ hạng cao trong những năm vừa qua. Tuy nhiên việc thực hiện là một quá trình và phải thực hiện có nề nếp thờng xuyên liên tục. c/ kết luận Để đáp ứng đợc mục tiêu của giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nớc đó là : “Đào tạo nguồn nhân lực, bồi dỡng nhân tài cho xã hội “. Do vậy công tác giáo dục đạo đức trong nhà trờng tiểu học là một yêu cầu hết sức cấp bách và cần thiết. Việc giáo dục đạo đức tốt sẽ góp phần tạo ra những con ngời có nhân cách phẩm chất đạo đức tốt và góp phần nâng cao chất lợng giáo dục các môn văn hoá. Bởi vậy ngời cán bộ quản lý phải có nhận thức đúng đắn về vị trí vai trò, nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức. Trên cơ sở đó phối kết hợp với các lực lợng trong và ngoài nhà trờng cùng tham gia vào công tác giáo dục theo mục tiêu của Đảng và nhà nớc . Công tác giáo dục đạo đức thông qua việc giảng dạy bộ môn đạo đức trong nhà trờng tiểu học có vị trí hết sức quan trọng bởi thông qua bài học hình thành cho các em những phẩm chất tốt đẹp. Từ đó tạo cho các em có bản lĩnh đạo đức để ứng xử đúng trong các mối quan hệ trong và ngoài nhà trờng. Ngời quản lý phải hiểu rõ và phải xác định cho mình một trách nhiệm lớn lao nặng nề và phải biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt các biện pháp quản lý. Thực tế cho thấy nếu hiểu biết đề ra các biện pháp thiết thực khả thi góp phần nâng cao đợc chất lợng giáo dục đạo đức nói riêng, giáo dục nhân cách toàn diện nói chung. 1. Một số bài học kinh nghiệm – Ngay từ đầu năm học ngời quản lý phải có kế hoạch chỉ đạo cụ thể phù hợp. Ngời quản lý phải nắm chắc chơng trình giảng dạy, phơng pháp giảng dạy, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ có năng lực thực sự, nhiệt tình chăm lo đến các hoạt động của nhà trờng. – Quản lý chỉ đạo thực hiện đúng chơng trình giảng dạy, tổ chức hội thảo, hội giảng, hội học để thống nhất về nội dung phơng pháp dạy học. Tăng cờng dự giờ thăm lớp, giúp đỡ giáo viên yếu kém về chuyên môn. – Quan tâm đúng mức tới giáo viên có tâm huyết với nghề nghiệp. – Xây dựng tốt mối quan hệ với địa phơng, với hội cha mẹ học sinh, huy động toàn cộng đồng và gia đình cùng tham gia vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. 2. Những vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh những kết quả đã đạt đợc vẫn còn một số tồn tại: Do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, kinh phí hạn hẹp nên ở một số giờ dạy đạo đức giáo viên ít có điều kiện tổ chức các trò chơi học tập, nhà trờng không thờngxuyên cho các em tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khoá. Việc giảng day môn đạo đức trong nhà trờng nhiều năm nay đợc thực hiện một cách nghiêm túc, nhng vẫn còn một số giáo viên nhận thức cha đầy đủ nên còn coi nhẹ phân môn này mà chỉ tập trung vào 2 môn Toán, Tiếng Việt. Có những giáo viên soạn bài còn sơ sài chiếu lệ, nắm phơng pháp giảng dạy bộ môn còn lơ mơ, lộn xộn, phơng pháp sử dụng còn cứng nhắc, không linh hoạt hiệu quả giảng dạy còn cha cao. Còn một số giáo viên cha thực sự chú trọng đến việc rèn kỹ năng cho học sinh, kiến thức của từng bài học ít đợc các em áp dụng vào thực tế cuộc sống, học cha đi đôi với hành. Cụ thể: Vẫn còn hiện tợng học sinh nói tục chửi bậy, nói bậy trong trờng học, các hành vi đẹp lời nói hay cha phổ biến . 3. Đề xuất kiến nghị Qua quá trình nghiên cứu, áp dụng một số biện pháp trên vào việc chỉ đạo, nâng cao chất lợng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trờng tiểu học, tôi có một số đề xuất kiến nghị sau: – Đề nghị các cấp lãnh đạo tăng cờng cho nhà trờng cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tăng cờng đầu sách, truyện đọc cho học sinh. – Tăng cờng đầu t ngân sách tạo điều kiện cho nhà trờng tổ chức các buổi tham quan cho giáo viên, học sinh để tăng cờng hiểu biết về truyền thống địa phơng, lịch sử văn hoá, thêm yêu quê hơng đất nớc. – Ngành giáo dục thờng xuyên mở các đợt hội thảo , tổ chức hội giảng phân môn đạo đức để giáo viên nhuần nhuyễn về phơng pháp nói chung và phơng pháp giảng dạy môn đạo đức nói riêng .

Những Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Ở Trường Thcs Quang Minh

Giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường là nhiệm vụ hết sức quan trọng, là một trong bốn nội dung cơ bản của giáo dục toàn diện : đức – trí – thể – mỹ; một nội dung không thể thiếu để hình thành nhân cách học sinh.

Song song với đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, ngành giáo dục cũng đã có nhiều đổi mới về công tác giáo dục đạo đức học sinh: có chương trình, nội dung, thời lượng cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh đòi hỏi các nhà trường phải thực hiện đồng bộ các hoạt động: giảng dạy môn giáo dục công dân; tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp; nội dung giáo dục đạo đức được tích hợp vào mỗi tiết dạy, môn dạy; tạo cảnh quan trường học.

Không chỉ thực hiện đồng bộ các hoạt động, trong giáo dục đạo đức học sinh đòi hỏi phải có phương pháp, hình thức giáo dục thích hợp, phải được đặt trong môi trường giáo dục thân thiện để nhân cách học sinh được hình thành một cách chủ động, tự nguyện, như một nhu cầu của học sinh.

Là cán bộ quản lý, trên cơ sở nhận thức sâu sắc nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường, trong năm qua tôi đã nghiên cứu và cùng cán bộ giáo viên nhà trường áp dụng trong giáo dục đạo đức học sinh. Nay tôi trình bày sáng kiến: Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục đức dục cho học sinh ở trường THCS Quang Minh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Trên cơ sở các nội dung giáo dục của ngành , các tài liệu về lý luận giáo dục, qua tham quan – học hỏi các trường bạn, gắn với đặc điểm của trường mình để tìm ra các biện pháp, hình thức giáo dục đạo đức học sinh của trường đạt hiệu quả nhất.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh trường THCS Quang Minh.

Phạm vi nghiên cứu: Trường THCS Quang Minh.

Phải tiến hành nghiên cứu nghiêm túc, phải dựa vào nội dung giáo dục của ngành, dựa vào các tài liệu về lý luận giáo dục, kiểm chứng qua thực tế.

Nội dung phải nêu được những giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức ở trường.

5. Phương pháp nghiên cứu.

Tôi dùng các phương pháp sau:

– Nghiên cứu tài liệu

– Kiểm chứng qua thực tế.

– Tham quan thực tế của trường bạn.

– So sánh, phân tích các số liệu.

– Khái quát tổng hợp rút ra kết luận.

Đề tài gồm 3 chương:

– Chương II. Thực trạng của đề tài.

– Chương III. Những biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS Quang Minh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Đề tài gồm 3 chương:

Các hệ thống văn bản về giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS:

– Hệ thống chương trình giáo dục cấp THCS.

– Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học 2015 – 2016 của Bộ, Sở, Phòng GD – ĐT.

– Các tài liệu về giáo dục đạo đức học sinh cấp THCS.

– Các tài liệu về lý luận giáo dục.

– Giáo dục đạo đức học sinh là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu trong các nhà trường, là nội dung quan trọng trong giáo dục toàn diện.

– Để đạt kết quả về đạo đức học sinh phải thực hiện đồng bộ các hoạt động; phải có phương pháp, hình thức giáo dục phù hợp để các em hình thành nhân cách một cách chủ động, tự nguyện như một nhu cầu.

1. Phạm vi nghiên cứu: Trường THCS Quang Minh

Đề tài đựoc nghiên cứu nghiêm túc, đúng các bước, chuẩn bị chu đáo, sử dụng nhiều phương pháp, có kiểm chứng thực tế, sau nghiên cứu rút ra được những kinh nghiệm giáo dục đạo đức học sinh và được áp dụng trong trường có hiệu quả tốt.

CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.

1. Cơ sở đề xuất các biện pháp

– Giờ dạy GDCD có vai trò quan trọng, nội dung của môn học trang bị cho các em về nội dung, cách rèn luyện đạo đức phù hợp với từng lứa tuổi.

– Hoạt động ngoài giờ lên lớp cũng có vai trò hết sức quan trọng, giúp các em làm quen với các hình thức sinh hoạt tập thể, là giờ thực hành để các em hình thành, phát huy tính độc lập, tự chủ, tinh thần hợp tác, khả năng giao tiếp, giải quyết tình huống…

– Tích hợp các nội dung giáo dục đạo đức vào mỗi tiết dạy, mỗi môn học giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn.

– Hoạt động đội là môi trường để các em hoạt động, sinh hoạt tập thể, tự xây dwngju và thực hiện kế hoạch, hình thành tính tự quản, ý thức tổ chức kỉ luật.

– Xây dựng trường học thân thiện có vị trí hết sức quan trọng trong giáo dục đạo đức học sinh: được sống trong môi trường đoàn kết, thân ái, được tôn trọng, bảo vệ cách học sinh được hình thành, nảy nở, phát triển đúng hướng, bền vững; mỗi việc làm thân ái của thầy cô, của bạn bè là bài học giáo dục đạo đức thiết thực nhất của các em.

Để làm tốt công tác giáo dục đức dục cho học sinh , nhà trường cần làm tốt những nội dung sau:

Giải pháp 1: Thực hiện tốt các giờ dạy GDCD

Các giờ dạy giáo dục công dân trang bị cho các em những kiến thức về phẩm chất đạo đức, những biểu hiện lợi ích của phẩm chất đạo đức và làm thế nào để có phẩm chất đạo đức tốt. Do vậy cần dạy đủ, có chất lượng các tiết GDCD; giáo viên phải chuẩn bị bài chu đáo, nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy để học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo; chú ý liên hệ với thực tiễn để học sinh vận dụng.

Giải pháp 2: Thực hiện hiệu quả các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Trên cơ sở nội dung, chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp của Bộ quy định, nhà trường cần cụ thể hóa nội dung hoạt động ngoài giờ lên lớp ở từng tháng, từng tuần với từng khối lớp vừa đảm bảo nội dung chương trình theo quy định, vừa phù hợp với đặc điểm của trường.

Ngoài phần bắt buộc giáo dục theo các chủ điểm, trường cần lồng ghép phần tự chọn với nội dung thiết thực.

Thực hiện nề nếp tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, tiết chào cờ đầu tuần.

Thường xuyên tổ chức các loại hình hoạt động: hoạt động chính trị – xã hội, hoạt động văn hóa nghệ thuật, hoạt động thể dục thể thao, hoạt động lao động công ích, hoạt động vui chơi giải trí…

Các hoạt động ngoài giờ lên lớp phải đề cao tính chủ động, sáng tạo của học sinh, các em tự xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện, qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp hình thành và phát huy khả năng tổ chức, giải quyết vấn đề, tinh thần đoàn kết, hợp tác trong học sinh.

Giải pháp 3: Chú trọng và nâng cao chất lượng hoạt động đội thiếu niên

Hoạt động đội có vai trò quan trọng trong giáo dục đức dục học sinh, đội thiếu niên vừa là nơi để các em tổ chức hoạt động, vừa là nơi gián tiếp quản lý các em.

Trên cơ sở chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoài thực hiện chu đáo các tiết chào cờ đầu tuần, đội cần có nhiều hoạt động để đội viên tham gia, nội dung hoạt động cần phải phong phú, hấp dẫn; các hoạt động phải có quy chế để hoạt động của các em có nề nếp và đúng hướng; các hoạt động phải đề cao tính độc lập, chủ động, sáng tạo, tự quản của học sinh.

Xây dựng đội sao đỏ, đội thanh thiếu niên tình nguyện hoạt động có nề nếp và tính tự quản cao.

Giải pháp 4: Tích hợp các nội dung giáo dục đạo đức vào mỗi tiết dạy, mỗi môn học

Thực hiện đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy với mục tiêu học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo; biết làm gì sau khi học, biết vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống trong cuộc sống đòi hỏi trong mỗi tiết dạy, mỗi môn học tùy theo từng tiết dạy, đặc thù bộ môn cần tích hợp các nội dung giáo dục đạo đức: tinh thần đoàn kết, hợp tác, lòng yêu quê hương đất nước – con người, tính nhân ái, lòng bao dung, ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường, ý thức tổ chức kỉ luật…

Ngoài tích hợp các nội dung giáo dục đạo đức mỗi tiết dạy, mỗi môn học cần tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh: kĩ năng xây dựng kế hoạch, kĩ năng tổ chức, kĩ năng tư duy loogic, phán đoán, suy luận, giải quyết vấn đề, kĩ năng kiềm chế, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, tự bảo vệ ATGT, đuối nước, xử lý tình huống khi gặp nguy hiểm.

Giải pháp 5: Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực

Môi trường thân thiện là yếu tố rất quan trọng tỏng giáo dục đạo đức học sinh. Tấm gương của mỗi thầy, cô giáo; tình đoàn kết, thân ái của bạn bè là con đường tốt nhất trong hình thành nhân cách học sinh.

Môi trường thân thiện không chỉ giúp các em học tập, noi theo mà còn giúp các em phát huy năng lực, bày tỏ chính kiến, nguyện vọng của mình. Chỉ có trường hcoj thân thiện mà các thầy cô giáo, các bạn học sinh mới chăm lo, giúp đỡ các em tận tụy, hiệu quả nhất.

Để xây dựng trường học thân thiện, nhà trường phải làm tốt công tác quản lý đội ngũ, có quy chế làm việc, quy tắc ứng xử cho cán bộ giáo viên nhân viên, cán bộ giáo viên nhân viên nhà trường có trách nhiệm trong công việc, tận tụy với học sinh, giữa thầy và trò có mối quan hệ cởi mở; các em học sinh được tôn trọng, được bày tỏ nguyện vọng, chính kiến của mình, được chủ động tham gia công việc của trường, của lớp, các hoạt động của trường đều nhắm tới mục tiêu hình thành nhân cách học sinh.

Giải pháp 6: Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cùng chăm lo giáo dục học sinh.

Để giáo dục đạo đức học sinh cần huy động các lực lượng, chăm lo giáo dục các em ở mọi nơi, mọi lúc.

Để kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình và xã hội trong giáo dục học sinh cần làm tốt các nội dung sau:

Thông qua các kì họp ban phụ huynh học sinh, phụ huynh các lớp, qua các bài viết tuyên truyền,…trang bị tới phụ huynh học sinh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục để các phụ huynh, gia đình, xã hội cùng tham gia giáo dục có hiệu quả.

Bằng nhiều hình thức: đến thăm hỏi gia đình học sinh, mời phụ huynh đến trao đổi, sử dụng sổ liên lạc, qua các kì họp phụ huynh của các lớp đảm bảo mối liên hệ thường xuyên giữa giáo viên chủ nhiệm với từng phụ huynh về kết quả học tập, rèn luyện của học sinh.

Nhà trường, mỗi gia đình, xã hội phải là môi trường an toàn, thân thiện để các em noi theo, học tập.

Bằng những biện pháp trên, năm học 2015 – 2016 công tác giáo dục đức dục của trường THCS Quang Minh có chuyển biến rõ rệt, đạo đức học sinh đã đạt được kết quả tốt: các em thực hiện tốt nội quy của trường, có động cơ học tập tốt, chăm chỉ trong học tập, ý thức lao động vệ sinh tốt, có ý thức bảo vệ của công và cảnh quan của trường; lời nói , cử chỉ văn minh. Các em sống đoàn kết, thân ái, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, nhân đạo. Đặc biệt năng lực tự quản, năng lực giao tiếp và tính tự giác cao hơn. Kết quả đạo đức học sinh của trường năm học 2015 – 2016 loại khá và tốt là 294/295 = 99,6%, không có học sinh đạo đức yếu , kém, mắc tệ nạn xã hội.

Để làm tốt công tác giáo dục đạo đức học sinh, các nhà trường phải nhận thức sâu sắc và luôn đặt giáo dục đạo đức lên hàng đầu.

Phải thực hiện đồng bộ các biện pháp: thực hiện tốt giờ dạy công dân, thực hiện hiệu quả các hoạt động ngoài giờ lên lớp, nâng cao chất lượng hoạt động đội, chú ý tích hợp nội dung giáo dục đạo đức, giao dục kĩ năng sống ở mỗi tiết dạy, mỗi môn học; tích cực thực hiện phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường và xã hội cùng chăm lo giáo dục học sinh.

Trên đây là những kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức ở trường THCS Quang Minh mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng, rất mong được sự góp ý, sự bổ sung của các cơ quan, đoàn thể và đồng nghiệp.

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Chủ Nhiệm Lớp, Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Ở Trường Trung Học Cơ Sở

Giáo viên trường THCS Quang Trung, quận Ngô Quyền. I. Nội dung giải pháp:

Trường học là nơi đào tạo nhiều thế hệ học trò, là môi trường tạo dựng cho đất nước những con người xã hội chủ nghĩa – có đủ tài năng trí tuệ và những phẩm chất đạo đức cách mạng, để sau này thực sự là người của dân, vì nhân dân mà cống hiến. Người trực tiếp đào tạo những con người như thế không ai khác là giáo viên, giáo viên giảng dạy bộ môn, giáo viên chủ nhiệm lớp. Việc đưa lớp tiến lên là trách nhiệm lớn của những ai làm công tác chủ nhiệm, đồng thời cũng là khẳng định mình về năng lực và lương tâm nhà giáo.

Trong thực tế, chủ nhiệm lớp là công tác vô cùng khó khăn, phức tạp, vui có, buồn có, thành công cũng có, thất bại cũng không phải là hiếm. Bởi lẽ, mỗi một tập thể lớp đều có những đặc thù riêng. Có lớp như thế này, có lớp như thế khác: nào là học sinh cá biệt về học tập, về đạo đức, nào là học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế, con mồ côi, bố mẹ li thân, bố mẹ đi làm ăn xa…

Thực tiễn là như vậy, cho nên giáo viên chủ nhiệm phải có phương pháp chủ nhiệm như thế nào để có hiệu quả cao nhất. Công tác chủ nhiệm của một giáo viên thành công đồng nghĩa với việc giúp các em hoàn thiện mình hơn, xây dựng được tập thể lớp vững mạnh, đưa nhà trường ngày càng tiến lên.

Chính vì vậy, qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm nhằm làm tốt công tác của một người giáo viên chủ nhiệm lớp, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chủ nhiệm lớp và làm cho lớp chủ nhiệm có những thành tích đáng tự hào. Vì vậy, trong khuôn khổ sáng kiến này, tôi trao đổi cùng quý đồng nghiệp một kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm đó là “GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP, GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ”.

II. Thực trạng của vấn đề:

Chúng ta ai cũng biết, lứa tuổi học sinh THCS đã có sự thay đổi rất lớn về đặc điểm tâm sinh lý hết sức điển hình. Những đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh THCS còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, không thể phủ nhận vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS, không thể không cần có một người thường xuyên hướng dẫn giúp đỡ, chỉ bảo cho các em.

Công tác chủ nhiệm lớp là công tác tổ chức quản lí một lớp học sao cho khi thầy cô có hoặc không có ở lớp thì mọi hoạt động vẫn được duy trì ổn định, có tính tự giác cao và mọi việc vẫn hoàn thành tốt. Sự phát triển về nhận thức, nhân cách của người giáo viên chủ nhiệm, khả năng tiếp thu của học sinh chỉ thực sự hiệu quả khi đó là một tập thể lớp vững mạnh và lớp học phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi trò.

Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách của học sinh trong lớp phát triển một cách toàn diện. Bởi lẽ họ là người trực tiếp đảm đương vai trò quản lí học sinh trong một lớp, trực tiếp tổ chức cho học sinh thực thi mọi yêu cầu giáo dục của nhà trường đưa ra. Giáo viên chủ nhiệm phải là người gần gũi học sinh nhất, hiểu tâm tư tình cảm của các em, luôn trực tiếp uốn nắn những hành vi sai trái của học sinh và giúp học sinh phát triển đúng hướng.

Để làm tốt điều này, giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện tốt những nhiệm vụ của mình, phải nắm được đường lối quan điểm lí luận giáo dục, đồng thời giáo dục những phẩm chất đạo đức để giúp học sinh trở thành những công dân tốt mai sau. Không những thế, người giáo viên chủ nhiệm phải tham gia các hoạt động chính trị xã hội tốt hơn, phải rèn luyện ở mức cao hơn. Đó là trách nhiệm nghĩa vụ và cũng là vinh dự vì học sinh. Năm học 2015 – 2016 tôi được BGH trường THCS Quang Trung phân công làm công tác chủ nhiệm lớp 8B3. Saukhoảng hai tuần tìm hiểu về lớp, nắm được thực trạng của lớp, tôi bắt đầu vận dụng những kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm đối với lớp để xây dựng một tập thể đoàn kết, vững mạnh, luôn cố gắng vươn lên trong học tập..

Trong quá trình áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy thực trạng gặp được những thuận lợi và còn phải đối mặt với những khó khăn sau:

a.Thuận lợi:

Đối với trường Quang Trung, lãnh đạo nhà trường luôn chú trọng, quan tâm đến việc giáo dục đạo đức học sinh. Đồng thời, lãnh đạo nhà trường luôn thường xuyên quan tâm đến công tác chủ nhiệm cũng như năng lực chủ nhiệm của giáo viên làm công tác chủ nhiệm để có những chiến lược mới nhằm xây dựng những tập thể lớp chất lượng theo tiêu chí “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

Các bộ phận trong nhà trường luôn quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp, luôn có tinh thần tự nguyện hợp tác với các giáo viên làm công tác chủ nhiệm để việc giáo dục đạo đức và kết quả học tập của học sinh đạt kết quả tốt nhất.

Gia đình học sinh phần lớn đã có sự quan tâm đến việc học tập và rèn luyện ở trường, nên sự phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh có nhiều thuận lợi. Bản thân các em đều có nhận thức khá, tương đối ngoan, có ý thức trong học tập và rèn luyện, luôn cố gắng vươn lên học tốt…

b.Khó khăn:

Tập thể lớp 8B3 với sĩ số là 36 học sinh, trong đó đa số học sinh là con em gia đình làm công nhân, một số em hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, có em bố mẹ đi làm xa, ở với ông bà, thiếu sự quan tâm thường xuyên của bố mẹ; còn một số phụ huynh chưa thật sự để tâm đến việc học và giáo dục con cái, phó mặc cho nhà trường. Điều này cũng là một yếu tố khó khăn đối với giáo viên chủ nhiệm.

Trường THCS Quang Trung nằm trên địa bàn trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của quận Ngô Quyền, bên cạnh những mặt tích cực thì còn rất nhiều tác động mặt trái đến các em như các quán internet, nhiều trò chơi lôi cuốn các em…Địa bàn rộng cũng là một khó khăn trong quản lí học sinh, nhất là sau giờ tan trường.

Bên cạnh đó, một số học sinh còn có tính ham chơi,chưa xác định rõ nhiệm vụ học tập nên dẫn đến việc tạo điều kiện cho giáo viên chủ nhiệm hoàn thành kế hoạch đề ra còn chậm, chưa như mong muốn.

III. Tính cấp bách của vấn đề:

Có nhiều nguyên nhân và yếu tố tác động đến kết quả của công tác chủ nhiệm, có nguyên nhân là chủ quan như điều kiện kinh tế của gia đình học sinh; độ tuổi của học sinh; địa bàn sinh sống của học sinh. Cũng có những nguyên nhân là khách quan như: nhận thức của gia đình học sinh đối với việc học của con cái; tính cách ham chơi và nhận thức chậm của các đối tượng học sinh, địa bàn sinh sống của học sinh luôn tiềm ẩn nhiều trò chơi, lôi kéo, cám dỗ các em (xung quanh khu vực trường học có rất nhiều hàng quán và các quán internet)…tất cả là những yếu tố có tác động lớn đến công tác chủ nhiệm của những giáo viên chủ nhiệm lớp.

Tuy nhiên, đó chỉ là những nguyên nhân từ phía học sinh, còn để làm tốt công tác chủ nhiệm thì chính người giáo viên làm công tác chủ nhiệm ấy mới thật sự là yếu tố có tính tác động quyết định nhất đến sự thành công hay thất bại của công tác chủ nhiệm lớp. Vì thế, người làm công tác chủ nhiệm phải là những người luôn nhiệt huyết, năng động, chuyên cần và luôn có những thay đổi trong quá trình chủ nhiệm để có thể đạt được những kết quả tốt, hoàn thành xuất sắc công tác chủ nhiệm lớp.

Ngày đầu tiên tôi nhận lớp và sau một tiết làm quen tôi nắm được sĩ số trong lớp là 36 em, trong đó nam 19 em, nữ 17 em, trong đó có 2 em vừa chuyển đến từ trường khác, lớp khác. Ấn tượng không phai mờ là các em nhìn tôi rất chăm chú lắng nghe bao điều tôi dặn dò với lớp.Vì thế, tôi tự hứa với lòng mình cố gắng thực hiện thật tốt công tác chủ nhiệm lớp để tác động tích cực đến nhận thức, suy nghĩ và tình cảm của các em để tập thể 8B3 trở thành một tập thể lớp Xuất sắc.

IV. Những giải pháp tác giả đề xuất:

Những giải pháp, việc làm cụ thể mà tôi đã và đang áp dụng để làm tốt công tác chủ nhiệm một lớp:

+ Công việc đầu tiên khi mới nhận lớp chủ nhiệm:

Giáo viên phải nắm bắt được tình hình của lớp: Sĩ số, nam, nữ, đối tượng học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm năm học trước, giáo viên giảng dạy, giáo viên tổng phụ trách Đội…

Ổn định tổ chức lớp càng sớm càng tốt để lớp đi vào nền nếp cũng như học tập bằng việc GVCN cùng học sinh xây dựng nội quy chung của lớp.

Việc bầu Ban cán sự lớp hết sức cẩn trọng, nhất là bầu lớp trưởng. Lớp trưởng là học sinh nam hay nữ cũng được, miễn là em đó có bản lĩnh, năng lực. Thường là các em nam hay tự ái khi lớp trưởng là nữ. Trường hợp này, giáo viên chủ nhiệm phải hết sức khéo léo tạo nên việc sớm hòa đồng giữa các em bằng mọi cách, khẳng định khả năng của lớp trưởng.

Việc tiếp đến là sắp xếp chỗ ngồi của các em. Chỗ ngồi có tác động tâm lý rất lớn đến các em. Nên đổi chỗ định kì khoảng 1 tháng một lần để các em đều được ngồi ở những vị trí phù hợp, đảm bảo phát triển cân đối về mắt và tư thế ngồi học.

Không nên để các em học sinh yếu, hay nói chuyện ngồi bên nhau. Những em này cũng không nên cho ngồi bên cửa sổ, cố gắng sắp xếp các em học yếu, hay nói chuyện ngồi cùng với các bạn học tốt, có đạo đức tốt để bạn giúp đỡ.

Xây dựng được những “Đôi bạn cùng tiến” trong học tập, nề nếp ở trường cũng như ở nhà.

+ Xây dựng Ban cán sự lớp:

Ban cán sự lớp là một yếu tố rất quan trọng đảm bảo duy trì tốt mọi hoạt động của lớp vì vậy GVCN phải lựa chọn, phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, hợp lý cho mỗi em. GVCN phải kiểm tra thường xuyên, động viên, rút kinh nghiệm, đưa ra một số giải pháp để ban cán sự lớp hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ví dụ : Mỗi em trong ban cán sự đều có sổ sách ghi chép công tác mình làm và hiểu được nội dung của công việc mình phụ trách. Cuối tuần dến tiết sinh hoạt lớp, các em tự giác xếp thi đua theo tổ, số liệu từng mảng công tác để trình bày trước lớp và cô chủ nhiệm. Tiết sinh hoạt lớp, GVCN như người dự giờ buổi sinh hoạt của các em, nghe các em báo cáo, chờ ý kiến chỉ đạo và triển khai công tác mới của cô “cố vấn”.

Gắn các em vào các phong trào (nhất là giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động ngoài giờ lên lớp) để các em cảm thấy tự tin hơn, cảm thấy được thầy cô và bạn bè tín nhiệm nên sẽ cố gắng làm việc cho thật tốt.

Về quyền lợi: GVCN luôn động viên các em cán bộ lớp qua việc tuyên dương khen thưởng (nếu có) mỗi đợt thi đua để cổ vũ tinh thần các em.

Một điều cần quan tâm là GVCN phải linh động từng nội dung công tác, phải kết hợp thật hài hòa việc thực hiện, giảm biết thời gian không đáng có để các em tập trung vào việc học là chính.

+ Xây dựng tổ chức lớp tự quản và tiến bộ:

GVCN phải tạo trước cho các em ý thức tự giác và việc quản lý theo dõi hoạt động của đội ngũ cán bộ lớp phải được thực hiện thường xuyên. Muốn vậy, ngay từ đầu năm học GVCN cho tiến hành việc theo dõi thi đua của các tổ. Các tổ trưởng và tổ phó tự quản lý thành viên của tổ mình, phân công theo dõi trực chéo nhau giữa các tổ dưới sự giám sát của cán bộ lớp tương ứng với nội dung từng hoạt động. Ví dụ:

Truy bài 15 phút đầu buổi, các tổ trưởng sẽ kiểm tra việc chuẩn bị bài các bộ môn trong buổi hôm đó của các bạn trong tổ như thế nào. Cán sự các môn và lớp phó học tập sẽ kiểm tra việc chuẩn bị của các tổ trưởng.

Tiết trống hoặc không có giáo viên, lớp sẽ ôn bài hoặc hoạt động tập thể (đọc báo đội, tự ôn bài…) dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng.

Những sai phạm của các tổ, thành viên trong lớp được ghi tên và nêu ra trong tiết sinh hoạt cuối tuần.

Tiết sinh hoạt lớp là tiết quan trọng nhất trong một tuần thời lượng chỉ có 45 phút mà công việc lớp trong tuần có rất nhiều thì cần giải quyết hết. Vì vậy, GVCN phải tập cho lớp việc đánh giá, xếp thi đua trước. Mỗi bộ phận có sẵn bản tổng hợp báo cáo. Đến tiết sinh hoạt các em tự thông báo kết quả thi đua, các nội dung được thực hiện trong một tuần (những việc đã làm được và không làm được với lý do cụ thể), tình hình lớp trong tuần, số bạn vi phạm học tập (không chuẩn bị bài, không thuộc bài…), vi phạm việc rèn luyện đạo đức tác phong (không đồng phục, mất đoàn kết, mất trật tự…), vi phạm về công tác văn thể, lao động, tự quản.

GVCN theo dõi, ghi sổ từng nội dung sinh hoạt trong tuần thông qua báo cáo của từng bộ phận. Lần lượt giải quyết từng nhóm vụ việc, tìm lý do sai phạm, đưa ra biện pháp xử lý. GVCN nhận xét kết quả thi đua tuyên dương tổ, cá nhân tốt. Triển khai nội dung tuần tiếp theo và nhắc nhở các em thực hiện tốt các nội dung của lớp trong tuần tiếp theo.

Trong bất cứ phong trào nào động viên khen thưởng luôn là yếu tố không thể thiếu. Tùy theo tình hình, đặc thù của lớp mà GVCN nên áp dụng những nội dung biểu điểm thi đua thích hợp.

Một tập thể đoàn kết tham gia tốt các phong trào không phải tự dưng mà có. Phải là kết quả của quá trình đầu tư làm công tác tư tưởng, vô hiệu hóa các phần tử học sinh cá biệt thường gây rối phá vỡ tính đoàn kết trong tập thể. Thường thường sự chia rẽ nội bộ hay xảy ra ở các bạn khác thôn, xóm hoạc giữa các nhóm khác nhau về sở thích, sức học…Điều này GVCN nên nắm bắt để có biện pháp dàn xếp, xử lý.

Ví dụ: Em Hải Phong hay trêu chọc các bạn nữ trong và ngoài lớp, thường nói chuyện trong giờ học, thường xuyên không học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp…Bằng động thái của mình, GVCN gặp riêng nhắc nhở mời phụ huynh đến trao đổi gửi kết quả học tập về gia đình ở tháng 10 thì đến tháng 11 em được khen về tiến bộ trong rèn luyện đạo đức tác phong, đôi lúc có phát biểu xây dựng bài. GVCN lấy gương của hai em này để tiếp tục giáo dục một số thành phần khác. Do vậy đến cuối năm các em đều có những tiến bộ được các giáo viên bộ môn và các bạn trong lớp thừa nhận.

Không dừng ở đó, vai trò động viên của GVCN góp phần rất to lớn vào kết quả phong trào thi đua của lớp. Phải khích lệ nêu gương điển hình,so sánh… đúng lúc, kịp thời thì sẽ có tác dụng tích cực.

+ Tiếp xúc với học sinh của lớp chủ nhiệm:

Giáo viên chủ nhiệm có tiếp xúc thường xuyên với học sinh mới biết được các em biết gì, cần gì, các em là người như thế nào. Có tiếp xúc với các em mới kéo ngắn được khoảng cách giữa thầy và trò, các em không còn e ngại, rụt rè, chắc chắn sẽ tự tin hơn và mạnh dạn bộc bạch những việc cuả lớp, những thiếu sót của bản thân…

Khi tiếp xúc với học sinh, với vai trò là giáo viên chủ nhiệm, có những việc nên làm và những việc không nên làm:

Phải thật khéo léo hỏi thăm về gia cảnh để biết được đó có phải là điều kiện khó khăn, hoặc thuận lợi ảnh hưởng đến học tập, đạo đức của các em. Đối với học sinh có gia đình quan tâm, giáo viên nên phát huy thế mạnh này. Vì thường học sinh được giáo dục tốt, được chăm lo việc học tập nên thường chăm ngoan hơn, chính những em như thế này là nhân tố tích cực của lớp. Ngược lại, học sinh gặp phải những khó khăn về gia đình như: kinh tế, cha mẹ là người say sưa, lười lao động… do đó giáo viên và tập thể lớp luôn cần có sự quan tâm giúp đỡ. Đối tượng này thường tự ti, mặc cảm nên cần phải khéo léo tế nhị trong cách đối xử cũng như giúp đỡ các em.

Những buổi lao động, xây dựng trường, sinh hoạt đội, cắm trại, thi làm báo tường… rất dễ dàng tạo điều kiện để thầy và trò gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn. Giáo viên hướng dẫn cặn kẽ công việc để các em tự tin phát huy khả năng của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao làm các em tránh được những sai sót thay vì nhăn nhó, bất lành, giáo viên nên nhẹ nhàng nhắc nhở, hướng dẫn lại. Có làm như vậy, giáo viên mới giúp các em rút ra được kinh nghiệm, tự tin hơn. Đặc biệt trong lao động ngoài việc hướng dẫn, phân công công việc nặng nhọc, khó khăn. Giáo viên, cùng lao động với các em vừa tạo nên không khí sôi nổi trong buổi lao động, vừa giáo dục các tính tích cực, không lánh nặng tìm nhẹ trong lao động. Như vậy có nghĩa la giáo viên cùng san sẻ niềm vui, nỗi buồn, thành công, thất bại với lớp chủ nhiệm.

Tiếp xúc với cán bộ lớp, cán sự bộ môn để biết được mọi hoạt động của lớp là việc làm hết sức cần thiết. Những thông tin về lớp chủ nhiệm chủ yếu là do các em cung cấp. Nhưng việc làm này còn là con dao hai lưỡi, nếu giáo viên không khéo léo xử lý sẽ dễ dàng biến học sinh thành những kẻ mách lẻo, xoi mói người khác, nói xấu người khác cho sướng miệng mình.

Phương pháp giảng dạy mỗi giáo viên có sự khác nhau. Bên cạnh đó còn tuỳ thuộc vào đặc trưng bộ môn. Một số học sinh lười học cho rằng thầy cô dạy khó hiểu, yêu cầu cao…nên các em đạt kết quả học tập bộ môn thấp. Giáo viên chủ nhiệm cần tìm cách phân tích , để các em có nhận thức đúng đắn, từ đó xác định đúng trách nhiệm học tập của mình và tự giác hoàn thành yêu cầu do giáo viên đề ra.

Thiết nghĩ, để xác minh thông tin từ phía học sinh, giáo viên chủ nhiệm nên khéo léo tiếp xúc với giáo viên bộ môn để tường tận hơn trước khi đi đến kết luận về việc giảng dạy của giáo viên đó. Tôi cho rằng việc nghe học sinh phản ánh một chiều là việc không nên làm, nếu có thì phải hết sức thận trọng, vì mỗi chúng ta đều phải giữ gìn, bảo vệ uy tín của đồng nghiệp.

+ Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong lớp và giờ sinh hoạt lớp:

Trong một tập thể lớp, việc nảy sinh nhiều vấn đề trong mỗi buổi học là điều khó có thể tránh khỏi, giáo viên chủ nhiệm phải có mặt với lớp vào mười lăm phút đầu buổi, nếu buổi nào giáo viên chủ nhiệm không có tiết dạy, thấy không cần thiết cũng phải đến lớp. Giáo viên đến lớp như vậy để giúp các em ôn bài, chuẩn bị bài mới hoặc có sự việc gì xảy ra ở buổi học trước kịp thời chấn chỉnh…Nếu thực hiện tốt và thường xuyên khâu sinh hoạt đầu buổi, học sinh sẽ ổn định tâm thế để bước vào tiết học đầu tiên tốt hơn, kể cả các tiết học sau.

Giáo viên chủ nhiệm cần phải biết phát huy khả năng làm việc của cán bộ lớp, nhất là lớp trưởng. Định hướng cho cán bộ lớp làm việc, tôn trọng ý kiến đề xuất, cách làm việc của các em, giáo viên giúp cán bộ lớp làm việc là chính thay vì làm tất cả. Cán bộ lớp là những người gần gũi, sát với lớp nhiều hơn giáo viên chủ nhiệm nên các em giúp giáo viên giải quyết các vấn đề của lớp nhanh hơn, hiệu quả hơn và giáo viên chủ nhiệm đỡ vất vả hơn.

Giáo viên chủ nhiệm cần chú ý đến việc khen chê kịp thời đối với học sinh. Giáo viên không thiên vị, phải công minh trong khi khen cũng như chê các em. Những lời động viên khi các em làm việc tốt, những lời nhắc nhở khi các em làm sai có tác dụng rất lớn đến việc tự rèn luyện của các em.

Như vậy việc gì cần giải quyết giáo viên chủ nhiệm giải quyết kịp thời sau mỗi buổi học, không đợi đến sinh hoạt lớp. Làm như vậy rất dễ dàng chấn chỉnh nề nếp của tập thể. Điều hết sức quan trọng là cách đối xử, xử lý học sinh cá biệt không nên quá nghiêm khắc. Khen chê học sinh phải công minh, có làm được như vậy học sinh mới nể phục chúng tôi

+ Hoạt động kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và các lực lượng giáo dục khác:

– Phối hợp với gia đình học sinh

Việc giáo dục học sinh trong nhà trường là sự kết hợp nhà trường với đoàn thể, địa phương, gia đình…Trong đó, mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường nhất là đối với giáo viên chủ nhiệm là hết sức cần thiết. Chính vì vây, công tác chủ nhiệm của một giáo viên thành công hay không đừng bao giờ quên gia đình học sinh là yếu tố quan trọng.

Với tôi việc đến thăm gia đình học sinh rất cần thiết. Trước khi đến thăm phụ huynh học sinh, giáo viên cần phải phân loại đối tượng học sinh: Hạnh kiểm tốt, học tập tốt – hạnh kiểm tốt, học tập trung bình, yếu – hạnh kiểm trung bình, yếu…để có kế hoạch đi thăm. Tốt nhất là nên đi thăm trước đối với gia đình những em có hạnh kiểm trung bình, yếu hoặc những trường hợp đặc biệt khác của học sinh…

Đến với gia đình những em chăm ngoan là nhằm để biết thêm về hoàn cảnh gia đình, phương pháp học tập…của các em. Tiện thể giáo viên báo cho gia đình biết những ưu điểm về hạnh kiểm, học tập… Đến với học sinh hay nghịch, lơ là việc học tập, việc giáo viên chủ nhiệm đến nhà thăm gia đình là hết sức cần thiết. Vì có những học sinh gia đình lao động nghèo, cha mẹ ít có thời gian quản lý, chỉ bảo chuyện học hành của con cái, có thể nói là họ giao con mình cho thầy cô. Và điều cần lưu ý là khi giáo viên chủ nhiệm trao đổi cùng phụ huynh học sinh phải có mặt các con.

– Phối hợp với Ban giám hiệu (BGH) nhà trường

Mỗi tháng BGH tổ chức họp Hội đồng sư phạm một lần, đề ra kế hoạch chủ nhiệm cho GVCN của cả trường cũng như các khối lớp. Kế hoạch của BGH chính là kim chỉ nam cho mỗi GVCN đồng thời trong lần họp định kì BGH cũng được nghe phản ánh từ GVCN về thuận lợi, khó khăn trong quả trình thực hiện hoặc có ý kiến đề xuất nào tôi trực tiếp gặp BGH để điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp. Những khó khăn thắc mắc tôi đều xin ý kiến chỉ đạo hoặc nhận sự giúp đỡ từ phía BGH.

– Phối hợp với các giáo viên bộ môn

GVCN phải thường xuyên thông báo trao đổi với giáo viên bộ môn về tình hình học tập của lớp cũng như của từng học sinh để nắm bắt được khả năng trình độ của các em mà có phương pháp giảng dạy thích hợp. Tôi còn đề nghị giáo viên bộ môn có kế hoạch phụ đạo thêm những em yếu kém giúp các em lấy lại kiến thức cơ bản. Tôi xin phép giáo viên bộ môn được dự giờ thăm lớp mình để biết được thực lực từng môn của các em như thế nào từ đó đề ra biện pháp giúp đỡ phù hợp. Còn trong các tiết học đề nghị giáo viên bộ môn thường xuyên kiểm tra bài vở, gọi các em phát biểu ý kiến. Những câu trả lời đúng giáo viên bộ môn tuyên dương hoặc cộng điểm để các em có hứng thú trong học tập

– Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh:

GVCN cũng thường xuyên phối hợp với các thầy cô phụ trách công tác Đội, để thường xuyên nắm bắt tình hình học sinh lớp mình cũng như phối hợp học sinh cá biệt của lớp.

V. Tính mới, tính sáng tạo: 1. Tính mới:

Với vai trò là một giáo viên có nhiều năm làm công tác chủ nhiệm ở trường THCS, trong khuôn khổ của sáng kiến này, tôi đã nêu ra một số biện pháp hữu hiệu, khả thi về công tác chủ nhiệm, tạo điều kiện cho phong trào thi đua của lớp vào nề nếp, khuôn khổ, phát huy tính tích cực của học sinh và tinh thần làm chủ tập thể, tự quản của học sinh. Trong đó, tôi luôn chú trọng tới sự kết hợp đa dạng, linh hoạt các giải pháp trong quản lý nề nếp, giáo dục đạo đức học sinh bằng năng lực, tâm huyết nghề nghiệp và lòng yêu mến đối với học sinh chứ không thực hiện công tác chủ nhiệm bằng các giải pháp đơn lẻ.

Sáng kiến được áp dụng lần đầu thực tiễn tại trường THCS Quang Trung, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng từ năm 2010, tiếp tục được áp dụng trong những năm học tiếp theo từ đó đến nay.

2. Tính sáng tạo:

Trong quá trình thực hiện sáng kiến đã xây dựng, tôi không gò bản thân và học sinh theo quy định sẵn có một cách cứng nhắc mà luôn luôn chú ý kết hợp đa dạng và vận dụng linh hoạt các giải pháp đã có theo từng trường hợp, đối tượng học sinh cụ thể để đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình giáo dục. Bên cạnh đó, trong quá trình làm công tác chủ nhiệm theo sáng kiến này, tôi luôn chú trọng công tác phối kết hợp giữu GVCN với ban cán sự lớp, với lãnh đạo, cán bộ giáo viên, nhân viên Nhà trường và với phụ huynh học sinh trong xử lý các tình huống giáo dục thực tiễn.

3. Khả năng áp dụng, nhân rộng:

3.1. Khả năng áp dụng: Các giải pháp trong sáng kiến này hoàn toàn có khả năng áp dụng đạt hiệu quả cao với các mô hình giáo dục cấp THCS vì không đòi hỏi kinh phí cao, công nghệ,… mà chủ yếu dựa vào năng lực chuyên môn và lòng yêu nghề, mến trẻ của người làm GVCN.

3.2. Khả năng nhân rộng: Các giải pháp trong sáng kiến này hoàn toàn có khả năng áp dụng rộng rãi đối với các mô hình giáo dục cấp THCS vì không đòi hỏi kinh phí cao, công nghệ,… Ngoài ra, các giải pháp được đưa ra trong sáng kiến dành để vận dụng với học sinh đại trà ở cấp THCS nên có thể áp dụng với học sinh cùng cấp trên đại đa số các tỉnh thành trong cả nước.

4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp:

4.1. Hiệu quả kinh tế: Sáng kiến chỉ đòi hỏi người giáo viên thực sự phải có tâm huyết và lòng say mê tìm tòi nghiên cứu, không yêu cầu chi phí nhiều vì chủ yếu sử dụng những tài liệu giáo dục sẵn có mà Nhà trường đã được trang bị hoặc các phương tiện thông tin chung. Cụ thể:

– Học sinh thay vì la cà tại các hàng quán, dấn thân vào các trò chơi vô bổ, tốn kém sẽ muốn đến trường vì được học tập, sinh hoạt trong một môi trường lành mạnh, bổ ích, vui vẻ.

– Phụ huynh học sinh có thể yên tâm công tác khi con cái mình được học tập, sinh hoạt trong một môi trường lành mạnh, bổ ích, vui vẻ.

– Làm thay đổi được: Giáo viên say mê với công tác chủ nhiệm hơn, tích cực, chủ động hơn trong mỗi hoạt động của mình. Học sinh hứng thú đến trường, đến lớp vì được sống trong bầu không khí trong lành, môi trường thân thiện. Cô trò gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn, quá trình giáo dục sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

4.2 Hiệu quả về mặt xã hội:

– Đem lại hiệu quả xã hội cho giáo viên, học sinh và phụ huynh.

– Nâng cao trách nhiệm và lòng nhiệt tình của giáo viên với nghề nghiệp và học sinh. Khích lệ học sinh tham gia học tập, sinh hoạt đạt hiệu quả cao.

– Học sinh được hình thành lối sống tích cực, lành mạnh sẽ góp phần làm giảm những tệ nạn trong xã hội.

4.3. Giá trị làm lợi khác:

Qua những năm đã làm công tác chủ nhiệm và qua thời gian một năm chủ nhiệm lớp 8B3 trong năm học 2015 – 2016, bằng việc áp dụng kinh nghiệm làm chủ nhiệm của mình, bản thân đã có được những thành công đáng khích lệ cả về phía cá nhân tôi và cả lớp tôi chủ nhiệm. Đồng thời, bản thân tôi cũng như đồng nghiệp cũng đã nhìn thấy được thay đổi rất lớn của nhiều cá nhân học sinh nói riêng và tập thể lớp 8B3 nói chung. Cụ thể, sau một năm học, tập thể lớp 8B3 đạt được những thành tích và những sự thay đổi như sau:

+ Ý thức chấp hành nội quy tương đối tốt, đa số học sinh đã ngoan hơn, biết nghe lời hơn (qua theo dõi của giáo viên chủ nhiệm và qua lời nhận xét BGH nhà trường, của nhiều giáo viên bộ môn). Đa số học sinh đã chủ động, tích cực và hăng say hơn khi tham gia các hoạt động phong trào ở lớp, trường hay ở cấp trên: Lớp chủ nhiệm đạt danh hiệu xuất sắc – đứng thứ nhất toàn trường trong thi đua 2 mặt giáo dục năm học 2015 – 2016.

+ Tham gia nhiệt tình, tích cực hơn và có nhiều thành tích cao hơn đối với các hoạt động phong trào (qua việc tham gia và kết quả cụ thể của các phong trào). Tinh thần đoàn kết, biết giúp đỡ nhau trong học tập và trong sinh hoạt của học sinh được thể hiện trông thấy. Học sinh dường như mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp và đứng trước tập thể: Lớp chủ nhiệm đoạt giải Nhất trong Hội thi Nghi thức Đội quận Ngô Quyền năm học 2015 – 2016; Em Phạm Đăng Khoa đạt giải Chỉ huy Đội xuất sắc cấp Quận và giải Nhất cuộc thi Kể sách cấp Thành phố.

+ Điểm học tập các môn học ở lớp, lực học của đa số học sinh có nhiều tiến bộ và cao hơn so với năm học trước (qua theo dõi, nhìn nhận của giáo viên chủ nhiệm và theo lời nhận xét của nhiều Giáo viên bộ môn).

+ Thái độ và ý thức học tập tốt của học được nâng lên rõ rệt, học sinh cảm nhận được tầm quan trọng của việc học và rèn luyện ở trường, lớp.

Một Số Biện Pháp Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Tiểu Học

Giáo dục đạo đức cho học sinh các cấp học nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng là một trong những yêu cầu vô cùng quan trọng và cần thiết trong trường Tiểu học.

Biện pháp thứ nhất: Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh thông qua hoạt động học trên lớp.

Chỉ đạo giáo viên giảng dạy các khối lớp thực hiện tốt chương trình Hoạt động giáo dục môn Đạo đức.

Tổ chức giảng dạy tốt hoạt động thực hành, đặc biệt là hoạt động đóng vai các nhân vật trong từng tình huống theo câu chuyện của bài học. Từ đó nâng cao nhận thức, hiểu biết của học sinh về giá trị đạo đức thông qua tình huống cụ thể.

các tiết Hoạt động tập thể cuối tuần(Sinh hoạt lớp); các tiết dạy Ngoài giờ lên lớp theo Phân phối chương trình.

Giáo dục lồng ghép kỹ năng sống, giáo dục đạo đức thông qua các môn học khác.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy môn đạo đức. Cho học sinh được xem nhiều hoạt cảnh, câu chuyện giáo dục về đạo đức. Tổ chức cho học sinh thực hành liên hệ với thực tế cuộc sống thông qua các bài học. Rèn luyện tốt các phẩm chất cho học sinh

Biện pháp thứ hai: Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục Ngoài giờ lên lớp.

Các em học sinh đến trường không chỉ học tập về kiến thức mà còn được giáo dục và rèn luyện về các năng lực, phẩm chất, về truyền thống đạo đức phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học. Thông qua các hoạt động học tập trên lớp thầy cô sẽ hướng dẫn, hỗ trợ, cung cấp cho các em về kiến thức, sẽ bồi dưỡng và rèn luyện cho các em phát triển về các năng lực, phẩm chất, về truyền thống đạo đức dân tộc, về những kinh nghiệm sống, kỹ năng ứng xử cơ bản, đơn trong cuộc sống. Nhưng giáo dục và rèn luyện qua các hoạt động học trên lớp thì chưa đủ để các em học sinh có cơ hội phát huy hết được khả năng của mình. Do đó cần có sự kết hợp giữa các hoạt động học trên lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Bởi “Hoạt động ngoài giờ lên lớp” là một trong những nội dung giáo dục toàn diện học sinh. Với mục đích tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp nhằm khắc sâu kiến thức các môn học và các hoạt động giáo dục bằng cách tổ chức ngoài giờ học. Từ đó giúp các em học sinh trang bị toàn diện hơn về kiến thức, kĩ năng, về năng lực, phẩm chất để có thể hòa nhập với xã hội. Do đó để giáo dục đạo đức cho học sinh đạt hiệu quả tốt thông qua hoạt động Ngoài giờ lên lớp cần:

Tổ chức cho học sinh tham gia tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn trong năm học.

Tổ chức tốt các buổi lao động, vệ sinh làng bản đặc biệt là các buổi lao động vệ sinh làm sạch, đẹp các công trình văn hóa – lịch sử. Tổ chức các buổi giao lưu với học sinh khuyết tật,…. Phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái;..Từ đó giúp các em hiểu rõ hơn về giá trị đạo đức, truyền thống đạo đức dân tộc.

Biện pháp thứ 3: Tổ chức cho học sinh tham gia cuộc thi do các cấp tổ chức.

Biện pháp thứ 4: Thực hiện tốt công tác phối kết hợp với giữa Gia đình- Nhà trường – Xã hội trong công tác giáo dục và rèn luyện học sinh.

Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Ở Trường Tiểu Học trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!