Bạn đang xem bài viết Đề Tài Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN BAO ————–™&˜————- ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM —————————–™&˜—————————– TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Người viết: Ngô Thị Kim Lan Đơn vị : Trường tiểu học Sơn Bao THÁNG 9 NĂM 2006 ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM —————————–™&˜—————————– TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Mục đích ý nghĩa : Xuất phát từ mục đích ý nghĩa của Nhà trường xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người mới phát triển toàn diện , con người mới có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước . Muốn tạo nên những con người mới thì Nhà trường phải là nơi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người toàn diện nhất , những con người đó chính là Học sinh , mà đặc biệt là Học sinh tiểu học , các em là những người chủ tương lai của đất nước , vì vậy chúng ta phải biết cách rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Trong thực tế mỗi Học sinh đều có một hoàn cảnh khác nhau , hoàn cảnh sẽ có tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của Học sinh , chính vì thế mà phương pháp Giáo dục Học sinh cá biệt sẽ giúp cho một số Học sinh cá biệt trở thành Học sinh bình thường hoà nhập với cộng đồng xã hội và trở thành những người hữu ích cho Đất nước . 2/ Lý do chọn đề tài : Nền Giáo dục nước ta đang trên đà phát triển , tuy nhiên vẫn càng nhiều hiện tượng mà đặc biệt là Học sinh cá biệt ngày càng tăng ở các trường học nói chung và đối với trường tiểu học Sơn Bao nói riêng . đây là vấn đề bứt thiết , là tiếng kêu của toàn xã hội mà đặc biệt là ngành Giáo dục đóng vai trò chủ chốt trong việc Giáo dục thế hệ trẻ . Trong thực tế hiện nay , nhiều gia đình gặp không ít khó khăn , không đủ điều kiện nuôi con ăn học cho nên đã cho con ở nhà giúp việc gia đình và cho đi làm ăn xa , một số gia đình có nhận thức kém nên không quan tâm gì đến việc học của con em , giao hẳn cho Nhà trường . Mặc khác Sơn Bao là một xã vùng cao của huyện Sơn Hà , kinh tế của người dân càng quá nghèo , tỉ lệ hộ đói – hộ nghèo chiếm 70% , việc kiểm soát học hành của con em ở một số phụ huynh chưa đúng mức , từ dó đã làm cho các em đi học tuỳ theo sở thích , có nhiều em chán nản , quậy phá hoặc làm ra vẽ cho mình nổi bật trước lớp . Đứng trước thực trạng này , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm cho nên có cảm nghỉ mình phải làm sao đó và phải có trách nhiệm Giáo dục các em trở thành người Học sinh ngoan , vì đa số các em chưa ý thức được việc của mình làm. Vậy chúng ta là Giáo viên có hiểu nguyên nhân dẫn đến những việc làm đó không ? Tại sao chúng ta không tìm ra biện pháp Giáo dục Học sinh các biệt . Từ những câu hỏi đặc ra đó tôi đã quyết định tìm hiểu và viết sáng kiến kinh nghiệm mà đã chọn đề tài nêu ở trên . Đề tài này đã áp dụng từ năm học 2002-2003. PHẦN II : NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Bản thân tôi đưqợc trường phân công giảng dạy lớp hai nhiều năm , nhìn chung ở lớp hai , các em Học sinh càng nhỏ , thơ ngây . Chính vì thế mà chúng ta phải ra sức rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Thực tế trong mỗi lớp học có nhiều đối tượng Học sinh , trong đó cũng không thể không nói đến Học sinh cá biệt . qua đây tôi xin trình bày những suy nghĩ và những việc mình đã làm trong công tác chủ nhiệm , đó là Giáo dục Học sinh cá biệt . Vậy Học sinh có biểu hiện như thế nào gọi là Học sinh cá biệt và chúng ta có những biện pháp Giáo dục ra sao để các em trở thành những Học sinh bình thường như bao Học sinh khác , đó là nội dung của sáng kiến kinh nghiệm tôi xin trình bày sau đây . 1/ Đặc điểm của Học sinh cá biệt : đối với những Học sinh cá biệt luôn luôn có tính hiếu động , thích tìm tòi và luôn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào , thời điểm nào . Trước hết chúng ta nên nói đến tính cách của trẻ là sự kết hợp độc đáo giữa đặc điểm tâm sinh lý của trẻ với điều kiện hoàn cảnh sống nhất định . Biểu hiện của trẻ là nhanh nhẹn , hoạt bát cùng với sự nghịch ngợm , bất ổn định kèm theo , bên cạnh đó học tập có thể là học yếu hoặc trung bình , vì các em đó trong lớp ít chú ý hoặc thậm chí không chú ý khi cô giáo giảng bài , luôn quậy phá các bạn ngồi bên cạnh , gây mất trật tự trong lớp . Biểu hiện về mặt thái độ của trẻ với chung quanh và bản thân , những đứa trẻ hiếu động này thuộc kiểu thần kinh mạnh , cân bằng và linh hoạt . biểu hiện của trẻ là ham hoạt động , ham hiểu biết , linh hoạt , thường vui vẻ , vô tư , cảm xúc của trẻ bất ổn định , rung cảm nhưng không sâu , nhanh nhớ , mau quên . Biểu hiện rõ nét nhất của đặc tính này là bất cứ điều gì hấp dẫn , thích thú vừa sức thì các em sẽ làm ngay , tập trung chú ý rất tích cực , càng trong học tập thì đòi hỏi phải kiên trì , chịu khó động não để làm bài , chiếm lĩnh kiến thức thì các em đâm ra chán nản , ít chú ý hoặc không chú ý nên kết quả học tập thấp . Chính vì điều đó , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm , đặc biệt là Giáo viên tiểu học , khi các em đến trường tôi luôn tạo cho các em và có cảm giác tôi giống như một người mẹ , luuôn có trách nhiệm theo sát các em từng giờ và trong mỗi buổi học để hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của từng em thì mới có hình thức , phương pháp , biện pháp dạy học phù hợp với các em thì mới đem lại kết quả cao . Đặc biệt cũng cần tạo không khí lớp học , trường học như chính ở nhà của các em , khi đo các em mới có cảm giác được quan tâm chăm sóc và tình yêu thương thật sự để học tập tốt . 2/ Biện pháp thực hiện : Đối với những trẻ nghịch ngợm , hay nói chuyện riêng , sau mỗi lần giảng bài xong , hoặc các em đã làm xong bài tập , các em không biết làm gì nên hay trêu chọc các bạn gây mất trật tự trong lớp Cô giáo nói không nghe , theo tôi cần giáo dục các em như sau : + Thường xuyên quan tâm sâu sát hoạt động của các em + Thường xuyên nhắc nhở động viên kịp thời + Khích lệ khi em có tinh thần tập thể và lòng vị tha + Không nên phê bình , trách phạt + Không nên sĩ nhục , xúc phạm đến các em + Tránh hình thức áp đặc doạ dẫm , buột các em phải làm theo vì điều đó sẽ không đem lại kết quả gì + đặc biệt Giáo viên không nên để các em có thời gian rỗi + Kết hợp giữa ba môi trường Giáo dục Gia đình – Nhà trường và Xã hội Sỡ dĩ tôi áp dụng các biện pháp nêu trên , vì như tôi đã nói lứa tuổi các em càng nhỏ và rất thơ ngây , các em luôn xem thầy – cô như một hình tượng , luôn làm theo cô, theo thầy . Mặt khác Giáo dục Học sinh không phải chỉ mang lại cho các em kiến thức , kĩ năng , mà còn phải Giáo dục cho các em về sự hình thành nhân cách , về lối sống , cách cư xử trong cuộc sống đời thường , vì vậy trước hết Giáo viên phải mẫu mực , lời lẽ phải chuẩn xác , trong sáng , gần gũi các em , tránh những lời nói thô tục , hành động thô bạo . Đặc biệt Giáo viên cần vạch rõ ranh giới giữa các việc , khi cấm các em không được làm việc gì đó thì phải nêu rõ nguyên nhân để các em hiểu được việc đó là sai , không nên làm . còn đối với những việc các em được làm , Giáo viên cũng cần giới hạn khung cảnh và những việc nên làm , dù đó là những việc rất nhỏ , vì làm như thế giúp các em hiểu rõ vì sao phải làm như thế này mà không làm như thế kia , và cũng không nên bắt buộc các em phải làm những điều mà các em không hiểu làm để làm gì . Khi các em đã hiểu được những yêu cầu của Giáo viên , khi ấy Giáo viên đưa ra tình huống để các em làm một cách thường xuyên . Việc làm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ từng bước tạo thành thói quen , nề nếp , nhu cầu và không cảm thấy khó chịu thì các em dần dần sẽ trở nên tiến bộ , hoà nhập với cộng đồng . Tuy nhiên công việc này không thể chỉ có Giáo viên làm mà cần phải phối hợp nhịp nhàng , đồng bộ giữa Giáo viên chủ nhiệm và gia đình Học sinh , Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên gần gũi với phụ huynh Học sinh để tìm hiểu trao đổi các hoạt động của các em xảy ra hằng ngày hoặc báo cáo những tiến bộ và nảy sinh những cái gì mới ngoài dự kiến của chúng ta thì khi đó Giáo viên chủ nhiệm cùng phụ huynh Giáo dục , uốn nắn ngay từ đầu và kịp thời . Trong học tập Giáo viên phải có kế hoạch cụ thể , ở lớp phải chú ý đến việc sắp xếp , bố trí chỗ ngồi cho hợp lý . Học sinh yếu nên bố trí cho ngồi ở bàn trên , bố trí ngồi cạnh bạn học giỏi hơn để Giáo viên dể theo dõi , giúp đỡ các em trong từng môn học . Giáo viên cần dành sự quan tâm đến việc học tập của những Học sinh này nhiều hơn , thường xuyên kiểm tra bài về nhà , học tập ở lớp , kết quả tiếp thu bài sau mỗi buổi dạy . Giáo viên cần phân công giao nhiệm vụ cho bạn Học sinh giỏi giúp bạn học yếu bằng cách : Truy bài trước giờ vào lớp , kiểm tra bài về nhà , nhắc nhở bạn , giảng giải thêm khi bạn chưa hiểu được bài , chưa biết cách làm bài , không trách ,sĩ nhục bạn . Cứ tiến hành như thế , Giáo viên sẽ theo dõi được sự tiến bộ hoặc không tiến bộ của Học sinh để phối hợp với gia đình Học sinh cùng hướng dẫn thêm việc học ở nhà của các em đồng thời Giáo viên cũng có kế hoạch điều chỉnh hợp lý . Ngoài việc học ở nhà , ở lớp , Giáo viên càng tổ chức phụ đạo cho những Học sinh yếu ở ngoài giờ để nâng cao trình độ cho các em . Trong những buổi phụ đạo Giáo viên giảng lại kiến thức cũ đã học trong tuần để giúp các em nắm chắc bài và làm bài tốt hơn . Tuy nhiên Giáo viên tiến hành từng bước yêu cầu thấp đến yêu cầu cao , không nên vội vàng sẽ gây chán nản cho các em . Khi nhận thấy các em có sự tiến bộ cần khuyến khích kịp thời , khi các em làm sai hoặc không tiến bộ cần động viên chỉ bảo nhẹ nhàng , tránh nói những lời nặng nề xúc phạm đến nhân cách của Học sinh , đặc biệt là không nên bình phẩm Học sinh “Sao em học dốt thế” . Ngoài việc Giáo dục Học sinh cá biệt về đạo đức và học tập , Giáo viên chủ nhiệm cũng cần chú ý đến chữ viết của các em , vì thông qua chữ viết nó thể hiện được tính nết của con người . Rèn chữ viết đúng mẫu , đúng chính ta û , đúng tốc độ quy định và giữ vở sạch . Muốn rèn chữ viết trước hết phải rèn đọc đúng , phát âm đúng các phụ âm đầu , tập các em có đức tính cẩn thận ở tất cả các môn học . Để thực hiện được điều này Giáo viên phải mẫu mực khi viết và trình bày bảng , vì vậy cần rèn chữ viết cho Học sinh lớp 1; 2 đó là góp phần vào phong trào giữ vở sạch đẹp và trong sáng của tiếng việt mà tôi tin chắc chúng ta ai cũng làm được việc này . Tóm lại : Để Giáo dục Học sinh cá biệt tốt , trước hết người Giáo viên chủ nhiệm phải mẫu mực để Học sinh noi theo , luôn gần gũi , thương yêu và tôn trọng Học sinh , phải dành nhiều thời gian cho các em , đôn đốc nhắc nhở , tạo niềm tin cho các em , phải là người nhiệt tình với nghề nghiệp , tôn trọng với công việc , tất cả vì Học sinh thân yêu , vì tương lai của các em . Có như thế mới xứng đáng với câu “ mỗi thầy giáo – cô giáo là một tấm gương sáng cho Học sinh noi theo”, dạy học không chỉ đem lại kiến thức mà phải kết hợp cả dạy người . Đối tượng Học sinh cá biệt phần lớn là những Học sinh nghèo , thiếu giáo dục , ít được sự quan tâm của gia đình chính vì thế mà chúng ta cần phải luôn quan tâm , theo sát và tìm hiểu hoàn cảnh của từng Học sinh để tạo điều kiện học tập cho các em , luôn trao dồi đạo đức cho các em bằng chính lòng thương yêu thực sự của mình , từ đó sẽ cảm hoá được các em để các em hiểu và hoà nhập vào cộng đồng như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác trong xã hội . Công việc này tuy lúc đầu rất vất vả , tốn nhiều công sức , nhưng để theo dõi , uốn nén các em từng li , từng tí , khi các em đã tiếp thu những cái mới , nhận biết được nhiệm vụ của Học sinh dần dần đưa các em vào nề nếp học tập , có thời khoá biểu học ở nhà , các em trở thành thói quen , từ đó các em sẽ tiến bộ và bắt đầu ham học , kết quả học tập sẽ khả quan hơn . Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường Giáo dục thì mới thực sự đem lại hiệu quả cao . Sáng kiến này tôi đã áp dụng từ bao năm qua nhưng đặc biệt nhất là năm học 2002 – 2003 sáng kiến này mới thật sự có hiệu quả và áp dụng mãi đến nay . Cụ thể năm học 2002 – 2003 tôi dạy lớp 2A đó là năm đầu tiên áp dụng chương trình thay sách , lớp tôi có một Học sinh là Đinh Văn Vẹt , em là dân tôc H rê , em có đặc điểm là nghịch ngợm ít chú ý . nhưng lại học được , khi nhận lớp tôi đã phát hiện ra ngay diều này , càng hoàn cảnh gia đình em thì rất khó khăn , Mẹ mất sớm , Bố thì lấy vợ khác , và lúc nào cũng hay nhậu nhặc . Thời gian đầu em ở với bố mẹ , sau đó em về ở với anh trai , gần nhà của tôi . Đến lớp em chép bài chỉ là đối phó , chữ viết cẩu thả , biết làm toán nhưng không làm , nghĩa là thích thì làm , không thích thì thôi và luôn nói bằng tiếng của người địa phương . Từ đó tôi đã thực hiện như sau : + Ở miền núi Học sinh được phát vở nên vở của em không thiếu nhưng viết của em thì không có , trong lớp học tôi thấy em không chép bài nên liền lại hỏi vfa em đã cho biết là không có bút , thế là tôi đã lấy bút của mình để cho em và dặn dò nhắc nhở . Nhìn anh mắt của em ngơ ngác nhìn tôi , lúc này tôi cảm nhận được niềm vui sướng tràn ngập trong lòng của em , tôi hướng dẫn cho em viết và thường xuyên kiểm tra vở , việc này tôi thực hiện suốt cả một tuần và tôi đã nhận thấy em đã có sự tiến bộ rõ rệt , em đã ngoan hơn và không có nghịch như trước nữa , đặc biệt là giờ học toán em đã bắt đầu giơ tay xin lên bảng làm , có lúc em làm đúng , cũng có lúc làm sai , tôi luôn luôn khen ngợi và động viên . Bằng những câu nói nhẹ nhàng , những lời chỉ bảo tận tình của tôi , em đã ý thức được việc học của mình . Bên cạnh đó thời gian ngoài giờ tôi thường sang nhà để gặp phụ huynh và phối hợp với phụ huynh để cùng giáo dục em , thường xuyên động viên , khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em tham gia học tập tốt . Thực sự là tôi rất mừng khi thấy em tiến bộ , nhưng niềm vui mừng lại tăng lên gấp bội vì kết quả học kì I của em là Học sinh khá , đến học kì II em là Học sinh giỏi của lớp . Kể từ đó em thật sự đã trưởng thành và luôn làm gương cho các Học sinh khác noi theo , từ năm học đó về sau em đều là Học sinh giỏi của lớp . Tôi là Giáo viên chủ nhiệm , tôi cảm thấy rất mừng và tràn đầy hạnh phúc khi nhìn thấy sản phẩm của mình sáng kiến , cải tiến lại có chất lượng cao như thế và đó cũng chính là kết quả lớn nhất của tôi trong những năm qua . 3/ kết quả đạt được : Trong suốt thời gian qua bản thân tôi luôn mẫu mực trong mọi công tác , hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao , đặc biệt là công tác chủ nhiệm , tuy vùng cao nhưng tôi luôn đảm bảo duy trì sĩ số Học sinh , về Giáo dục Học sinh cá biệt có được ngững kết quả cao tỉ lệ Học sinh khá , giỏi nhiều , đảm bảo chỉ tiêu Học sinh lên lớp 100% PHẦN III : KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 1/ Kết luận : Tự hào về nghề nghiệp của mình là người ươm mầm non cho Tổ quốc , là người Giáo dục thế hệ trẻ trở thành người chủ tương lai của đất nước . Một thế hệ mà Bác Hồ hết sức chăm lo , quan tâm : “ Non sông Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không , phần lớn là nhờ vào công học tập của các cháu” . Vâng lời Bác dạy , bản thân tôi là người ươm mầm cho đất nước , tôi nguyện ra sức phấn đấu hết sức mình để tạo cho các em một tương lai tốt đẹp , góp một phần công sức của mình vào việc xây dựng quê hương đất nước . 2/ Kiến nghị – đề xuất : Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp thực hiện công tác này , do đó phải nắm vững đặc điểm của từng em và điều kiện hoàn cảnh gia đình để tạo điều kiện cho các em học tập và rèn luyện . Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua học tập , để các em được tham gia và phải có khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích , động viên các em . Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên hệ với gia đình học sinh để báo cáo kết quả học tập và rèn luyện của học sinh cho phụ huynh nắm . Lập kế hoạch dạy phụ đạo cho Học sinh yếu kém . Nhà trường cần phải quan tâm bồi dưỡng đội ngũ Giáo viên của trường về công tác chủ nhiệm lớp để đưa phong trào của nhà trường ngày càng vững mạnh hơn , không có Học sinh cá biệt , xứng đáng là nhà trường xã hôi chủ nghĩa . Sơn Bao, ngày :.././ Người viết
Biện Pháp Rèn Luyện Và Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt
Giáo dục là nền tảng xây dụng xã hội,là tiền đề quy định sự phồn vinh của đất nước. trong sức mạnh đó của giáo dục thì ngoài sức mạnh của tri thức khoa học còn là sức mạnh của việc tạo lập nhân cách con người giáo dục tạo con người có đủ sức mạnh đủ tài để xây dựng đất nước . Việc dạy học sinh ở bậc tiểu học rất quan trọng trong quá trình giáo dục. tuy nhiên, cùng với sự phát triển như huyền thoại của đất nước với những thành tựu về khoa học công nghệ ,đó là thành quả của quá trình hội nhập với thế giới. Điều này dẫn đến mặt tích cực. Cùng với sự tiến bộ về mặt khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, giáo dục…nhưng cùng đưa đến những thách thức, trong đó giáo dục nói chung, giáo dục thế hệ trẻ nói riêng đang đứng trước những nguy cơ bị tệ nạn xã hội xâm lấn. Nền kinh tế thị trườngcũng làm thay đổi xã hội: Các bậc làm cha làm mẹ cuốn vào vòng xoay của cơ chế thị trường nên không quan tâm đến việc dạy dỗ, không quan tâm đến sự trưởng thành của con cái.
Là một giáo viên dạy tiểu học, tôi luôn lo lắng trăn trở với vấn đề làm sao để rèn luyện và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả. Tôi mạnh dạn chon đề tài: “Biện pháp rèn luyện và giáo dục học sinh cá biệt” với mong muốn đưa những điều tôi tâm đắc đã được thử nghiệm trong quá trình giảng dạy lớp 4 để góp phần nhỏ bé của mình vào tiếng nói chung của sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Giúp cho các em học sinh nắm vững các kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học nói chung và kiến thức lớp 4 nói riêng. Đồng thời qua đó giáo dục, uốn nắn, bồi dưỡng, giáo dục các em từ những học sinh cá biệt, quậy phá, lười học… trở thành người có ích cho xã hội sau này.
Xác định các nguyên nhân chính đã dẫn đến một số em có hành vi chưa đúng, chưa có động cơ học tập, có đạo đức phẩm chất chưa tốt…. Qua đó, giúp cho các em định hướng được hành vi, ý nghĩa của cuộc sống, đạt được hiệu quả trong học tập.
Các em học sinh thuộc dạng cá biệt trong lớp, có hành vi xấu, hay gây gỗ, chửi thề, nói tục, ý thức học tập không có, kết quả học tập yếu kém, lười học tập và không biết vâng lời thầy cố, bố, mẹ ….
– Tập trung nghiên cứu một số học sinh lớp 4D3 ở Trường Tiểu học …….. có hành vi đạo đức chưa tốt, kết quả học tập yếu kém, có thái độ không hợp tác.
– Tìm hiểu gia cảnh của từng em học sinh cá biệt trong lớp, cùng gia đình theo dõi, nhắc nhở, giáo dục và tạo các điều kiện tốt nhất để các em học sinh đó tham gia học tập và các phong trào do lớp và nhà trường tổ chức.
– Nắm được thực trạng của một số học sinh cá biệt lớp 4D3 ở Trường Tiểu học …….. , từ đó có phương pháp giáo dục, rèn luyện để tạo cơ hội cho các em tiến bộ hơn, học tập tốt hơn và trở thành học sinh có giáo dục, có trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt.
– Định hướng nguyên nhân học sinh trở thành học sinh cá biệt.
– Quan sát, theo dõi quá trình học tập và hoạt động của các em học sinh cá biệt trong lớp. ( trước, trong và sau áp dụng các biện pháp giáo dục).
– Trao đổi trực tiếp với gia đình, phụ huynh của các em học sinh thuộc dạng cá biệt trong lớp 4D3, đề xuất những biện pháp áp dụng cho từng em học sinh.
– Tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng học sinh để đưa ra biện pháp giải quyết.
Hiện nay Đảng, nhà nước yêu cầu đổi mới trong sự nghiệp giáo dục để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đang sống trong thời đại có sự tiến bộ mạnh mẽ về khoa học công nghệ, sự bùng nổ của thông tin toàn cầu. Việc này đặt ra cho từng con người phải phấn đấu nổ lực vươn lên trong cuộc sống để không lạc hậu với thời cuộc. Từng bước theo kịp tốc độ phát triển của thời đại. Đối với thế hệ trẻ trong nhà trường ngoài nhiệm vụ cung cấp kiến thức phổ thông cho học sinh
Bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ phổ thông, chính vì thế chúng ta cần phải coi trọng việc xây dựng và giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt để lớn lên các em sẽ sớm hoàn thiện mình hơn và trở thành một con người có ích cho xã hội. Để thực hiện được vấn đề này không phải dễ mà cần phải có một quá trình và dựa vào mỗi một giáo viên chúng ta.
Việc dạy học và giáo dục con người vừa mang tính khoa học ,vừa mang tính sáng tạo và nghệ thuật.Đối tượng giáo dục của người giáo viên tiểu học là trẻ em. Sự phát triển của các em đang ở phía trước.Trong quá trình điều khiển sự phát triển của các em,người giáo viên cũng như những người lớn tuổi luôn luôn gặp và giải quyết các vấn đề,tình huống xảy ra.
Quy trình sư phạm tổng thể là một quá trình diễn ra cùng lúc hai quá trình cơ bản khác: Đó là quá trình giáo dục và quá trình dạy học. Hai quá trình này luôn luôn tác động lẫn nhau, chúng có mối quan hệ biện chứng lâu dài và phức tạp. (theo tâm lí lứa tuổi tiểu học).Chính vì vậy, người giáo viên ngoài việc dạy học giúp học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản còn là một người mẹ hiền luôn tận tuỵ với những đứa con bé bỏng yếu ớt của mình.
Nhân cách của học sinh bậc tiểu học cũng chịu sự tác động rất lớn của xã hội. Cùng với xu thế hội nhập sự phát triển của thế giới, của đất nước bên cạnh quá trình hội nhập được tiếp cận với tinh hoa văn hóa nhân loại, sự phát triển của công nghệ thông tin,đưa vị thế nước ta ngày càng tiến gần hơn với đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc trên thế giới thì còn là sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường kéo theo tệ nạn xã hội, văn hóa xấu…dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ tới việc giáo dục nhân cách con người Việt Nam, nhất là với thế hệ trẻ .
Nếu như chúng có môi trường vui chơi, giải trí lành mạnh, được tiếp cận với những thông tin hữu ích thì các em sẽ trở thành người có nhân phẩm tốt.
Để rèn luyện cho học sinh cá biệt đòi hỏi người giáo viên phải có bản lĩnh, tính dứt khoát, sự quan tâm đồng đều đến học sinh mình phụ trách. Bên cạnh đó người giáo viên còn phải có tấm lòng bao dung, nhân hậu, biết yêu thương học sinh như con mình . xem những hành vi, thái độ chưa đúng của học sinh là vấn đề cần giải quyết . người giáo viên có thái độ chuẩn mực nhẹ nhang nhắc nhở ,dìu dắt các em từng bước nhận thức vấn đề,cải thiện hành vi dần hoàn thiện bản thân.
Việc áp dụng đề tài “Biện pháp rèn luyện và giáo dục học sinh cá biệt” theo tôi là việc cần thiết để hướng tới một nền giáo dục toàn diện, nhất là việc giáo dục học sinh cá biệt ở bậc Tiểu học đứng trước một số thực trạng :
* Thuận lợi: Trường Tiểu Học …….. Địa bàn dân cư đông kinh tế văn hóa xã hội phát triển mạnh. Nhà trường luôn được sự quan tâm của các cấp, đặc biệt là phụ huynh học sinh. Đa số các em học sinh trong lớp có ý thức tốt trong học tập và rèn luyện. Bản thân tôi đang được trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 4 vì vậy tôi có điều kiện áp dụng, trải nghiệm và theo dõi thực tế hiệu quả của đề tài qua các đối tượng học sinh quen thuộc.
* Khó khăn: Học sinh với nhiều đối tượng khác nhau, nhiều hoàn cảnh sống khác nhau, chỗ ở rải rác ở các thôn buôn không tập trung. Một số gia đình không quan tâm đến việc giáo dục con em mà hoàn toàn phó mặc cho nhà trường. Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường và xã hội có quá nhiều biến động. Tất cả những vấn đề trên là khó khăn cho việc thực hiện đề tài.
Một số đối tượng đã được nhắc đến trong phần thực trạng có sự thay đổi trong quá trình học tập và rèn luyện.
* Hạn chế: Một số giáo viên chưa thực sự hiểu bản chất vấn đề để áp dụng đề tài.
Số lượng học sinh chưa thực sự tiếp cận tốt với phương pháp giáo dục của giáo viên.
Tôi sớm tìm hiểu và nắm được tình hình học sinh của lớp mình ngay từ đầu năm nhận lớp. Hiểu được từng đối tượng học sinh như: tính tình, sở thích,…và hoàn cảnh gia đình của mỗi em. Từ đó để có kế hoạch dạy học và giáo dục một cách cụ thể.
Sự nhẹ nhàng ân cần quan tâm sẽ giúp giáo viên tiếp cận vối các em, hiểu rõ nguyên nhân hơn để tìm cách tháo gỡ những vướng mắc từ phía các em cũng như gia đình đưa ra biện pháp hưu hiệu để thay đổi sự phát triển nhân cách mới cho từng học sinh.
Giáo viên không nên xúc phạm đến học sinh, gặp gỡ riêng để tâm sự với các em về cách nghĩ và sự mong muốn của mình từ các em.
Quan tâm giúp đỡ là vấn đề quyết định của người giáo viên trong việc rèn luyện học sinh cá biệt. Tạo lòng tin cho các em không đem những điều tâm sự của các em ra làm trò đùa vui cười trước lớp.
Quán triệt sự kì thị giữa học sinh trong lớp với các em, tạo cho các em môi trường tin yêu.
Tạo sự tin tưởng cho học sinh chia sẻ với các em những vấn đề các em gặp rắc rối ở gia đình và xã hội bên ngoài.
Thường xuyên chấm chữa bài để nắm bắt kết quả học tập của học sinh, kịp thời tuyên dương khen thưởng.
Nắm thông tin cần thiết ở từng giai đoạn để xem xét kết quả và hướng tiến bộ của học sinh cùng bàn bạc với phụ huynh điều chỉnh những tồn tại mà học sinh còn mắc phải.
Giáo viên phải biết động viên khen thưởng – phê bình kịp thời, chính xác sẽ tạo cho học sinh tính hăng say, tích cực tham gia vào các hoạt động của lớp cũng như của nhà trường.
Với những vấn đề trên, nếu giáo viên áp dụng được sẽ rất dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu mọi vấn đề phát sinh khi cần thiết. Bởi học sinh cá biệt thường có những biểu hiện chống đối hay biểu hiện “chơi ngông” với những người quan tâm không đúng mức hoặc quá mức tạo cho các em. Bản thân tôi thành công trong vấn đề nhìn nhận để tiếp cận với các em này thực ra các em đáng thương hơn là đáng ghét.
Giáo viên tỏ thái độ tin tưởng giao nhiệm vụ cho các em cá biệt về đạo đức, rèn luyện cho học sinh cá biệt về học tập mang tính vừa sức.
Giáo viên khen ngợi học sinh có tiến bộ dù chỉ rất nhỏ nhưng hạn chế tối đa sự chỉ trích,chê bai trước đám đông hay tập thể. Những vấn đề tái phạm hay khiển trách chỉ tâm sự những mong muốn của mình với các em như một người bạn để các em thấy không bị xúc phạm xem đó như vấn đề bí mật và dần dần tự sửa đổi (với học sinh cá biệt sự chỉ trích hay trách phạt trước tập thể không làm hiệu quả điều mong muốn mà chỉ có tác dụng ngược lại).
Không tỏ thái độ thương hại mà người giáo viên cần tỏ thái độ mong muốn sự hợp tác hay giúp đỡ của học sinh cá biệt đó đối với mình.
Giáo dục học sinh trong lớp biết tôn trọng bạn bè.
Tạo được mối quan hệ gần gũi với phụ huynh học sinh, để từ đó có được thông tin hai chiều giữa phụ huynh học sinh với giáo viên và ngược lại.
Nắm bắt sự chuyển biến của học sinh từ phía gia đình, không nên áp đặt con em theo một chiều hướng bảo thủ,dành thời gian quan tâm chăm sóc con cái nhiều hơn với những đứa trẻ cá biệt về đạo đức cũng như đưa ra giải pháp giúp đỡ trẻ yếu kém trong học tập. Bởi giáo dục là vấn đề của cả gia đình nhà trường và xã hội.
Trong năm học 2013-2014 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4D3 Trường Tiểu học Dlieya. Đây là lớp mà các đối tượng học sinh ở rải rác các thôn, buôn : như thôn Trung Hòa nằm ngay trung tâm xã đối tượng là con gia đình buôn bán nhỏ nhà ở tạm bợ, thuê mướn, thôn Ea Kênh học sinh là dân tộc phía Bắc chuyển vào, Buôn Yun là buôn có hoàn cảnh khó khăn vùng III,chủ yếu là dân tộc Ê đê – bố mẹ đa phần ít học nên không quan tâm đến việc học hành của con cái. Ngoài ra còn có các buôn Yoh, buôn Kmang, buôn Yuk,riêng buôn Ksơr thành phần học sinh cá biệt về đạo đức cao, do ảnh hưởng một số thanh niên lêu lỏng.
Từ những vấn đề trên cần có những giải pháp để uốn nắn:
* Xác định hoàn cảnh, lí do học sinh cá biệt vi phạm xây dựng biện pháp giáo dục:
Xây dựng qui chế lớp học làm tiêu chí cho việc đánh giá cho toàn lớp học, theo dõi và đánh giá khách quan cho từng học sinh tạo tiền đề để học sinh cá biệt cảm nhận sự công bằng của giáo viên, đây là kim chỉ nam cho việc rèn luyện và giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung và học sinh cá biệt nói riêng.
Bố trí chổ ngồi hợp lí tạo sự gần gũi giữa học sinh và giáo viên nhờ học sinh khá giỏi hỗ trợ về mặt học tập.
Giao công việc học tập cho các em ở mức vừa phải không quá sức, tạo hứng thú tăng dần cho học sinh. Học sinh tự đánh giá mức độ tiến bộ cho nhau, cải thiện vấn đề tồn tại ở các em.
Điển hình em Nguyễn Thành Lợi: có biểu hiện đầu năm không hợp tác trong học tập, hay bỏ học về giữa buổi và biểu hiện thái độ văng tục,xúc phúc phạm cô giáo. Qua nhiều lần tiếp xúc gia đình em Lợi đưa ra giải pháp vừa cương vừa nhu khuyến khích động viên kịp thời. Đến nay em đã có những biểu hiện tiến bộ không còn những hành vi trên và hòa nhập cùng tập thể xây dựng góp ý trong giờ học.
Em Phạm Thị Anh Đào: lầm lì ít nói có thái độ không hợp tác thường xuyên không làm bài tập hay đưa ra hàng loạt lí do. Gia đình buôn bán ở chợ rất bận rộn việc quan tâm con cái chủ yếu bằng tiền nên việc học của em Đào ngày một yếu hơn. Tiếp xúc với gia đình đưa ra giải pháp. Qua một thời gian rèn luyện cùng sự giúp đỡ của bạn bè trong lớp Đào đã có những biểu hiện tích cực trong học tập, hòa đồng với bạn bè chào hỏi thầy cô và những người lớn tuổi.
Đa phần là con dân tộc Ê đê tại chỗ gia đình thuần nông hạn chế về ngôn ngữ học thức hạn chế, là con hộ nghèo, chủ yếu chỉ lo kiếm ăn không quan tâm đến việc dạy dỗ con cái.Thực hiện các biện pháp:
– Giám sát việc học hành của các ở lớp và ở nhà, tổ trưởng kiểm tra sách vở bài tập các em hoàn thành chưa nếu vì chưa hiểu giáo viên giảng lại và giúp đỡ.
– Giáo viên khi giảng bài dành các câu hỏi dễ cho các em yếu để kích thích tích học tập tự lực, khen ngợi kịp thời tạo sự hưng phấn.
– Là các em vừa học yếu vừa mắc khuyết điểm về hành vi.cần đưa ra biện pháp giải quyết:
– Phối hợp với gia đình để các em tránh tiếp xúc nhiều với những bạn không đi học, lêu lỏng những vấn đề xã hội như hút thuốc, uống rượu…
– Cho các em đảm nhiệm vai trò,chức vụ trong lớp đưa các em hòa đồng cùng các bạn để học sinh cảm nhận mọi người tin yêu và cần mình.từ đó các em dần ý thức và tiến bộ.
– Giáo viên tuyên dương khen thưởng kịp thời, cũng như nhắc nhở những vấn đề học sinh chưa tiến bộ trong mỗi trường hợp các em vừa mắc phải đối với học sinh dân tộc tiểu số giáo viên cần giúp các em phân biệt đúng sai. Bởi các em có thể chỉ là những hành vi bắt chước, đua đòi không phân biệt hay dở, đúng sai.
– Đề ra cho mỗi học sinh cá biệt quy chế mới. Sau mỗi tuần sinh hoạt cho học sinh tự đánh giá, học sinh khác nhận xét sự tiến bộ, giáo viên nhận xét lại và nhận định tuyên dương. Từ đó các em tự nhận thức và dần tiến bộ.
– Cùng với ân cần giúp đỡ các em tiến bộ giáo viên cần thể hiện tính cương quyết, dứt khoát nghiêm khắc phê bình những hành vi quá đà hoặc tái phạm, yêu cầu học sinh hứa hẹn về sửa đổi trong thời gian kế tiếp, ghi chép lại như bản cam kết danh dự để học sinh dựa làm tiêu chí phấn đấu.
– Nêu một số gương mặt học sinh cá biệt phấn đấu tốt cho các em làm mục tiêu phấn đấu, qua đó thấy được bản than các em có giá trị cho gia đình cũng như cho xã hội.
* Trong mỗi giờ sinh hoạt mỗi ngày đầu giờ giáo viên giúp đỡ các em tháo gỡ những khó khăn trong học tập (bài tập khó giáo viên giảng lại) tiếp cận gần gũi là vấn đề then chốt trong việc rèn luyện học sinh cá biệt.
Giao nhiệm vụ cho học sinh khá giỏi giúp đỡ các em hòa đồng với bạn bè (thông thường học sinh cá biệt hay bị bạn bè tách rời không tiếp cận hoặc sợ gặp phải phiền phức).
Cùng với ân cần giúp đỡ các em tiến bộ giáo viên cần thể hiện tính cương quyết, dứt khoát nghiêm khắc phê bình những hành vi quá đà hoặc tái phạm, yêu cầu học sinh hứa hẹn về sửa đổi trong thời gian kế tiếp, ghi chép lại như bản cam kết danh dự để học sinh dựa làm tiêu chí phấn đấu.
Nhờ phụ huynh giúp đỡ giám sát hành vi của các em ở nhà, ở môi trường xã hội, giám sát thời gian biểu của học sinh tránh lêu lỏng.
Tính từ đầu năm áp dụng các biện pháp giáo dục nêu trên cho đến cuối học kỳ I năm học ……….., kết quả như sau:
Đầu năm có 14 em học lực loại yếu, đến hết học kỳ I chỉ còn 4 em chiếm tỉ lệ 12%, giảm 32,4 % so với đầu năm.đa phần các em đã có ý thức học tập, chăm chú nghe giảng, phát biểu trong giờ học, về nhà làm bài và học bài đầy đủ: .. … đến cuối kỳ I đã vươn lên ở mức học trung bình. Đa số các em đã biết thực hiện những phép tính toán cơ bản, đọc thông, viết đúng chính tả.Bên cạnh những tiến bộ vượt bậc vẫn còn những em yếu do tiếp thu chậm viết sai nhiều như em ……
– Đầu năm có 4 em, đến nay không còn em nào thuộc dạng cá biệt về đạo đức. Các em đã biết vâng lời, không còn nói tục, chửi thề tại trường học, không còn tình trạng đánh nhau. Một số em từ là học sinh có đạo đức kém biết chào hỏi thầy cô và người lớn tuổi, không còn hành vi lỗ mãng.
: ……………. không còn thái độ bất kính thầy cô, tham gia nghiêm túc các nội quy của lớp, hòa đồng cùng bạn bè,được bạn bè tín nhiệm và bầu làm tổ trưởng phụ trách việc kiểm tra sách vở của cả tổ.
– …… tiến bộ nhiều trong cách đọc, riêng em Đào viết chính tả tiến bộ vượt bậc.
Trong quá trình giảng dạy nhiều năm cũng như thời gian thực hiện đề tài hơn một học kì ,bản thân tôi tương đối thành công về mặt giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt. Các em có hành vi chưa tốt cơ bản đã tiến bộ rõ rệt,nhận thức đúng trong việc học tập và vui chơi, có tiến bộ trong các buổi học, xung phong phát biểu, trao đổi nói chuyện bạn bè có tính thân thiện và hòa nhã,cải thiện nhiều trong cách viết chính tả, đọc và làm toán. Tuy nhiên, việc giáo dục không phải là điều làm được trong thời gian ngắn mà cả một quá trình cần nhiều thời gian và công sức, phải phối kết hợp nhiều lực lượng và các thành phần cùng tham gia, phải biết kết hợp nhiều phương pháp để giáo dục học sinh. Để các em sẽ là chủ tương lai của đất nước theo lời Bác Hồ: ” Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang, sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ ở công học tập của các cháu”
– Giáo viên chúng ta cần thường xuyên theo dõi, nhắc nhở, làm gương nhằm giúp các em hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống. Nếu bản thân giáo viên xem nhẹ những việc làm trên thì khó hình thành giáo dục học sinh cá biệt. Cần gắn liền từ gia đình – nhà trường – xã hội một cách hài hòa khắc phục từng bước khó khăn.
– Với đề tài “Biện pháp rèn luyện và giáo dục học sinh cá biệt” tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ vào tiếng nói chung của giáo dục, hy vọng rằng giáo dục địa phương nói riêng và nền giáo dục nói chung sẽ toàn diện hơn…
– Mong được sự quan tâm của ban giám hiệu tổ bộ môn.
– Đề tài áp dụng rộng rãi.
– Mong được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để đề tài đạt hiệu quả cao trong quá trình áp dụng vào thực tiễn.
Để đào tạo một con người tương đối hoàn thiện (có kiến thức và phẩm chất đạo đức tốt) tôi mong rằng Ban giám hiệu nhà trường, các cơ quan ban ngành cùng với hội cha mẹ học sinh quan tâm, tạo mọi điều kiện hơn nữa (về cả tinh thần và vật chất) cho chúng tôi thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Sáng Kiến Kinh Nghiệm: Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt
1/ Mục đích ý nghĩa :
Xuất phát từ mục đích ý nghĩa của Nhà trường xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người mới phát triển toàn diện , con người mới có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước . Muốn tạo nên những con người mới thì Nhà trường phải là nơi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người toàn diện nhất , những con người đó chính là Học sinh , mà đặc biệt là Học sinh tiểu học , các em là những người chủ tương lai của đất nước , vì vậy chúng ta phải biết cách rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Trong thực tế mỗi Học sinh đều có một hoàn cảnh khác nhau , hoàn cảnh sẽ có tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của Học sinh , chính vì thế mà phương pháp Giáo dục Học sinh cá biệt sẽ giúp cho một số Học sinh cá biệt trở thành Học sinh bình thường hoà nhập với cộng đồng xã hội và trở thành những người hữu ích cho Đất nước .
PHÒNG GD SƠN HÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN BAO --------------™&˜------------- ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM -----------------------------™&˜----------------------------- TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Người viết: Ngô Thị Kim Lan Đơn vị : Trường tiểu học Sơn Bao THÁNG 9 NĂM 2006 ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM -----------------------------™&˜----------------------------- TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Mục đích ý nghĩa : Xuất phát từ mục đích ý nghĩa của Nhà trường xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người mới phát triển toàn diện , con người mới có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước . Muốn tạo nên những con người mới thì Nhà trường phải là nơi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người toàn diện nhất , những con người đó chính là Học sinh , mà đặc biệt là Học sinh tiểu học , các em là những người chủ tương lai của đất nước , vì vậy chúng ta phải biết cách rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Trong thực tế mỗi Học sinh đều có một hoàn cảnh khác nhau , hoàn cảnh sẽ có tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của Học sinh , chính vì thế mà phương pháp Giáo dục Học sinh cá biệt sẽ giúp cho một số Học sinh cá biệt trở thành Học sinh bình thường hoà nhập với cộng đồng xã hội và trở thành những người hữu ích cho Đất nước . 2/ Lý do chọn đề tài : Nền Giáo dục nước ta đang trên đà phát triển , tuy nhiên vẫn càng nhiều hiện tượng mà đặc biệt là Học sinh cá biệt ngày càng tăng ở các trường học nói chung và đối với trường tiểu học Sơn Bao nói riêng . đây là vấn đề bứt thiết , là tiếng kêu của toàn xã hội mà đặc biệt là ngành Giáo dục đóng vai trò chủ chốt trong việc Giáo dục thế hệ trẻ . Trong thực tế hiện nay , nhiều gia đình gặp không ít khó khăn , không đủ điều kiện nuôi con ăn học cho nên đã cho con ở nhà giúp việc gia đình và cho đi làm ăn xa , một số gia đình có nhận thức kém nên không quan tâm gì đến việc học của con em , giao hẳn cho Nhà trường . Mặc khác Sơn Bao là một xã vùng cao của huyện Sơn Hà , kinh tế của người dân càng quá nghèo , tỉ lệ hộ đói - hộ nghèo chiếm 70% , việc kiểm soát học hành của con em ở một số phụ huynh chưa đúng mức , từ dó đã làm cho các em đi học tuỳ theo sở thích , có nhiều em chán nản , quậy phá hoặc làm ra vẽ cho mình nổi bật trước lớp . Đứng trước thực trạng này , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm cho nên có cảm nghỉ mình phải làm sao đó và phải có trách nhiệm Giáo dục các em trở thành người Học sinh ngoan , vì đa số các em chưa ý thức được việc của mình làm. Vậy chúng ta là Giáo viên có hiểu nguyên nhân dẫn đến những việc làm đó không ? Tại sao chúng ta không tìm ra biện pháp Giáo dục Học sinh các biệt . Từ những câu hỏi đặc ra đó tôi đã quyết định tìm hiểu và viết sáng kiến kinh nghiệm mà đã chọn đề tài nêu ở trên . Đề tài này đã áp dụng từ năm học 2002-2003. PHẦN II : NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Bản thân tôi đưqợc trường phân công giảng dạy lớp hai nhiều năm , nhìn chung ở lớp hai , các em Học sinh càng nhỏ , thơ ngây . Chính vì thế mà chúng ta phải ra sức rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Thực tế trong mỗi lớp học có nhiều đối tượng Học sinh , trong đó cũng không thể không nói đến Học sinh cá biệt . qua đây tôi xin trình bày những suy nghĩ và những việc mình đã làm trong công tác chủ nhiệm , đó là Giáo dục Học sinh cá biệt . Vậy Học sinh có biểu hiện như thế nào gọi là Học sinh cá biệt và chúng ta có những biện pháp Giáo dục ra sao để các em trở thành những Học sinh bình thường như bao Học sinh khác , đó là nội dung của sáng kiến kinh nghiệm tôi xin trình bày sau đây . 1/ Đặc điểm của Học sinh cá biệt : đối với những Học sinh cá biệt luôn luôn có tính hiếu động , thích tìm tòi và luôn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào , thời điểm nào . Trước hết chúng ta nên nói đến tính cách của trẻ là sự kết hợp độc đáo giữa đặc điểm tâm sinh lý của trẻ với điều kiện hoàn cảnh sống nhất định . Biểu hiện của trẻ là nhanh nhẹn , hoạt bát cùng với sự nghịch ngợm , bất ổn định kèm theo , bên cạnh đó học tập có thể là học yếu hoặc trung bình , vì các em đó trong lớp ít chú ý hoặc thậm chí không chú ý khi cô giáo giảng bài , luôn quậy phá các bạn ngồi bên cạnh , gây mất trật tự trong lớp . Biểu hiện về mặt thái độ của trẻ với chung quanh và bản thân , những đứa trẻ hiếu động này thuộc kiểu thần kinh mạnh , cân bằng và linh hoạt . biểu hiện của trẻ là ham hoạt động , ham hiểu biết , linh hoạt , thường vui vẻ , vô tư , cảm xúc của trẻ bất ổn định , rung cảm nhưng không sâu , nhanh nhớ , mau quên . Biểu hiện rõ nét nhất của đặc tính này là bất cứ điều gì hấp dẫn , thích thú vừa sức thì các em sẽ làm ngay , tập trung chú ý rất tích cực , càng trong học tập thì đòi hỏi phải kiên trì , chịu khó động não để làm bài , chiếm lĩnh kiến thức thì các em đâm ra chán nản , ít chú ý hoặc không chú ý nên kết quả học tập thấp . Chính vì điều đó , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm , đặc biệt là Giáo viên tiểu học , khi các em đến trường tôi luôn tạo cho các em và có cảm giác tôi giống như một người mẹ , luuôn có trách nhiệm theo sát các em từng giờ và trong mỗi buổi học để hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của từng em thì mới có hình thức , phương pháp , biện pháp dạy học phù hợp với các em thì mới đem lại kết quả cao . Đặc biệt cũng cần tạo không khí lớp học , trường học như chính ở nhà của các em , khi đo các em mới có cảm giác được quan tâm chăm sóc và tình yêu thương thật sự để học tập tốt . 2/ Biện pháp thực hiện : Đối với những trẻ nghịch ngợm , hay nói chuyện riêng , sau mỗi lần giảng bài xong , hoặc các em đã làm xong bài tập , các em không biết làm gì nên hay trêu chọc các bạn gây mất trật tự trong lớp Cô giáo nói không nghe , theo tôi cần giáo dục các em như sau : + Thường xuyên quan tâm sâu sát hoạt động của các em + Thường xuyên nhắc nhở động viên kịp thời + Khích lệ khi em có tinh thần tập thể và lòng vị tha + Không nên phê bình , trách phạt + Không nên sĩ nhục , xúc phạm đến các em + Tránh hình thức áp đặc doạ dẫm , buột các em phải làm theo vì điều đó sẽ không đem lại kết quả gì + đặc biệt Giáo viên không nên để các em có thời gian rỗi + Kết hợp giữa ba môi trường Giáo dục Gia đình - Nhà trường và Xã hội Sỡ dĩ tôi áp dụng các biện pháp nêu trên , vì như tôi đã nói lứa tuổi các em càng nhỏ và rất thơ ngây , các em luôn xem thầy - cô như một hình tượng , luôn làm theo cô, theo thầy . Mặt khác Giáo dục Học sinh không phải chỉ mang lại cho các em kiến thức , kĩ năng , mà còn phải Giáo dục cho các em về sự hình thành nhân cách , về lối sống , cách cư xử trong cuộc sống đời thường , vì vậy trước hết Giáo viên phải mẫu mực , lời lẽ phải chuẩn xác , trong sáng , gần gũi các em , tránh những lời nói thô tục , hành động thô bạo . Đặc biệt Giáo viên cần vạch rõ ranh giới giữa các việc , khi cấm các em không được làm việc gì đó thì phải nêu rõ nguyên nhân để các em hiểu được việc đó là sai , không nên làm . còn đối với những việc các em được làm , Giáo viên cũng cần giới hạn khung cảnh và những việc nên làm , dù đó là những việc rất nhỏ , vì làm như thế giúp các em hiểu rõ vì sao phải làm như thế này mà không làm như thế kia , và cũng không nên bắt buộc các em phải làm những điều mà các em không hiểu làm để làm gì . Khi các em đã hiểu được những yêu cầu của Giáo viên , khi ấy Giáo viên đưa ra tình huống để các em làm một cách thường xuyên . Việc làm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ từng bước tạo thành thói quen , nề nếp , nhu cầu và không cảm thấy khó chịu thì các em dần dần sẽ trở nên tiến bộ , hoà nhập với cộng đồng . Tuy nhiên công việc này không thể chỉ có Giáo viên làm mà cần phải phối hợp nhịp nhàng , đồng bộ giữa Giáo viên chủ nhiệm và gia đình Học sinh , Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên gần gũi với phụ huynh Học sinh để tìm hiểu trao đổi các hoạt động của các em xảy ra hằng ngày hoặc báo cáo những tiến bộ và nảy sinh những cái gì mới ngoài dự kiến của chúng ta thì khi đó Giáo viên chủ nhiệm cùng phụ huynh Giáo dục , uốn nắn ngay từ đầu và kịp thời . Trong học tập Giáo viên phải có kế hoạch cụ thể , ở lớp phải chú ý đến việc sắp xếp , bố trí chỗ ngồi cho hợp lý . Học sinh yếu nên bố trí cho ngồi ở bàn trên , bố trí ngồi cạnh bạn học giỏi hơn để Giáo viên dể theo dõi , giúp đỡ các em trong từng môn học . Giáo viên cần dành sự quan tâm đến việc học tập của những Học sinh này nhiều hơn , thường xuyên kiểm tra bài về nhà , học tập ở lớp , kết quả tiếp thu bài sau mỗi buổi dạy . Giáo viên cần phân công giao nhiệm vụ cho bạn Học sinh giỏi giúp bạn học yếu bằng cách : Truy bài trước giờ vào lớp , kiểm tra bài về nhà , nhắc nhở bạn , giảng giải thêm khi bạn chưa hiểu được bài , chưa biết cách làm bài , không trách ,sĩ nhục bạn . Cứ tiến hành như thế , Giáo viên sẽ theo dõi được sự tiến bộ hoặc không tiến bộ của Học sinh để phối hợp với gia đình Học sinh cùng hướng dẫn thêm việc học ở nhà của các em đồng thời Giáo viên cũng có kế hoạch điều chỉnh hợp lý . Ngoài việc học ở nhà , ở lớp , Giáo viên càng tổ chức phụ đạo cho những Học sinh yếu ở ngoài giờ để nâng cao trình độ cho các em . Trong những buổi phụ đạo Giáo viên giảng lại kiến thức cũ đã học trong tuần để giúp các em nắm chắc bài và làm bài tốt hơn . Tuy nhiên Giáo viên tiến hành từng bước yêu cầu thấp đến yêu cầu cao , không nên vội vàng sẽ gây chán nản cho các em . Khi nhận thấy các em có sự tiến bộ cần khuyến khích kịp thời , khi các em làm sai hoặc không tiến bộ cần động viên chỉ bảo nhẹ nhàng , tránh nói những lời nặng nề xúc phạm đến nhân cách của Học sinh , đặc biệt là không nên bình phẩm Học sinh "Sao em học dốt thế" . Ngoài việc Giáo dục Học sinh cá biệt về đạo đức và học tập , Giáo viên chủ nhiệm cũng cần chú ý đến chữ viết của các em , vì thông qua chữ viết nó thể hiện được tính nết của con người . Rèn chữ viết đúng mẫu , đúng chính ta û , đúng tốc độ quy định và giữ vở sạch . Muốn rèn chữ viết trước hết phải rèn đọc đúng , phát âm đúng các phụ âm đầu , tập các em có đức tính cẩn thận ở tất cả các môn học . Để thực hiện được điều này Giáo viên phải mẫu mực khi viết và trình bày bảng , vì vậy cần rèn chữ viết cho Học sinh lớp 1; 2 đó là góp phần vào phong trào giữ vở sạch đẹp và trong sáng của tiếng việt mà tôi tin chắc chúng ta ai cũng làm được việc này . Tóm lại : Để Giáo dục Học sinh cá biệt tốt , trước hết người Giáo viên chủ nhiệm phải mẫu mực để Học sinh noi theo , luôn gần gũi , thương yêu và tôn trọng Học sinh , phải dành nhiều thời gian cho các em , đôn đốc nhắc nhở , tạo niềm tin cho các em , phải là người nhiệt tình với nghề nghiệp , tôn trọng với công việc , tất cả vì Học sinh thân yêu , vì tương lai của các em . Có như thế mới xứng đáng với câu " mỗi thầy giáo - cô giáo là một tấm gương sáng cho Học sinh noi theo", dạy học không chỉ đem lại kiến thức mà phải kết hợp cả dạy người . Đối tượng Học sinh cá biệt phần lớn là những Học sinh nghèo , thiếu giáo dục , ít được sự quan tâm của gia đình chính vì thế mà chúng ta cần phải luôn quan tâm , theo sát và tìm hiểu hoàn cảnh của từng Học sinh để tạo điều kiện học tập cho các em , luôn trao dồi đạo đức cho các em bằng chính lòng thương yêu thực sự của mình , từ đó sẽ cảm hoá được các em để các em hiểu và hoà nhập vào cộng đồng như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác trong xã hội . Công việc này tuy lúc đầu rất vất vả , tốn nhiều công sức , nhưng để theo dõi , uốn nén các em từng li , từng tí , khi các em đã tiếp thu những cái mới , nhận biết được nhiệm vụ của Học sinh dần dần đưa các em vào nề nếp học tập , có thời khoá biểu học ở nhà , các em trở thành thói quen , từ đó các em sẽ tiến bộ và bắt đầu ham học , kết quả học tập sẽ khả quan hơn . Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường Giáo dục thì mới thực sự đem lại hiệu quả cao . Sáng kiến này tôi đã áp dụng từ bao năm qua nhưng đặc biệt nhất là năm học 2002 - 2003 sáng kiến này mới thật sự có hiệu quả và áp dụng mãi đến nay . Cụ thể năm học 2002 - 2003 tôi dạy lớp 2A đó là năm đầu tiên áp dụng chương trình thay sách , lớp tôi có một Học sinh là Đinh Văn Vẹt , em là dân tôc H rê , em có đặc điểm là nghịch ngợm ít chú ý . nhưng lại học được , khi nhận lớp tôi đã phát hiện ra ngay diều này , càng hoàn cảnh gia đình em thì rất khó khăn , Mẹ mất sớm , Bố thì lấy vợ khác , và lúc nào cũng hay nhậu nhặc . Thời gian đầu em ở với bố mẹ , sau đó em về ở với anh trai , gần nhà của tôi . Đến lớp em chép bài chỉ là đối phó , chữ viết cẩu thả , biết làm toán nhưng không làm , nghĩa là thích thì làm , không thích thì thôi và luôn nói bằng tiếng của người địa phương . Từ đó tôi đã thực hiện như sau : + Ở miền núi Học sinh được phát vở nên vở của em không thiếu nhưng viết của em thì không có , trong lớp học tôi thấy em không chép bài nên liền lại hỏi vfa em đã cho biết là không có bút , thế là tôi đã lấy bút của mình để cho em và dặn dò nhắc nhở . Nhìn anh mắt của em ngơ ngác nhìn tôi , lúc này tôi cảm nhận được niềm vui sướng tràn ngập trong lòng của em , tôi hướng dẫn cho em viết và thường xuyên kiểm tra vở , việc này tôi thực hiện suốt cả một tuần và tôi đã nhận thấy em đã có sự tiến bộ rõ rệt , em đã ngoan hơn và không có nghịch như trước nữa , đặc biệt là giờ học toán em đã bắt đầu giơ tay xin lên bảng làm , có lúc em làm đúng , cũng có lúc làm sai , tôi luôn luôn khen ngợi và động viên . Bằng những câu nói nhẹ nhàng , những lời chỉ bảo tận tình của tôi , em đã ý thức được việc học của mình . Bên cạnh đó thời gian ngoài giờ tôi thường sang nhà để gặp phụ huynh và phối hợp với phụ huynh để cùng giáo dục em , thường xuyên động viên , khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em tham gia học tập tốt . Thực sự là tôi rất mừng khi thấy em tiến bộ , nhưng niềm vui mừng lại tăng lên gấp bội vì kết quả học kì I của em là Học sinh khá , đến học kì II em là Học sinh giỏi của lớp . Kể từ đó em thật sự đã trưởng thành và luôn làm gương cho các Học sinh khác noi theo , từ năm học đó về sau em đều là Học sinh giỏi của lớp . Tôi là Giáo viên chủ nhiệm , tôi cảm thấy rất mừng và tràn đầy hạnh phúc khi nhìn thấy sản phẩm của mình sáng kiến , cải tiến lại có chất lượng cao như thế và đó cũng chính là kết quả lớn nhất của tôi trong những năm qua . 3/ kết quả đạt được : Trong suốt thời gian qua bản thân tôi luôn mẫu mực trong mọi công tác , hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao , đặc biệt là công tác chủ nhiệm , tuy vùng cao nhưng tôi luôn đảm bảo duy trì sĩ số Học sinh , về Giáo dục Học sinh cá biệt có được ngững kết quả cao tỉ lệ Học sinh khá , giỏi nhiều , đảm bảo chỉ tiêu Học sinh lên lớp 100% PHẦN III : KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 1/ Kết luận : Tự hào về nghề nghiệp của mình là người ươm mầm non cho Tổ quốc , là người Giáo dục thế hệ trẻ trở thành người chủ tương lai của đất nước . Một thế hệ mà Bác Hồ hết sức chăm lo , quan tâm : " Non sông Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không , phần lớn là nhờ vào công học tập của các cháu" . Vâng lời Bác dạy , bản thân tôi là người ươm mầm cho đất nước , tôi nguyện ra sức phấn đấu hết sức mình để tạo cho các em một tương lai tốt đẹp , góp một phần công sức của mình vào việc xây dựng quê hương đất nước . 2/ Kiến nghị - đề xuất : Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp thực hiện công tác này , do đó phải nắm vững đặc điểm của từng em và điều kiện hoàn cảnh gia đình để tạo điều kiện cho các em học tập và rèn luyện . Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua học tập , để các em được tham gia và phải có khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích , động viên các em . Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên hệ với gia đình học sinh để báo cáo kết quả học tập và rèn luyện của học sinh cho phụ huynh nắm . Lập kế hoạch dạy phụ đạo cho Học sinh yếu kém . Nhà trường cần phải quan tâm bồi dưỡng đội ngũ Giáo viên của trường về công tác chủ nhiệm lớp để đưa phong trào của nhà trường ngày càng vững mạnh hơn , không có Học sinh cá biệt , xứng đáng là nhà trường xã hôi chủ nghĩa . Sơn Bao, ngày :.././ Người viếtĐề Tài Thực Trạng Và Giải Pháp Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Cá Biệt Ở Trường Thpt
cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục khác bên cạnh hoạt động dạy và học như: đố vui để học, hái hoa kiến thức, các hoạt động văn thể, cắm trại, ngoại khóa chuyên đề, tham quan dã ngoại, ... chính các hoạt động này có tác dụng bổ trợ rất lớn đến hoạt động dạy và học, góp phần thu hút học sinh la cà các hàng quán, các nơi giải trí bi-a, điện tử, ... thực tế những nơi này đang tiềm ẩn khá nhiều tiêu cực ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt của các em. Điều này đã được các phương tiện thông tin, báo chí, truyền hình đưa tin không ít. I. Xây dựng môi trƣờng trong sáng để giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt 1. Ý nghĩa Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là: cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là "nhà trường", tự đúng nghĩa của nó là mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã hội. 16 2. Nội dung a. Tổ chức, sắp xếp, tu sửa, trang điểm bộ mặt vật chất, khung cảnh của nhà trường làm sao cho toàn trường đều toát lên ý nghĩa giáo dục đối với học sinh. b. Tạo nên bầu không khí giáo dục trong toàn trường và ở mỗi lớp học, hình thành nên một phong cách sinh hoạt của nhà trường , biểu hiện như sau: - Nề nếp tốt: trật tự, vệ sinh, ngăn nắp, nghiêm túc. lạc hậu, có phong trào thi đua sôi nổi đúng thực chất. - Có quan hệ tốt giữa các thành viên trong trường: giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa học sinh với nhau. Trong các mối quan hệ phải thực sự đúng mực, hài hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học sinh. Học sinh không hỗn xược, không khúm núm sợ sệt, yêu mến và tin tưởng thầy cô. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không thù hằn, bè cánh đánh nhau, không nói tục chửi bậy, không tham gia vào tệ nạn xã hội. - Phối hợp chặt chẽ với PHHS có kết quả học tập chưa cao để tìm ra biện pháp giúp đỡ động viên các em phấn đấu tốt hơn. - Phối hợp với PHHS động viên tinh thần cho những em có nhà xa, tạo điều kiện tốt trong học tập cũng như trong việc tham gia phong trào ở trường lớp. - Đề cử, động viên những em học khá, giỏi giúp đỡ những bạn học còn yếu và trung bình tiến bộ hơn trong học tập bằng cách tổ chức học nhóm, truy bài, giải đáp một số thắc mắc trước khi vào tiết học. - Trao đổi với giáo viên bộ môn giúp các em còn yếu bộ môn đó cố gắng học tập để tiến bộ hơn c. Cách làm 1. Đối với Hiệu trưởng 17 - Phải xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt ngay từ đầu năm học trên cơ sở dựa vào tình hình thực trạng đạo đức của học sinh, tình hình thực tế của địa phương để định ra, nội dung, biện pháp, thời gian, chỉ tiêu cho phù hợp. - Phải thường xuyên nắm tình hình tư tưởng đạo đức của học sinh cá biệt một cách cụ thể bao gồm tình hình có tính chất thường xuyên, lâu dài, phổ biến và những tình hình có tính chất thời sự, cá biệt có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với học sinh. - Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, đầu tư ngân sách để cải tạo cảnh quang sư phạm: trồng cây xanh, hoa kiểng, trang trí các khẩu hiệu, nội quy của từng phòng học và trong khu vực trường, xây dựng cổng rào an toàn cho học sinh. - Thường xuyên tổ chức lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh thông qua buổi lao động cần giáo dục đầy đủ mục đích, ý nghĩa công việc cho học sinh, phải có phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị lớp, quy định rõ thời gian và kết quả phải đạt được, phải có kỷ luật, trật tự, không khí tươi vui, biểu dương kịp thời những học sinh tốt, tập thể lớp tốt. - Tổ chức họp tham khảo ý kiến hội đồng giáo viên để đưa ra những quy định cụ thể về nội quy nhà trường, nhiệm vụ của học sinh, dựa trên cơ sở điều lệ trường trung học cơ sở của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2007. - Kết hợp với chính quyền địa phương giải tỏa các hàng quán trước cổng trường, các điểm vui chơi giải trí và truy cập internet xung quanh trường theo đúng quy định của ngành chức năng. - Tổ chức các phong trào thi đua thường xuyên, liên tục, bảo đảm tính công bằng, trung thực, phù hợp với năng lực và nhu cầu của các em. - Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm xây dựng lớp thành những tập thể vững mạnh, có lực lượng cốt cán làm nòng cốt, làm hạt nhân cơ bản của lớp, là trợ thủ đắc lực cho giáo viên chủ nhiệm. 18 2. Đối với giáo viên - Phải gương mẫu về mọi mặt, đoàn kết, nhất trí thành một khối thống nhất có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh cá biệt. - Phải không ngừng tự hoàn thiện nhân cách của mình, phải thương yêu, tôn trọng, tin tưởng học sinh, có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi ngôn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh cá biệt, đồng nghiệp, bản thân phải là tấm gương cho học sinh noi theo. 3. Đối với Đoàn trường: - Chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn tổ chức tốt phong trào thi đua học tập, rèn luyện. - Tổ chức sinh hoạt Đoàn tạo sân chơi lành mạnh cho các em cá biệt. - Giáo dục tinh thần yêu nước cho các em thông qua việc sưu tầm các tác phẩm truyền thống, viết về những điễn hình tiên tiến học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tham gia cuộc thi Nét bút tri ân, II. Nâng cao chất lƣợng giảng dạy bộ môn GDCD ở trƣờng THPT 1. Ý nghĩa Môn GDCD có vai trò, vị trí rất quan trọng trong giáo dục nhân cách học sinh cá biệt, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh THPT, vì thông qua các bài học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho học sinh những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc sống một cách có hệ thống, đúng phương pháp, đúng quy trình. Trong thực tế hiện nay của trường môn GDCD chưa được xem trọng, chưa có vị trí vai trò xứng đáng cần phải có trong nhà trường. Việc đưa ra những biện pháp để nâng cao vai trò, vị trí và chất lượng giảng dạy môn GDCD ở trường THPT Hồng Bàng là một việc làm có ý nghĩa đến công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt. 2. Nội dung: 19 2.1. Làm cho Cha mẹ học sinh, cán bộ giáo viên của trường nhận thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng của môn GDCD đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay, để từ đó họ có sự thay đổi nhận thức và có những hành động tích cực đối với việc dạy và học môn GDCD. 2.2. Giáo viên là lực lượng quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, do đó giáo viên nhất là giáo viên dạy GDCD phải được đào tạo chính quy đúng chuyên ngành giảng dạy, phải thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của môn GDCD, phải xác định được trách nhiệm của bản thân, chú trọng đầu tư cho giảng dạy . 2.3. Ban giám hiệu, giáo viên dạy môn GDCD cần quán triệt mục tiêu môn học trong quá trình dạy học. Phải nắm rõ cái đích cuối cùng cần đạt được trong dạy học GDCD là hành động phù hợp với các các chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Nếu học sinh cá biệt không có chuyển biến trong hành động thì việc dạy học không đạt hiệu quả. 2.4. Đổi mới kiểm tra, đánh giá môn GDCD là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt. - Yêu cầu khi kiểm tra đánh giá phải coi trọng đánh giá cả nhận thức và nội dung bài học. - Kiểm tra đánh giá phải chú trọng đến kiểm tra thái độ, tình cảm, các kỹ năng nhận xét đánh giá, phân biệt đúng sai, khả năng vận dụng và thực hành trong cuộc sống. - Qua việc kiểm tra đánh giá phải giúp đỡ học sinh thấy rõ được năng lực học tập môn học của bản thân, động viên khuyến khích học sinh học tập môn học và giúp giáo viên thấy rõ năng lực học tập của từng học sinh cá biệt để điều chỉnh việc dạy cho phù hợp. 3. Cách làm 3.1. Đối với hiệu trưởng: 20 - Tham mưu với cấp trên tổ chức chuyên đề về giáo dục đạo đức học sinh cá biệt cho cán bộ, đảng viên và giáo viên, thông qua đó quán triệt nhận thức nâng cao vai trò vị trí của bộ môn GDCD trong nhà trường. - Thường xuyên tổ chức họp hội đồng sư phạm triển khai các văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình môn GDCD. - Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chương trình, kiểm tra hồ sơ sổ sách, giáo án, dự giờ các tiết lên lớp của giáo viên dạy môn GDCD. - Đầu tư mua sắm sách, báo, tài liệu, trang bị tủ sách pháp luật, tạo điều kiện tốt cho giáo viên tham khảo và cập nhật kiến thức phục vụ giảng dạy bộ môn GDCD. III. Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp là giải pháp nâng cao chất lƣợng giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt 1.Ý nghĩa GVCN có vai trò rất to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt, vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường. Xuất phát từ thực trạng công tác chủ nhiệm của trường, việc đưa ra các biện pháp giúp GVCN định hướng đổi mới công tác chủ nhiệm cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương mang ý nghĩa quan trọng đối với công tác giáo dục đạo đức học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay. 2. Nội dung 2.1. Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh cá biệt là góp phần cho công tác chủ nhiệm đạt kết quả cao Do tính đặc thù của một địa bàn, trường có rất nhiều học sinh cá biệt có mối quan hệ gia đình rất đa dạng và phức tạp, việc tìm hiểu điểm tình hình lớp, 21 tình hình học sinh giúp cho GVCN thuận lợi trong quản lý, giáo dục học sinh cá biệt. Đầu năm học GVCN phải có những thông tin khái quát về gia đình học sinh cá biệt như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt. - Đầu năm học GVCN phải nắm được đặc điểm học sinh cá biệt về: sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô và ngoài xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh cá biệt về mọi mặt là rất cần thiết nhưng GVCN phải thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. - GVCN phải tìm hiểu cơ cấu, lứa tuổi, năng lực học tập, hoạt động, mối quan hệ giữa học sinh với học sinh cá biệt, học sinh với giáo viên, sự đoàn kết của lớp mình chủ nhiệm. 2.2. Nắm vững đường lối quan điểm của Đảng về công tác giáo dục, mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học đối với hs cá biệt. - Để vận dụng tốt vào công tác chủ nhiệm của mình, GVCN phải nắm vững mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học, kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học. - Để cho học sinh cá biệt chủ động hòa nhập, thực hiện nhiệm vụ chung, nhiệm vụ của lớp trong phong trào chung, GVCN phải nắm vững kế hoạch, nội dung và cách thực hiện của trường trong tuần, tháng học kỳ và cả năm học. - Phải nắm vững tri thức lý luận giáo dục, có nghệ thuật sư phạm, xây dựng và phối hợp tốt các mối quan hệ trong nhà trường và địa phương. 22 2.3. Tìm hiểu tiềm năng của cộng đồng, địa phương, xã hội, theo dõi thời sự trong nước và quốc tế để vận dụng những hiểu biết đó vào công tác chủ nhiệm - Để liên kết và phối hợp có hiệu quả giữa nhà trường, đại diện là GVCN với địa phương trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. - GVCN cần phải nắm được tình hình thời sự, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội để bổ sung kiến thực của mình thêm phong phú. 2.4. Cộng tác chặt chẽ với CMHS, chủ động phối hợp với giáo viên bộ động giáo dục đạo đức học sinh cá biệt. 2.5. Xây dựng những truyền thống tốt đẹp của lớp - Các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu nó được lập đi lập lại và trở thành thói quen. - Phải trân trọng truyền thống sẳn có của lớp, tiếp tục xây dựng truyền thống mới cho lớp trong điền kiện cụ thể. IV. Tích cực tham gia vào công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm, xét thi đua, khen thưởng và kỷ luật học sinh với tư cách là người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho học sinh. a. Cách làm 1. Đối Hiệu trưởng - Cần thực hiện tốt việc phân công giáo viên chủ nhiệm, lựa chọn những người có phẩm chất và năng lực tốt. - Tạo mọi điền kiện, đôn đốc, giúp đỡ GVCN làm tốt những nhiệm vụ, quyền lợi của GVCN. - Có kế hoạch cụ thể về công tác chủ nhiệm, có chỉ tiêu rèn luyện phấn đấu phù hợp với thực trạng của trường. 23 - Thường xuyên thu nhận thông tin về tình hình diễn biến đạo đức của học sinh cá biệt do GVCN cung cấp, có biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn những tình huống xấu xảy ra. - Thường xuyên kiểm tra số sách của giáo viên chủ nhiệm, dự các tiết sinh hoạt lớp của GVCN. - Tham mưu với các cấp giải quyết các vấn đề an ninh trật tự có liên quan đến học sinh cá biệt của trường. - Khen thưởng và xử lý kịp thời đúng người, đúng trường hợp. 2. Đối với GVCN - Nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh cá biệt: (học bạ, hoàn cảnh gia đình.) - Trao đổi với học sinh cá biệt để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu hướng sở thích của học sinh. - Trao đổi với giáo viên bộ môn, về tình hình của lớp. - Trao đổi với ban giám hiệu, Đoàn trường, Cha mẹ học sinh để có thêm những thông tin về đối tượng hs cá biệt mà GVCN cần tìm hiểu. - Thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời cho ban giám hiệu về tình hình đạo đức của học sinh cá biệt. - Một năm học GVCN đến nhà học sinh cá biệt ít nhất hai lần để nắm thông tin, thuyết phục cha mẹ học sinh tham gia họp đầy đủ. - Hàng tháng chuyển sổ liên lạc, báo cho bộ phận gửi tin nhắn đến gia đình học sinh cá biệt đúng thời gian quy định, xử lý thông tin phản hồi kịp thời, có hiệu quả - Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo, liên hệ với Cha mẹ học sinh cá biệt để giải quyết mau lẹ, có hiệu quả. - GVCN phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, trao dồi đạo đức nhà giáo để xứng đáng là tấm gương tốt cho học sinh noi theo. - Công tác duy trì sĩ số được xem là một tiêu chí để xếp loại GVCN giỏi. 24 3. Đối với GVBM, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường - Tích cực hỗ trợ GVCN trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt, phản ánh kịp thời với GVCN về tình hình học sinh của lớp. - Tham gia đóng góp ý kiến trong việc đánh giá xếp loại Hạnh kiểm, xét kỷ luật học sinh. Tóm lại : Nghiên cứu, tìm giải pháp khả thi về giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt bậc THPT sẽ giúp cho đội ngũ giáo viên và CBQL trường học xác định đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh cá biệt để có kế hoạch hoàn chỉnh, có sự quan tâm đúng mức trong việc giáo dục học sinh cá biệt, từ đó giúp cho tập thể sư phạm của trường thấy được nhiệm vụ quan trọng này để ngoài việc dạy chữ cho tốt còn phải lưu tâm, hết lòng giáo dục các em phát triển toàn diện cả tài lẫn đức. Chú trọng về đức: "Tiên học lễ, hậu học văn " Những vấn đề cơ bản về giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt đã được thể hiện qua hai con đường cơ bản: Con đường dạy học các môn học trong cụ thể là môn giáo dục công dân. Lồng ghép các môn học khác. Con đường hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. C. PHẦN KẾT LUẬN Trước thực trạng đạo đức của học sinh trường THPT có chiều hướng gia tăng nghiêm trọng, việc tìm ra giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt có hiệu quả có chất lượng là đòi hỏi cấp bách của gia đình, nhà trường và xã hội nhằm giáo dục những chuẩn mực cơ bản về đạo đức chân chính về truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam từ xưa cho đến ngày nay. Nhất là trong giai đoạn hiện nay: thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế tri thức. 25 Thực tế cho thấy, nếu các em chủ động tìm đến các hoạt động của nhà trường với thầy cô giáo thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn việc thầy cô giáo chủ động tìm đến các em. Góp phần giáo dục HSCB và làm giảm nguy cơ học sinh bỏ học là một công việc khó khăn, phức tạp, hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự kiên trì, lòng nhiệt tình, một trách nhiệm cao, một tình thương chân thành và cần thiết có một sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, có hiệu quả từ các lực lượng giáo dục nhất là vai trò của gia đình. Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em, hãy tôn trọng nhân cách các em. Thầy cô, bè bạn hãy gần gũi, cảm thông, độ lượng, chia sẻ, tạo điều kiện và cơ hội để các em sửa chữa những lỗi lầm, khuyết điểm hoặc phát huy những tài năng, sáng tạo (nếu có). Chúng ta hãy giúp các em lấy lại lòng tin, lòng tự trọng. Đừng bao giờ để các em đánh mất niềm tin ở chính bản thân mình. Bởi vì đánh mất niềm tin ở chính bản thân mình thì các em sẽ mất tất cả. Hãy đến với các em bằng tình thương, sự đồng cảm hơn là một người giáo dục. Những vấn đề tôi vừa trình bày đã và đang là một trong những bức xúc lớn, được sự đồng thuận của đông đảo các cán bộ quản lý giáo dục, các thầy cô giáo. Chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm cùng chia sẻ của đông đảo các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ là một trường THPT nên có nhiều vấn đề chưa được nhìn nhận một cách toàn diện. Một số phân tích có thể phiến diện không bao quát toàn cục của vấn đề, các giải pháp đưa ra chưa thể vận dụng hoàn hảo được trong các trường THPT hiện nay, nhưng tôi tin rằng ít nhiều đề tài cũng giúp cho các nhà QLGD thấy được thực trạng của đạo đức học sinh cá biệt hiện nay, để định hướng lại một số việc cần phải làm trong thời gian sắp tới nhằm góp phần thành công vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt ./. 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Công Liêm - Nguyễn Đức Vũ - Phƣơng pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - nhà xuất bản ĐH Sƣ phạm - 2004. 2. Gs-Ts. Nguyễn Quang Uẩn - Ts Nguyễn Văn Lũy - Ts Đinh Văn Vang - Tâm lý học đại cƣơng - NXB ĐHSP - 2003. 3. Tạp chí thế gời trong ta - năm 2010 - Hội khoa học tâm lý Việt Nam. 4.Gi¸o dôc häc - Tr-êng §¹i häc s- ph¹m HuÕ - 2004. 5.Gi¸o tr×nh: Gi¸o dôc t©m lý løa tuæi - Tr-êng §¹i häc s- ph¹m I Hµ Néi - 1998. 6. Giáo trình giáo dục học đại cƣơng - NXB Giáo Dục. 7. Một số vấn đề sáng kiến kinh nghiệm và cách viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục - Ths. Bùi Quý Khiêm. 27 PHỤ LỤC THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở TRƢỜNG THPT A. PHẦN MỞ ĐẦU chúng tôi 3 I. Lý do chọn đề tài : .tr 3 II. Mục đích của đề tài: tr 4 1. Giới hạn của đề tài tr 5 2. Vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu vào đề tài.tr 5 B. PHẦN NỘI chúng tôi 6 - Chƣơng I chúng tôi 6 - Cơ sở lý luận khoa học chúng tôi 6 1.Phương pháp thuyết phục....tr 7 2.Phương pháp rèn luyện chúng tôi 8 3.Phương pháp thúc đẩy chúng tôi 8 - Chƣơng II: Thực trạng công tác giáo dục sinh cá biệt ở trƣờng THPT Hồng Bàng, H.Xuân lôc, T.Đồng Nai chúng tôi 9 I. Thực trạng công tác giáo dục sinh cá biệt năm học 2010 - 2011 chúng tôi 9 1.Những quy trình GD đã vận dụng trong năm học chúng tôi 9 2. Chất lượng đạo đức nếp sống của học sinh cá biệt chúng tôi 12 Chƣơng III: Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng GD học sinh cá biệt.tr 13 I. Xây dựng môi trƣờng trong sáng để giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt tr 15 II. Nâng cao chất lƣợng giảng dạy bộ môn GDCD ở trƣờng THPT chúng tôi 18 III. Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp là giải pháp nâng cao chất lƣợng giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt chúng tôi 19 C. PHẦN KẾT LUẬN chúng tôi 24 28 29
Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!