Xu Hướng 6/2023 # Để Phát Triển Kinh Tế Số Ở Nước Ta Hiện Nay # Top 9 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Để Phát Triển Kinh Tế Số Ở Nước Ta Hiện Nay # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Để Phát Triển Kinh Tế Số Ở Nước Ta Hiện Nay được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Phát triển kinh tế số được nhiều quốc gia xem như là một xu thế tất yếu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam quyết tâm nắm bắt xu thế phát triển của thế giới, đồng thời thể hiện nỗ lực tập trung nguồn lực, tạo môi trường và điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế số.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là một yêu cầu quan trọng để phát triển kinh tế số ở Việt Nam_Ảnh: TTXVN

Thuận lợi cơ bản đối với sự phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Thế giới đang bước vào thời đại CMCN 4.0 với bản chất là dựa trên cuộc cách mạng kỹ thuật số. Vì vậy, kinh tế số đang trở thành đặc trưng và xu hướng phát triển kinh tế – công nghệ quan trọng nhất hiện nay. Về mặt khái niệm, tuy có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau, nhưng đa số đều thống nhất cho rằng kinh tế số là nền kinh tế mà các mối quan hệ, các hoạt động kinh tế và tài chính được thực hiện trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), in-tơ-nét và công nghệ viễn thông trong hệ thống mạng lưới sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường toàn cầu. Nói một cách khái quát, kinh tế số là nền kinh tế ra đời và phát triển dựa trên việc ứng dụng công nghệ số.

Dù đi sau trong cuộc CMCN 4.0, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên phát triển kinh tế số với nhiều lợi thế cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam thể hiện rõ quyết tâm, định hướng và nỗ lực hành động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Trong tầm nhìn chiến lược dài hạn, Báo cáo “Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ” đề ra nhiệm vụ tận dụng CMCN 4.0 và kinh tế số để đạt mục tiêu thoát “bẫy thu nhập trung bình”, phát triển bền vững, đưa Việt Nam vào nhóm hai mươi nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 1-1-2019, của Chính phủ, về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2019 đã đề ra các nhiệm vụ thúc đẩy kinh tế số, như xây dựng giải pháp phát triển nhân lực quốc gia đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0; thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia; xây dựng Chiến lược quốc gia về CMCN 4.0; phát triển bứt phá hạ tầng viễn thông, in-tơ-nét băng rộng và mạng di động 5G; xây dựng Đề án chuyển đổi số quốc gia, từng bước tạo môi trường pháp lý để triển khai kế hoạch chuyển đổi số; thay đổi mô hình quản trị, thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, nông nghiệp, du lịch, môi trường, đô thị thông minh… Trên thực tế, Chính phủ đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, hình thành cổng thông tin điện tử quốc gia, cải cách mạnh mẽ nền hành chính theo hướng số hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khẩu hiệu “Made in Vietnam” cũng được xem như một cương lĩnh hành động trong phát triển kinh tế của Chính phủ Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0.

Thứ hai, nguồn nhân lực là một lợi thế quan trọng cho việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Dân số gần 100 triệu người, 40% dân số dưới 25 tuổi, dân trí khá cao, có nền tảng toán học và công nghệ thông tin tương đối tốt, người Việt Nam được xem là yêu thích và nhanh nhạy trong nắm bắt công nghệ cũng như thích ứng khá nhanh với cái mới, đây chính là một trong những chìa khóa quan trọng để thúc đẩy kinh tế số.

Thứ ba, Việt Nam đang có những nền tảng hạ tầng khá thuận lợi cho việc chuyển đổi và ứng dụng số. Việt Nam có mạng lưới hạ tầng mạng viễn thông, công nghệ thông tin và in-tơ-nét phát triển nhanh chóng, bao phủ rộng khắp và hiện đại không thua kém các nước tiên tiến trên thế giới. Việt Nam có số dân dùng in-tơ-nét, điện thoại thông minh cao và nằm trong tốp đầu các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ như hiện nay, ngành thương mại điện tử của Việt Nam được dự báo có thể tăng mạnh lên tới 30% – 50%/năm và quy mô thị trường thương mại điện tử có thể đạt từ 13 đến 15 tỷ USD vào năm 2020.

Thứ năm, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất khu vực và thế giới. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục trong vòng hơn 30 năm qua và những năm gần đây luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 7%/năm. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh và một nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, sự gia tăng thu nhập của người dân, sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu và một thị trường nội địa gần 100 triệu dân là nền tảng và sức hút lớn thúc đẩy kinh tế số nói chung và TMĐT nói riêng phát triển.

Những hạn chế, thách thức đối với sự phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Một là, Việt Nam đi sau trong xu hướng kinh tế số, nhận thức, kiến thức của nhiều cán bộ, doanh nghiệp và người dân về kinh tế số, thời cơ và thách thức của nó đối với sự phát triển của đất nước còn chưa đồng đều ở các cấp, các ngành dẫn tới nhu cầu, kế hoạch và hành động nắm bắt xu thế kinh tế số còn chưa kịp thời, nhanh nhạy, sự chuyển đổi số ở một số cấp, ngành, địa phương và các doanh nghiệp còn hạn chế. Báo cáo kinh tế Việt Nam thường niên do Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội công bố cuối tháng 5-2019 cho thấy có tới 85% doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vẫn nằm ngoài nền kinh tế số, và chỉ có 13% ở cấp độ mới bắt đầu. Nhận thức về kinh tế số, nhu cầu và hành động theo xu thế kinh tế số còn chậm chạp, chưa đồng đều, thống nhất từ trên xuống dưới, từ chính quyền đến doanh nghiệp và người dân là một hạn chế góp phần làm chậm xu hướng số hóa nền kinh tế Việt Nam.

Hai là, môi trường pháp lý và thể chế cho phát triển kinh tế số ở nước ta vừa thiếu, vừa nhiều lỗ hổng, chưa chặt chẽ, đồng bộ, minh bạch và mang tính kiến tạo. Thời gian qua, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, kinh tế số cùng các phương thức kinh doanh và các ý tưởng sáng tạo mới xuất hiện và chưa có tiền lệ trước đây làm cho các cơ quan quản lý nhà nước tỏ ra khá lúng túng trong quản lý các hoạt động kinh tế số, như vấn đề quản lý và thu thuế đối với các hoạt động thương mại trực tuyến, nhất là kinh doanh qua các mạng xã hội và cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, vấn đề bảo đảm quyền lợi cho người lao động và người tiêu dùng qua thế giới mạng, việc xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt động cũng như lợi ích của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh, thương mại và dân sự trên môi trường số. Chúng ta cũng chưa có kế hoạch và phương án ứng xử với sự xuất hiện của các dạng đồng tiền số, thị trường Forex…

Ba là, thách thức về an ninh mạng, bảo mật, an toàn thông tin ở nước ta. Kinh tế số dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, in-tơ-nét chứa đựng nguy cơ lớn về bảo mật, an toàn thông tin, tài chính và tính riêng tư của dữ liệu, của các chủ thể kinh tế số. Việt Nam là một trong những quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất và cũng dễ bị tổn thương nhất khi bị tấn công mạng. Trong một thế giới ngày càng kết nối, khi kỹ thuật số trở nên phổ biến, việc ngăn chặn và giải quyết vấn đề tấn công qua mạng ngày càng trở nên cấp bách vì nó không chỉ là vấn đề an ninh, an toàn kinh tế, bảo mật thông tin cá nhân, doanh nghiệp mà còn là vấn đề an ninh quốc gia.

Bốn là, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế số. Việt Nam đang có sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông. Giáo dục Việt Nam chưa theo kịp xu thế phát triển vũ bão của kinh tế số, kinh tế sáng tạo của CMCN 4.0 trên thế giới hiện nay. Vấn đề này nếu không được quan tâm đầu tư thích đáng trong thời gian tới thì sẽ là một điểm nghẽn lớn cho phát triển kinh tế số ở nước ta.

Năm là, thói quen mua sắm theo kiểu truyền thống, tâm lý và thị hiếu tiêu dùng, thói quen dùng tiền mặt của người Việt Nam vẫn chiếm ưu thế, chưa dễ thay đổi mạnh mẽ trong một sớm một chiều. Hành vi kinh doanh và tiêu dùng của người dân khu vực ngoài thành thị vẫn chưa có nhiều chuyển biến, kinh tế số nói chung và TMĐT nói riêng vẫn có một khoảng cách lớn giữa thành thị với các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của nước ta. Người tiêu dùng Việt Nam, nhất là thế hệ người tiêu dùng trẻ và tầng lớp trung lưu giàu có vẫn có tâm lý ưa chuộng mua sắm hàng hóa và dịch vụ trực tuyến từ các thương hiệu nước ngoài hơn so với các trang bán hàng trực tuyến từ Việt Nam. Điều này, một mặt, do tâm lý của người tiêu dùng; mặt khác, cũng do các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư đúng mức cho hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, thích ứng với thị hiếu khách hàng, quan tâm xây dựng ảnh hưởng và uy tín thương hiệu, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, dịch vụ chăm sóc và bảo vệ người tiêu dùng sau bán hàng.

Việt Nam cần xác định chiến lược phát triển và hội nhập kinh tế số là xu thế của thời đại, là hướng đi quan trọng và tất yếu trong định hướng phát triển quốc gia_Ảnh: Tư liệu

Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy kinh tế số ở Việt Nam

Một là, cần trang bị kiến thức, thống nhất về tư tưởng và hành động cho cán bộ, đảng viên về kinh tế số, cơ hội và thách thức của Việt Nam trong đối ngoại và hội nhập quốc tế trong môi trường kinh tế số, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ tư duy lãnh đạo quản lý và điều hành kinh tế – xã hội trong điều kiện kinh tế số. Việt Nam cần xác định chiến lược phát triển và hội nhập kinh tế số là xu thế của thời đại, là hướng đi quan trọng và cần thiết trong định hướng phát triển quốc gia và hội nhập quốc tế, là cơ hội cho Việt Nam bứt phá. Môi trường CMCN 4.0 và kinh tế số cần một cuộc cách mạng trong tư duy quản lý và xây dựng thể chế, chính sách để tạo môi trường và không gian cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển. Mọi biểu hiện của tư duy “xin – cho”, bảo vệ lợi ích nhóm hay mệnh lệnh hành chính gây phiền hà theo kiểu không quản hay không nắm được thì hạn chế, cấm đoán không còn phù hợp đối với quản trị quốc gia, quản lý kinh tế và doanh nghiệp trong kinh tế số. Cần sớm chuyển sang tư duy quản trị và điều hành theo hướng cái gì không quy định cấm thì người dân và doanh nghiệp được phép làm; những mô hình, phương thức kinh doanh mới mà chưa rõ, chưa quản được nhưng không gây hại thì thử nghiệm cho hoạt động, và từ yêu cầu thực tiễn nghiên cứu, tìm phương thức quản lý phù hợp, vừa tìm hiểu, học hỏi và thích ứng. Phải biết tiếp nhận những mô hình, ý tưởng kinh doanh mới, khuyến khích cái mới, tạo môi trường, điều kiện và cơ hội cho cái mới ra đời và phát triển.

Hai là, xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế mới trong thời đại kinh tế số, thực hiện “đổi mới” và “hội nhập” vào thị trường kinh tế số toàn cầu, đi đôi với kích thích phát triển và hỗ trợ đúng mức để nuôi dưỡng và thúc đẩy các doanh nghiệp số trong nước không ngừng lớn mạnh. Chiến lược hội nhập quốc tế cần kết hợp vừa “mở cửa, hội nhập” thị trường kinh tế số, vừa phải có chiến lược thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam thông qua chính sách hỗ trợ và ưu đãi có chọn lọc, nhất là với những doanh nghiệp công nghệ nội địa tiềm năng vươn lên chiếm lĩnh thị trường trong nước và sớm đủ sức vươn ra cạnh tranh với bên ngoài.

Việt Nam có tiềm năng phát triển kinh tế số rất lớn nhưng quy mô thị trường, khả năng đổi mới sáng tạo còn hạn chế, trình độ phát triển công nghệ của Việt Nam mới ở những bước đi đầu tiên, còn khoảng cách không nhỏ so với thế giới và khu vực. Vì vậy, cần phải xác định lộ trình hội nhập hợp lý nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp số trong nước trưởng thành và vươn lên. Việt Nam cần tạo môi trường và hỗ trợ thúc đẩy các hoạt động khởi nghiệp (startup) công nghệ trong nước, chú trọng đầu tư cho khoa học – công nghệ, tạo môi trường cho việc vươn lên tự chủ và nội sinh hóa nền khoa học – công nghệ quốc gia thông qua hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đặc biệt quan tâm đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) ở trong nước trước bối cảnh bảo vệ sở hữu trí tuệ và bí quyết công nghệ, nhất là công nghệ cao có xu hướng gia tăng.

Trước mắt có thể tạo thuận lợi và hỗ trợ phát triển một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ và thương hiệu kinh tế số trong nước đã có chỗ đứng, như FPT, Viettel, Vin Group, Tiki, Sendo…, có chính sách ưu đãi với ngành công nghiệp phần mềm, các công viên phần mềm, các khu và dự án công nghệ cao. Với tiềm năng thị trường và xu thế phát triển nhanh chóng của kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp kinh tế số trong nước trước hết phải đặc biệt coi trọng phát triển và chiếm lĩnh thị trường nội địa như bàn đạp cho sự phát triển bền vững cả trước mắt và lâu dài.

Song song đó, hội nhập thị trường kinh tế số với bên ngoài, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghệ có nguồn gốc nước ngoài vào Việt Nam khởi nghiệp, hoạt động kinh doanh để thúc đẩy cạnh tranh. Tuy nhiên, cần xây dựng quy hoạch và chiến lược hội nhập, thu hút đầu tư trong bối cảnh mới, theo đó cần chủ động nhắm tới các tập đoàn, doanh nghiệp lớn về công nghệ của thế giới, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng một cách hợp lý, tránh cạnh tranh giữa các địa phương. Trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã tới lúc cần cơ cấu lại mạnh mẽ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, sàng lọc, lựa chọn và phân loại cơ cấu đầu tư theo hướng không dễ dãi trong thu hút đầu tư, hướng tới các dự án đầu tư có chất lượng, những ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp công nghệ cao, cam kết lâu dài, mang lại giá trị gia tăng lớn gắn với định hướng vào R&D tại chỗ và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam, tránh việc trở thành nơi chuyển giao các doanh nghiệp và công nghệ lạc hậu của các nước.

Ngoài ra, để thúc đẩy kinh tế số thì yếu tố nội lực, sức mạnh quốc gia và sự chuẩn bị các điều kiện trong nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong khía cạnh này, các vấn đề sau đây cần được lưu ý:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện môi trường thể chế, pháp lý đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế trong điều kiện kinh tế số. 

Thứ hai, tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng cứng và mềm cho chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số quốc gia.

Chính phủ đầu tư phát triển và phổ cập hóa kết cấu hạ tầng in-tơ-nét băng thông rộng toàn quốc, nhanh chóng triển khai các dịch vụ 5G, bảo đảm việc tiếp cận điện năng, chú trọng phát triển các lĩnh vực công nghệ cốt lõi của CMCN 4.0. Để tạo điều kiện cho phát triển thương mại điện tử thì hệ thống thanh toán điện tử quốc gia, hạ tầng chứng thực chứng từ điện tử và hỗ trợ xác thực thông tin giao dịch, các hệ thống quản lý, giám sát giao dịch điện tử, các cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử… cần sớm được hoàn thiện. Cùng với nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng cứng, Việt Nam cần tập trung đột phá về hạ tầng thể chế, đầu tư mạnh mẽ cho khoa học – công nghệ và giáo dục, coi trọng đổi mới giáo dục, đào tạo theo yêu cầu của CMCN 4.0 và kinh tế số. Điều này bao gồm xây dựng chiến lược đào tạo và thu hút tài năng công nghệ trong và ngoài nước, phát triển nguồn nhân lực công nghệ, nhất là công nghệ thông tin cả về lượng và chất, đổi mới và cập nhật chương trình, giáo trình đào tạo của thế giới gắn với xu thế phát triển kinh tế số, nhất là đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, tài chính công nghệ trong thời đại số, tạo điều kiện để học sinh các cấp sớm tiếp cận tri thức về công nghệ thông tin và những lĩnh vực công nghệ lõi của CMCN 4.0.

Thứ ba, hỗ trợ nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời chú trọng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ doanh nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và xu thế CMCN 4.0 cũng như thích ứng với hội nhập vào thị trường thế giới trong thời kỳ mới.

Có kiến thức và tư duy về kinh tế số là quan trọng nhưng có tư duy hội nhập, thích ứng với thị trường kinh tế số quốc tế và xu hướng CMCN 4.0 càng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ trước môi trường cạnh tranh ngày càng mang tính quốc tế qua không gian mạng. Tư duy quản trị và vận hành doanh nghiệp chuyên nghiệp, theo quy chuẩn quốc tế cũng cần được chú ý định hình trong mỗi doanh nghiệp và toàn nền kinh tế.

Thứ tư, tiếp tục khơi dậy tinh thần dân tộc, lý tưởng và khát vọng đưa dân tộc đi tới thịnh vượng, từ đó khơi dậy và tạo động lực cho văn hóa khởi nghiệp của người Việt Nam, nhất là trong tầng lớp thanh niên.

Để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và tinh thần dân tộc của thanh niên trong thời đại kinh tế số, Nhà nước cần coi trọng khu vực kinh tế tư nhân, coi đó là động lực hàng đầu cho phát triển của đất nước nói chung và phát triển kinh tế số nói riêng.

Thứ năm, Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số và đi tiên phong trong quá trình số hóa bộ máy quản trị quốc gia.

Điều này bao gồm việc cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia, xây dựng một nền hành chính công vụ thông minh, gọn nhẹ, kỷ cương, liêm chính và kiến tạo, đột phá trong tinh giản hóa và nâng cao hiệu quả quản trị của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương, chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy quản trị điều hành, mạnh mẽ xóa bỏ các tổ chức quản lý trung gian, nhanh chóng và đồng bộ số hóa bộ máy quản lý nhà nước các cấp cũng như xây dựng và triển khai chiến lược, các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và doanh nghiệp.

Thứ sáu, coi trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh chính trị, an ninh văn hóa và an ninh quốc gia nói chung qua không gian mạng, giám sát và phòng, chống hiệu quả các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao. Điều này cần được chú ý cả ở cấp quốc gia cũng như trong mỗi cơ quan, đơn vị các cấp và từng doanh nghiệp, nhất là hệ thống tài chính – tiền tệ và các cơ quan chính phủ được số hóa./.

Theo Tapchicongsan.org.vn

Trình Bày Giải Pháp Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường, Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Nước Ta Hiện Nay

câu hỏi: Cho e hỏi. Trình bỳ giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

I. Thực trạng còn tồn tại trong vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, về cơ bản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN với những thành tựu KT-XH ngày càng to lớn. Thể chế KTTT, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng, hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Tuy nhiên, do phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp, một quá trình chưa có tiền lệ nên có những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay cần phải được tiếp tục xem xét, hoàn thiện:

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một nền kinh tế mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước và những giá trị XHCN mà chúng ta đang phấn đấu. Thế nhưng, vấn đề cần xem xét là liệu chúng ta có thể nghiên cứu để áp dụng nhiều hơn, đầy đủ hơn những quy luật, những giá trị chung của thể chế kinh tế thị trường-một thành tựu của nhân loại vào nền kinh tế của chúng ta, nhằm tạo thuận lợi sự phát triển vừa nhanh hơn, vừa bền vững hơn hay không? Nếu thế thì cần phải có những điều kiện nào kèm theo?

Thứ hai, định hướng của Đảng và Nhà nước và thực tiễn vừa qua đã chứng minh rằng, để phát triển nền kinh tế Việt Nam không thể chỉ dựa vào một thành phần kinh tế nào, mà cần phải khơi dậy được mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của đất nước, với một khát vọng chung là xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường. Để hiện thực hóa điều đó, cả nước đang phát động một tinh thần khởi nghiệp với mục tiêu là tới năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu doanh nghiệp. Như vậy, nòng cốt để phát triển kinh tế Việt Nam, là chỗ dựa bền vững cho kinh tế đất nước, phải chăng là mọi thành phần kinh tế trong nước, bao gồm cả: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân? Như vậy, về định hướng vĩ mô, liệu chúng ta cần có sự thay đổi nào không để khơi dậy được mọi tiềm lực kinh tế của đất nước, tạo ra một sân chơi thực sự công bằng, bình đẳng, trong thụ hưởng chính sách, được tiếp cận các nguồn lực và việc tuân thủ luật pháp?

Thứ ba, với những biểu hiện lợi ích nhóm, biểu hiện của chủ nghĩa tư bản thân hữu đang diễn ra trong nền kinh tế, cần phải có giải pháp gì để ngăn chặn, để bảo đảm rằng những lợi ích từ phát triển kinh tế đất nước sẽ không bị một bộ phận thiểu số trong xã hội chiếm dụng, mà sẽ được chia sẻ công bằng; bảo đảm rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm chứ không quá thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các vùng miền, giữa các thành phần, đối tượng trong xã hội.

Thứ tư, cần có chiến lược, cùng những giải pháp hữu hiệu như thế nào để việc phát triển kinh tế của đất nước bảo đảm hài hòa hai yếu tố đó là: Phát triển “nhanh” và “bền vững”. Đây là hai yêu cầu song hành. Bởi với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam nếu không có giải pháp để đạt một tốc độ phát triển ở mức cao thì rất dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Thế nhưng, việc phát triển nhanh về kinh tế phải bảo đảm yếu tố bền vững, đó không phải là sự phát triển bằng mọi giá, đặc biệt không phải là việc hy sinh môi trường sống để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế đất nước không ngoài mục đích nào khác là để bảo đảm cho mọi người dân có một cuộc sống sung túc, hạnh phúc.

Động lực và triển vọng hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục phụ thuộc vào những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu sắc hơn về phát triển KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam.

II. giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần

Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế.

Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, việc thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vị trí, quy mô, tỷ trọng, trình độ có khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

b) Mở rộng phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường

Phân công lao động xã hội là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Nhờ đó mà thị trường trong nước từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao động, tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai thác có hiệu quả.

Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh: Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; phát triển thị trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất; phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ… Điều này sẽ bảo đảm cho việc phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

c) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. So với thế giới, trình độ công nghệ sản xuất của Việt Nam còn thấp kém, không đồng bộ, do đó, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nước ta so với hàng hóa nước ngoài trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém. Bởi vậy, để phát triển kinh tế hàng hóa, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu, không đồng bộ, mất cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngoài, cản trở phát triển kinh tế hàng hóa ở mọi miền đất nước. Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu đó. Trước mắt, Nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số yếu tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm…

d) Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả

Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao vai trò hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.

Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.

Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.

e) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi

Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu kinh tế thị trường, bao gồm: điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp luật, chính sách và các đòn bẩy kinh tế, hành chính, giáo dục, khuyến khích, hỗ trợ và cả bằng răn đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy nhà nước…

Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh tế (ở tầm vĩ mô và vi mô) tương ứng. Chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải có năng lực chuyên môn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu trách nhiệm, chấp nhận rủi ro và trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần phải có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích thích hơn nữa việc không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý, tài năng kinh doanh của họ. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải được chú ý bảo đảm cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô, cả cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh.

h) Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại, chúng ta phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác; phải quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị – xã hội; cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút mạnh vốn và đầu tư nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển.

Những giải pháp nói trên tác động qua lại với nhau, sẽ tạo nên sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Giải Pháp Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Ở Nước Ta Hiện Nay

TCDN – Đây sẽ là nguồn lực quan trọng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Tóm tắt

Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác với các nước trên thế giới. Đây vừa là thời cơ, vận hội cho nước ta, vừa là những nguy cơ, thách thức yêu cầu phải tạo ra được nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng với thực tiễn. Bài viết tập trung nghiên cứu làm rõ nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam, tác giả đề xuất một số biện pháp để bảo đảm cho nguồn nhân lực chất lượng cao – yếu tố then chốt để phát triển kinh tế – xã hội.

1. Mở đầu

Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay, đặc biệt là yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặt ra yêu cầu cấp bách đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây sẽ là nguồn lực quan trọng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”[1; tr.41]. Do đó, cần có cơ chế, chính sách hữu hiệu để nguồn nhân lực chất lượng cao được phát huy năng lực, sở trường, thế mạnh cho từng ngành, từng lĩnh vực, tạo thành sức mạnh tổng hợp, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Nội dung nghiên cứu

Ngân hàng thế giới nhận định nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người, bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Theo đó, nhân lực bao gồm hai yếu tố cơ bản đó là sức khoẻ và trí tuệ con người. Tuy có những cách tiếp cận, hiểu khác nhau, song có thể tựu chung lại nguồn nhân lực là toàn bộ những người đang trong độ tuổi lao động, có sức khoẻ, trình độ chuyên môn, tự mình làm ra của cải vật chất, đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ của từng ngành, lĩnh vực đặt ra.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành nguồn nhân lực của đất nước. Đó là những con người được đào tạo cơ bản, có trình độ, chuyên môn kỹ thuật cao, hay nói cách khác, nguồn nhân lực chất lượng cao chính là những người tài và giỏi, có thể làm được những việc mà nguồn nhân lực nói chung không thể làm được, hoặc làm được với chất lượng, hiệu quả không cao.

Alvin Toffler nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”[2]. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không những cho phép khai thác tối đa những tiềm năng, thế mạnh của đất nước mà còn tạo ra sức bật, khả năng cạnh tranh nguồn nhân lực ở trong và ngoài nước. Đó là sự gia tăng của các nhà đầu tư tìm đến để phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng công việc mà ở nơi đó có nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao đang sinh sống, công tác và làm việc. Đồng thời, tạo ra lợi thế so sánh giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới về nguồn nhân lực chất lượng cao, sẽ là cơ hội, điều kiện để Việt Nam đẩy mạnh hợp tác, phát triển các lĩnh vực, ngành nghề, từ đó nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Mặt khác, cũng thông qua việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao buộc mỗi người phải phấn đấu vươn lên tự học, tự nghiên cứu trang bị cho mình vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết để tồn tại và phát triển. Trong những năm vừa qua Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có nhiều chủ trương, biện pháp để phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng như: Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[3; tr.114 – 115]. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”[4; tr.90].

Thời gian qua, nguồn lực chất lượng cao hoạt động ở các ngành nghề, lĩnh vực đã được quan tâm, tạo điều kiện phát triển toàn diện về mọi mặt và có những đóng góp nhất định vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải khẳng định rằng: Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được quan tâm một cách thường xuyên, liên tục ở các thời điểm, giai đoạn khác nhau, vẫn còn xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám”, nguồn lực chất lượng cao hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề chưa tương đồng với nhau, có ngành rất nhiều nguồn lực chất lượng cao, ví dụ ngành toán học, vật lý, chế tạo máy… có ngành rất ít, như: khoa học xã hội nhân văn, văn hoá, nghệ thuật…

Một bộ phận nguồn nhân lực chất lượng cao có biểu hiện kiêu ngạo, tự mãn, cho rằng bản thân có tài năng đưa ra những đòi hỏi, yêu sách phải bảo đảm các điều kiện làm việc, hoặc có biểu hiện xem thường người khác, đặt ra những quy định, yêu cầu riêng có cho bản thân mình. Trước yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là hội nhập quốc tế ngày càng cao, Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ nếu không quan tâm, chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hiện thực ý chí, khát vọng vươn lên dựng xây, kiến thiết đất nước thì Việt Nam sẽ phải đối diện với nguy cơ, thách thức tụt hậu về kinh tế, đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế.

2.2. Một số biện pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay 2.2.1. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học, cao đẳng

Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay. Ngay từ các bậc học, nhất là bậc học Phổ thông trung học, giáo viên và phụ huynh học sinh phải định hướng tương lai cho con em mình trong việc chọn lựa ngành nghề phù hợp với năng lực, thế mạnh của bản thân. Từ đó, tập trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về một ngành, lĩnh vực mà mình yêu thích, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng sau khi hoàn thành khoá học.

Đặc biệt, các trường cao đẳng, đại học phải làm tốt công tác tuyển chọn, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với trình độ nhận thức của người học, đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ của xã hội, của quá trình hội nhập, mở cửa, phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay. Chú trọng đến việc thực hành các thao tác, các bước của hoạt động lắp ráp, sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ; sử dụng thành thạo các trang thiết bị kỹ thuật, nhất là máy móc hiện đại, điều khiển từ xa, tự động hoá.

Thực tiễn nguồn lực chất lượng cao ở nước ta không có nhiều, chủ yếu là nguồn lực trung bình, tức là lao động ở bậc phổ thông, đơn giản, lao động có trình độ chuyên môn cao rất ít. Do đó, hầu hết việc sản xuất, sử dụng công nghệ máy móc, thiết bị đều nhập khẩu từ nước ngoài, xin ý kiến chuyên gia nước ngoài đến hỗ trợ. Theo đó, tiến hành rà soát lại chương trình đào tạo ở các trường; tăng cường thời gian học thực hành, giảm thời gian học lý thuyết; gắn quá trình đào tạo với hoạt động thực tập, tham quan, bắt tay vào công việc ở từng chuyên ngành đào tạo; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các trường, các chuyên ngành đào tạo với nhau, nhất là với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đầu tư, công ty; tuyển dụng học sinh vào đào tạo phải bảo đảm chất lượng, không chạy theo số lượng; Các cơ sở giáo dục cần phát triển hơn nữa vào các ngành nghề chất lượng cao: như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới, công nghệ sinh học… để giúp người lao động có thể làm chủ khi cuộc cách mạng số hóa bùng nổ như hiện nay.

2.2.3. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với nguồn nhân lực chất lượng cao

Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải bảo đảm sự quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhà nước là người ban hành cơ chế, chính sách đãi ngộ, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, do đó, Nhà nước cần phân cấp, giao nhiệm vụ cho các cơ quan, ban, ngành tiến hành quản lý nguồn nhân lực chất lượng cao một cách hiệu quả, không để xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tức là đào tạo ra nguồn nhân lực cao nhưng không phục vụ cho Nhà nước mà phục vụ cho doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng, ban hành các quy định, yêu cầu cho các cơ sở đào tạo về nguồn nhân lực chất lượng cao; yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao khi đào tạo song phải làm việc ở trong nước, đặc biệt là bộ máy hành chính Nhà nước, nếu vi phạm sẽ phải bồi thường, hoặc yêu cầu những nơi khác không tuyển dụng; đặt ra yêu cầu cao cho nguồn nhân lực chất lượng cao phải đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, toàn tâm, toàn ý phục vụ cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân chủ, văn minh, giàu đẹp, có vị thế ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế; thường xuyên kiểm tra quá trình làm việc nguồn nhân lực chất lượng cao, nếu không đáp ứng được sẽ bị thải loại, hoặc xắp xếp, bố trí ở những nơi khác.

Tạo ra những cơ chế khuyến khích hợp tác doanh nghiệp với nhà trường để đào tạo đúng và phù hợp, gần sát nhất với nhu cầu của thị trường. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục, gắn đào tạo kiến thức với thực tập, thực hành nghề tại các cơ sở doanh nghiệp; Có biện pháp để cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên thu nhận thông tin phản hồi về mức độ hài lòng của các doanh nghiệp đối với “sản phẩm” đầu ra của các cơ sở đào tạo.

2.2.4. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tế – xã hội của đất nước

Trong những năm vừa qua nền kinh tế – xã hội nước ta có bước tăng trường khá cao, tương đối ổn định, nhưng do tác động của bối cảnh thế giới, khu vực và đặc biệt là đại dịch Covid – 19 gần đây đã làm cho một số ngành, lĩnh vực, nhất là người lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tình hình đó, ảnh hưởng phần nào đến nguồn nhân lực chất lượng cao, theo đó, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với điều kiện tế của mỗi ngành, lĩnh vực ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Nguồn nhân lực chất lượng cao thường có biểu hiện tự cao, tự mãn, ít lắng nghe ý kiến đóng góp của người khác, hoặc có nghe chỉ mang tính chất chiếu lệ cho song, cho có, tự mình quyết định mọi việc, không tôn trọng mọi người xung quanh. Do đó, trong quá trình làm việc, giải quyết các mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với mọi người xung quanh phải hài hoà, hợp lý, không đặt cái tôi cá nhân lên quá cao, khiêm tốn, giản dị, cầu tiến bộ; đặt trong mối quan hệ tổng thể của đơn vị, không vì có thành tích, tài hơn người khác mà có biểu hiện lên mặt, xem thường người khác.

Như thế, nguồn nhân lực chất lượng cao đó chỉ có tài mà không có đức, kìm hãm, cản trở sự phát triển ở nơi đó. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải lựa chọn chính xác nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc, năng lực, trình độ đi liền với phẩm chất đạo đức, lối sống, không được đố kỵ, ganh đua với đồng nghiệp; không được đặt ra yêu sách cho nơi làm việc; đồng cam, cộng khổ với môi trường làm việc; phát huy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc; tích cực, chủ động tự học, bồi dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của xu thế toàn cầu hoá, mở cửa, hội nhập và phát triển nền kinh tế tri thức. Trọng dụng nhân tài đồng bộ, tạo cơ hội cho người tài phát huy năng lực và thu hút nhân lực trình độ cao là người Việt đang làm việc ở nước ngoài, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam.

3. Kết luận

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4″[5; tr.54]. Sự thành công hay thất bại, tận dụng tốt thời cơ, vận hội hay vượt qua nguy cơ, thách thức từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay phụ thuộc cách quyết định vào phương thức khai thác nguồn lực con người, nhất là việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực có chất lượng cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu ý chí và khát vọng, có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.130; tr.41.

2. Alvin Toffler: Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 41.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.21.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Nxb CTQG – Sự thật, HN, 2016, tr.90.

5. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 54.

Trường Cán bộ quản lý giao thông vận tải

Kinh Tế Đối Ngoại Nước Ta Hiện Nay: Tình Hình Và Các Giải Pháp

1. Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999

Lý do cho sự tăng trưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoại trên có thể là tương đối rõ, nhưng lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau. Đúng là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn cầu và khu vực, do giá hàng xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng… Tuy nhiên, Trung Quốc cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trưởng cao. Do vậy, việc giảm tăng trưởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không chỉ do nguyên nhân khách quan, mà có thể lại do những nguyên nhân chủ quan là chính.

Trong các nguyên nhân chủ quan đó, có thể kể ra các nguyên nhân chính sau đây:

Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc gia trong khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu.

Chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế doanh thu, VAT, các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công nghệ được sử dụng…

Thuế nhập khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quan, của nước ta hiện nay có lẽ ở vào hàng cao nhất khu vực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông Á hiện chỉ còn vào khoảng 4 – 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ thu… đều ở mức cao. Thuế thu nhập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực, là 50%, trong khi ở Inđônêxia là 30%, ở Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam.

Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự với Indonexia, và thấp hơn các nước ASEAN-4, nhưng mức thấp này đã giảm dần.

Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, điện, nước… đều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Xingapo, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia; giá nước cao hơn Philipin và gần ngang với Malaixia, Thái Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu vực; chi phí vận tải hàng không, đường biển cao hơn cả Trung Quốc.

Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng Sao Mai do nước ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD.

Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trường trong lẫn ngoài nước.

Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại yếu.

Tỷ giá giữa đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10%, và đã tác động tiêu cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và Liên minh châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ. Đồng VN cao giá và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác động xấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả tới FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta đã ngang bằng tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp.

Ngoài ba nguyên nhân trên còn có thể có những nguyên nhân khác như: lao động Việt Nam ít được đào tạo, không lành nghề; thể chế hành chính luật pháp không minh bạch; bộ máy quản lý yếu kém và quan liêu tham nhũng và…

2. Nước ta đã trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, song đồng thời cũng phải chịu những tổn thất do giá gạo và cà phê suy giảm.

Kể từ năm 1989, nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo, sau đó là cà phê với vị trí thứ hai, thứ ba thế giới. Song do giá cả các mặt hàng này hạ thấp liên tục từ cuối thập kỷ 1990 đến nay đã gây cho ngành sản xuất gạo và cà phê nước ta những tổn thất rất lớn. Ngay trong năm 2001, giá gạo còn tiếp tục hạ thấp tới 12,2%, và giá cà phê hạ thấp 39,9% so với năm 2000.

Thực tế của thế giới cho thấy, trong vòng vài thập kỷ gần đây, giá cả các hàng nông phẩm và nguyên liệu bị hạ thấp liên tục và không ổn định, do những thay đổi về công nghệ sản xuất và sử dụng cũng như những thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng. Trong những năm tới đây chưa có những dự báo đảm bảo chắc chắn là giá các hàng nông sản và nguyên liệu không giảm nữa. Việc xuất khẩu hàng nông phẩm vào thị trường Mỹ như cá basa và tôm của ta gần đây lại còn bị các nhà nuôi cá tôm Mỹ phản ứng và gây rắc rối nhằm bảo vệ thị trường sản xuất của họ.

Vấn đề là thị trường thế giới cho đến nay gần như đã bão hòa, và sản phẩm nào cũng đều đã có các ông chủ chiếm giữ thị phần. Nước ta là một thị trường mới nổi, nên ta sản xuất thêm nhiều gạo, cà phê, cá basa…, thì người khác phải giảm sản xuất những mặt hàng này, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng dư thừa, cung vượt cầu, giá cả sẽ hạ, hoặc dẫn tới những giải pháp bảo hộ thương mại. Một trong các lý do chủ yếu làm cho giá gạo và cà phê giảm liên tục là nước ta đã gia tăng xuất khẩu gạo từ 2,0 triệu tấn năm 1995 lên tới trên 4 triệu tấn năm 1999 và từ 248 ngàn tấn cà phê năm1995 lên tới trên 500 ngàn tấn năm 2000. Cung về gạo và cà phê đã vượt cầu, do đó giá liên tục giảm. Đứng trước tình trạng giá gạo và cà phê giảm, những người sản xuất gạo và cà phê không có cách gì chống đỡ, ngoài việc phải thu hẹp sản xuất. ở đây cung cầu của thị trường đã điều tiết giá cả và sản xuất. Người sản xuất buộc phải thu hẹp sản xuất khi giá cả thị trường đã thấp hơn chi phí sản xuất.

Trường hợp cá basa của ta xuất khẩu vào Mỹ lại có một sự khác biệt là thị trường Mỹ có cả người tiêu dùng cá basa và người sản xuất cá da trơn tương tự. Do cá basa của ta rẻ hơn, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Mỹ với thị phần khoảng 2% đã đặt những người nuôi cá basa ở Mỹ trước nguy cơ phá sản. Trong trường hợp này người dân Mỹ nuôi cá đã kiện lên chính phủ Mỹ và có thể có ba khả năng giải quyết: Nếu Việt Nam bán phá giá thì phải chịu mức thuế 190%; Nếu không, Chính phủ Mỹ có thể áp dụng biện pháp hạn chế định lượng bằng cô-ta nhập khẩu cá basa; Hoặc Mỹ sẽ tăng thuế nhập khẩu tạm thời, có thời hạn lên đến mức đủ bảo vệ những người nuôi cá. Cuối cùng là Mỹ đã tăng thuế nhập khẩu cá basa Việt Nam vào Mỹ.

3. Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế đối ngoại

Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD, nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDP, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của nước ta chỉ vào khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng chỉ vào khoảng trên 30%. Các nước Xingapo, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta.

Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đến năm 2001 là 38,8 tỷ USD. Tỷ trọng của vốn FDI được thực hiện trong tổng đầu tư xã hội trong khoảng 20% – 32%, tức là năm cao nhất (1996) đã đạt tới trên 32%; những năm đạt thấp vào khoảng trên 20%. Nếu tính cả các nguồn vốn nước ngoài khác như vốn ODA và vốn vay thương mại, thì nguồn vốn nước ngoài đã chiếm khoảng gần 50% tổng đầu tư xã hội vào giữa những năm 1990 (những năm sau tỷ trọng này đã giảm).

Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam đã tăng đều, năm 2001, đạt 2,3 triệu khách và hiện có hàng trăm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, đem lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng năm cho đất nước.

Vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất nhập khẩu xấp xỉ bằng tổng GDP, vốn FDI và các nguồn vốn nước ngoài khác đã chiếm tới gần 50% tổng vốn đầu tư xã hội, số khách du lịch vào Việt Nam lên tới 2,3 triệu người, thì các thể chế kinh tế nước ta không thể vẫn mang nặng tính chất hướng nội như trước được. Đồng tiền Việt Nam không chuyển đổi được đã gây thiệt hại cho cả hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và du lịch. Người nước ngoài và cả người Việt Nam kinh doanh đối ngoại sẽ nản lòng vì việc chuyển đổi ngoại tệ khó khăn, tốn kém. Các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu tư nước ngoài, chính sách xuất nhập cảnh… cần được xem xét lại và đổi mới thích hợp với những điều kiện mới của khu vực kinh tế đối ngoại đã gia tăng vượt trội.

Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi theo. Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp, cản trở kinh tế đối ngoại – luật pháp thay đổi chậm, các công ty chậm đổi mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực…

4. Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay

Trước những năm 1990 các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ có mấy trăm công ty xuất nhập khẩu và du lịch quốc tế và tất cả đều là của quốc doanh. Nay đội ngũ doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã lên đến hàng nghìn gồm cả quốc doanh, tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là một bước tiến to lớn cần phải khẳng định.

Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại có một vai trò rất quan trọng, nếu không nói là quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Thực tế thế giới cho thấy các doanh nghiệp này hoạt động rất đa dạng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất, thương mại dịch vụ đến bảo hiểm… Chính tính đa dạng này mới đảm bảo cho hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Một doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu muốn có hiệu quả cần phải vay mượn vốn nước ngoài (vì vốn trong nước không đủ và nhiều khi quá đắt), cần phải có dịch vụ tư vấn nước ngoài (vì tư vấn trong nước chưa đủ trình độ), cần chuyển đổi ngoại tệ, cần bảo hiểm rủi ro, cần thuê mướn chuyên gia, cần marketing quốc tế… Ở nước ta các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại thường mới hoạt động ở hai lĩnh vực: sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, ở các lĩnh vực khác ta chưa có, nhưng cũng chưa cho phép các công ty nước ngoài hoạt động.

Hoạt động của các công ty kinh doanh đối ngoại phải là xuyên quốc gia, để có thể lợi dụng được những lợi thế so sánh của các nước khác. Công ty Honda của Nhật đã có chi nhánh ở nhiều nước, vì tại mỗi một nước đó Honda có thể tận dụng được lợi thế hoặc về tài nguyên, hoặc về lao động, hoặc về vị trí địa lý…, do vậy có thể giảm thiểu các chi phí. Các công ty hoạt động xuất khẩu của ta nói chung chưa hoạt động xuyên quốc gia. Đã thế ta còn có chính sách nội địa hóa bắt buộc, ép các công ty nước ngoài phải sản xuất càng nhiều các linh kiện ở Việt Nam càng tốt. Chính sách này đã triệt tiêu mất lợi thế hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Vì các công ty này chỉ muốn lợi dụng lao động rẻ và vị trí thuận lợi của Việt Nam để lắp ráp rồi xuất vào Đông Nam Á. Nếu ta ép họ phải nội địa hóa cao, có nghĩa là ta ép họ phải sản xuất những thứ linh kiện mà nước ta không có lợi thế, do vậy là đi ngược lại lợi ích của họ. Kinh nghiệm của nhiều nước châu Á cho thấy để có một đội ngũ các công ty hoạt động xuyên quốc gia cần nhiều thời gian. Bước đi đầu tiên là thu hút các công ty xuyên quốc gia nước ngoài vào hoạt động ở nước ta, biến họ thành các công ty của ta. Những công ty này chính là hình mẫu để các công ty của ta đi theo và phát triển. Nước ta đang đi theo hướng này, nhưng chúng ta mới chỉ cho phép họ xuất nhập khẩu những gì họ đã đăng ký kinh doanh. Trong thời gian tới phải cho họ hoạt động toàn diện hơn.

Các công ty kinh doanh đối ngoại của các quốc gia hiện nay đều là những công ty xuyên quốc gia tư nhân, hoặc cổ phần có tiềm năng to lớn về cả kinh tế, kỹ thuật, nhân lực, thị trường… Trong khi các công ty kinh doanh đối ngoại của ta cho đến nay chủ yếu vẫn là các công ty quốc doanh, hoặc là quốc doanh liên doanh với nước ngoài. Các công ty tư nhân và nhất là tư nhân 100% vốn trong nước còn bị phân biệt đối xử trong hoạt động kinh tế đối ngoại, mặc dù gần đây Nhà nước ta đã cho phép khu vực tư nhân được hoạt động xuất nhập khẩu và liên doanh liên kết với nước ngoài.

Có thể nói, nếu các công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta vẫn chủ yếu là các công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên quốc gia, không đa dạng hóa các hoạt động… thì lợi thế so sánh của các công ty này trên thị trường quốc tế chắc chắn sẽ khó tránh khỏi thua kém các công ty xuyên quốc gia của các nước khác.

1. Các quan hệ kinh tế đối ngoại là quan hệ thị trường

Thực tế của thế giới cho thấy, các quan hệ kinh tế đối ngoại của một quốc gia càng vận động theo các nguyên tắc của thị trường thì nền kinh tế của quốc gia ấy càng có thể tham gia sâu rộng và có hiệu quả vào quá trình hội nhập toàn cầu. Thực tế của các nước ASEAN và Đông Á đã cho thấy điều đó: giá cả trong nước càng sát với giá thị trường thế giới, người tiêu dùng trong nước càng được hưởng lợi do mua hàng không phải chịu thuế nhập khẩu cao, các lợi thế cạnh tranh của quốc gia được phát huy; tỷ giá thị trường đảm bảo mức giá của đồng tiền quốc gia phù hợp với giá thực tế, sẽ tạo điều kiện đảm bảo sức cạnh tranh của nền kinh tế; giá chứng khoán, cổ phiếu có tính thị trường quốc tế sẽ tạo điều kiện khai thông dòng vốn quốc tế đi vào trong nước…

Do vậy, ta cần có một lộ trình chủ động và tích cực để chuyển các quan hệ kinh tế đối ngoại vận động theo các nguyên tắc của thị trường. Chúng tôi cho rằng, nếu năm 2006 ta thực hiện đầy đủ các cam kết với AFTA và các cam kết chủ yếu trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, nếu 2004 nước ta được gia nhập WTO, thì lộ trình chuyển các quan hệ kinh tế đối ngoại nước ta vận động đầy đủ theo các nguyên tắc của thị trường phải hoàn tất vào cuối năm 2006. Vì những cam kết quốc tế này buộc nước ta phải xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và hạ thấp thuế quan xuống vào khoảng 5 – 10%, thừa nhận rộng rãi các quyền kinh doanh của các công ty nước ngoài tại nước ta trên nhiều lĩnh vực, kể cả dịch vụ. Trong tình hình đó, nếu giá các hàng hoá và dịch vụ nước ta không theo sát giá thế giới, tỷ giá vẫn không do thị trường định, đồng VN vẫn không chuyển đổi được, thị trường vốn chưa khai thông với thị trường thế giới, các chủ kinh doanh của ta vẫn không có đủ các quyền kinh doanh…, thì nền kinh tế nước ta sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những khiếm khuyết và hạn chế to lớn, làm giảm thiểu vị thế cạnh tranh so với các nền kinh tế trong khu vực.

2. Bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại

Có quan điểm cho rằng có thể thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút các nguồn vốn nước ngoài. Thực tế thế giới hiện nay không cho phép các quốc gia thực hiện chính sách này. Một nguyên tắc gần như phổ biến trong các quan hệ quốc tế hiện nay là: một quốc gia muốn mở cửa thị trường nước khác thì đồng thời phải mở cửa thị trường nước mình. Các nước phát triển đến cuối thập kỷ 1990 đã mở cửa nền kinh tế của họ ở mức rất cao: thuế quan trung bình chỉ còn khoảng 2 – 4%, hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó muốn đặt mức thuế quan cao cho một sản phẩm nhập khẩu, lập tức sẽ bị các nước đối tác kiện ra WTO và có thể bị trả đũa. Việc Mỹ năm 2002 đơn phương tăng thuế nhập khẩu thép lên 30% là một ví dụ.

Bảo hộ mậu dịch trên thực tế đã có hại cho sự phát triển kinh tế đối ngoại: việc tăng giá các sản phẩm trong nước đã làm tăng chi phí đối với cả sản xuất xuất khẩu cũng như phục vụ nhu cầu trong nước; che chở cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất kém hiệu quả mở rộng sản xuất – chống lại các giải pháp hội nhập quốc tế; khuyến khích xu hướng thay thế nhập khẩu – giảm thiểu cơ hội mở rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài…

Song có quan điểm cho rằng các nước kém phát triển cần một lộ trình bảo hộ mậu dịch để tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc tế; lộ trình này càng dài càng tốt, vì các doanh nghiệp trong nước càng có nhiều thời gian trưởng thành để đua tranh trên thương trường quốc tế. Đúng là các nước kém phát triển cần có một lộ trình hội nhập quốc tế, nhưng lộ trình này không phải là một lộ trình gia tăng chính sách bảo hộ mậu dịch để rồi xoá bỏ nó, mà là một lộ trình bãi bỏ dần các hàng rào bảo hộ.

Thường lộ trình này kéo dài 2 – 5 năm, tuỳ theo từng ngành kinh tế kỹ thuật. Xét về hiệu quả kinh tế thuần tuý, thì không cần đến lộ trình này, lý thuyết kinh tế học hiện đại và thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh cho luận điểm này. Nhưng xét về mặt chính trị và xã hội, thì lại cần có một lộ trình như vậy để đổi mới cơ cấu sản xuất, giải quyết tình trạng thất nghiệp, đào tạo lại nghề nghiệp, giữ ổn định xã hội… Một nhà nước càng có năng lực giải quyết tốt các vấn đề trên, thì lộ trình hội nhập quốc tế càng được rút ngắn và ngược lại.

Có người lo ngại rằng việc giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách. Thực tế của thế giới cho thấy ở những quốc gia giảm thuế nhập khẩu, nguồn thu ngân sách không những không giảm mà còn tăng, do diện thu thuế tăng, do tình trạng trốn lậu thuế, tham nhũng giảm…

3. Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền đề để mở rộng kinh tế đối ngoại

Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, cung cấp điện,…

Về cảng biển, theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển Việt Nam được xếp thứ bảy trong số 9 nước Đông Á mà họ đánh giá, Việt Nam xếp sau Xingapo, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ xếp trên Trung Quốc và Inđônêxia. Phải nói thêm là phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều qua cảng Hồng Kông, nên Việt Nam chỉ hơn Inđônêxia. Các hãng vận tải biển nước ngoài xếp cảng Việt Nam vào nhóm độc quyền kiểu “Cácten” vì tất cả các cảng do nhà nước sở hữu và vận hành. Nước ta chưa có cảng trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải trung chuyển qua các cảng Hồng Kông, Xingapo, làm tăng thêm chi phí khoảng 20 – 30%. Phí cảng của ta do Ban vật giá chính phủ định hiện là rất cao, trong khi công nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc hậu, thời gian giải phóng tàu lâu, càng làm tăng thêm chi phí cho người xuất khẩu.

Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành ph��� Hồ Chí Minh, nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Theo quy định hiện nay các hãng hàng không nước ngoài không được phép có “quyền tự do thứ năm” trong việc mang hàng vào và ra khỏi Việt Nam từ các điểm trung chuyển như Băng Cốc, Hồng Kông, do vậy công suất đều thừa, không sử dụng hết. Giá vé máy bay của ta hiện còn cao so với khu vực, cùng với tình trạng luôn phải chậm giờ bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của hàng không Việt Nam.

Về đường cao tốc, nước ta mới có được vài trăm km đường cao tốc – một con số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lượng đường cao tốc ít ỏi đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, làm tăng thêm chi phí và thời gian.

Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu người ở nước ta hiện vào khoảng 232 Kwh, dưới mức trung bình của các nước có thu nhập thấp 363 Kwh, dưới xa mức trung bình của các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương – 787 Kwh. Tình trạng bị cắt điện và tăng giảm điện áp đã gây thiệt hại đáng kể cho các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của Việt Nam bán cho các nhà sản xuất được xếp vào loại cao so với khu vực.

Về liên lạc, viễn thông, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng còn những hạn chế sau: giá dịch vụ viễn thông quá đắt so với khu vực; giá thuê bao đường truyền được quốc tế đánh giá là cực kỳ cao với nhiều thủ tục phiền hà; tốc độ truy cập Internet quá chậm; thương mại điện tử không phát triển.

Các cơ sở hạ tầng của kinh tế đối ngoại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển hiệu quả của nó. Người ta đã tính rằng có đến trên 70% những khác biệt về giá trị xuất khẩu trên đầu người là phụ thuộc vào trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu không có đủ cảng, sân bay quốc tế, điện, đường… thì có nghĩa là chỉ có một bộ phận dân cư tham gia kinh tế đối ngoại.

Những yếu tố của cơ sở hạ tầng không những phải được xây dựng hiện đại mà còn phải đồng bộ, và trong một thời hạn càng ngắn càng tốt. Chỉ cần một trong các yếu tố trên khiếm khuyết cũng đủ gây tổn hại cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Và nếu chúng được xây dựng với một thời hạn quá dài hàng chục năm, trong khi các cam kết hội nhập quốc tế của ta có thời hạn ngắn hơn, thì như vậy chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ tận dụng những lợi thế do các cam kết quốc tế mang lại.

Do vậy, trong thời gian trước mắt, ta phải tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết cho kinh tế đối ngoại như: vệ tinh viễn thông, hệ thống đường cáp quang truyền dẫn; xây dựng một cảng trung chuyển quốc tế, hiện đại hoá các sân bay quốc tế; mở rộng các đường cao tốc ở các vùng trọng điểm; tăng cường việc xây dựng các nhà máy điện và hiện đại hoá hệ thống truyền dẫn, giảm tiêu hao thất thoát điện; gia tăng các cơ sở sản xuất nước và hiện đại hoá hệ thống cung cấp nước…

Kinh doanh cơ sở hạ tầng trong nhiều năm trước đây thường do các công ty nhà nước độc quyền đảm nhận, kể cả ở các nước phương Tây. Nhưng thực tế cho thấy tình trạng độc quyền của các công ty nhà nước đã dẫn tới những hậu quả tiêu cực – chi phí cao, phiền hà, lãng phí, tham nhũng… Do vậy trong những năm gần đây, xu hướng cho phép khu vực tư nhân tham gia kinh doanh hạ tầng cơ sở đã ngày càng phổ biến ở nhiều nước. Nước ta cũng không thể tránh được xu hướng này. Hiện ta đã cho phép một số công ty nước ngoài xây dựng các nhà máy điện dưới hình thức BOOT (xaa, có thể cần phải mở rộng hơn hình thức này sang nhiều lĩnh vực khác.

4. Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại

Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đầu tư nước ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ vốn, cũng có nghĩa là kinh tế đối ngoại không hoạt động được. Những nguồn vốn này hiện đang dư thừa cả trong và ngoài nước. Hàng năm, hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm đã không sử dụng được ở trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngoài, nếu tính cả số tiền gửi ra nước ngoài qua các kênh không chính thức thì số tiền đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau còn khá lớn. Nguồn vốn dư thừa trên thế giới phải tính đến hàng ngàn tỷ USD. Vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho hoạt động kinh tế đối ngoại.

Cơ chế và bộ máy huy động và phân bổ các nguồn vốn của nước ta hiện quá lạc hậu và vẫn theo cơ chế mệnh lệnh và bao cấp. Các ngân hàng thương mại quốc doanh là những chủ thể huy động và cho vay các nguồn vốn trong nước nhưng họ vẫn phải hoạt động theo chỉ lệnh là chính, các ngân hàng cổ phần nhỏ bé, các ngân hàng nước ngoài hoạt động rất hạn chế. Thị trường vốn trong nước mới manh nha và còn nhỏ bé. Việc huy động và phân bổ vốn ở nước ta hiện chủ yếu vẫn do các ngân hàng thương mại quốc doanh đảm nhận với rất nhiều hạn chế. Các ngân hàng này yếu đến mức không cung ứng được các yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động phục vụ nhu cầu nội địa, nói gì đến các nhu cầu của kinh tế đối ngoại.

Hơn nữa, hoạt động kinh tế đối ngoại đòi hỏi các ngân hàng cung ứng phải am hiểu thị trường thế giới, phải dám chấp nhận rủi ro, phải có năng lực không những thẩm định các dự án cho vay, mà còn đưa ra được các dự án kinh doanh đối ngoại có hiệu quả thích hợp với các nhà đầu tư. Các ngân hàng thương mại của ta, kể cả ngân hàng ngoại thương, nói chung đã không có được những khả năng đó. Hơn nữa, những quy định về thế chấp hiện hành là một hạn chế lớn đối với việc cung ứng vốn cho hoạt động kinh tế đối ngoại.

Trước hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thương mại của ta liên doanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng dịch vụ kinh doanh nội và ngoại tệ, cung ứng tín dụng cho hoạt động kinh tế đối ngoại cho các công ty Việt Nam và công ty nước ngoài. Đây là một giải pháp quan trọng, vì các ngân hàng nước ngoài hiểu biết thị trường thế giới hơn, có nhiều năng lực thẩm định và đề xuất các dự án kinh doanh có hiệu quả hơn… Các ngân hàng nước ngoài gia tăng hoạt động sẽ tạo ra một áp lực cạnh tranh lớn hơn, do vậy hoạt động ngân hàng nước ta sẽ có hiệu quả hơn.

Thứ hai, thúc đẩy thị trường vốn hoạt động tốt hơn theo hướng – một mặt mở rộng diện cổ phần hoá và cho phép các công ty cổ phần được bán cổ phiếu; đồng thời cho phép các công ty chưa cổ phần hoá nhưng kinh doanh tốt có thể bán trái phiếu; cho phép các công ty hoạt động đối ngoại có thể huy động vốn theo các dự án trên thị trường chứng khoán… Mặt khác, cần cho phép các công ty nước ngoài, người nước ngoài được mua bán các loại chứng khoán trên thị trường. Thị trường chứng khoán nước ta mới hoạt động trong một thời gian ngắn ngủi, cần có những tổng kết và đánh giá, mời các nhà tư vấn nước ngoài có kinh nghiệm tham kiến để có thể có những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường.

Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng các loại hình kinh doanh vốn rủi ro ở các nước, để có thể xây dựng các quy chế, tạo ra các điều kiện cho phép các loại công ty kinh doanh vốn rủi ro kể cả các công ty nước ngoài có thể ra đời và hoạt động ở Việt Nam. Hoạt động kinh tế đối ngoại là một hoạt động dễ có những rủi ro, nhất là kinh doanh công nghệ cao. Do vậy các công ty kinh doanh vốn rủi ro là rất cần thiết.

Thứ tư, xây dựng khu kinh tế mở. Nước ta đã có các khu chế xuất, các khu công nghiệp, đang xây dựng các khu công nghệ cao, nhưng chưa có khu kinh tế mở với các tiêu chí hiện đại – ở một địa điểm có cảng nước sâu danh tiếng trên thế giới được nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm; có một thể chế kinh tế, hành chính thông thoáng phù hợp với các thông lệ quốc tế… Khu kinh tế mở này sẽ có khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả các dòng vốn bên ngoài và cả bên trong. Chỉ một đặc khu kinh tế Thẩm Quyến của Trung Quốc trong nhiều năm đã thu hút được một khối lượng vốn FDI gần như bằng cả tổng giá trị FDI của Việt Nam. Cần có một chương trình xây dựng một số khu kinh tế mở ở Việt Nam.

5. Các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế

Các ngành dịch vụ, theo cách tính của WTO, hiện có khoảng 155 ngành, bao gồm các hoạt động ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông, hàng không, du lịch, tư vấn… Ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 – 70% GDP. Vai trò của nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. Ở nước ta các ngành dịch vụ hiện đại rất kém phát triển. Không những thế, quan niệm của xã hội ta vẫn xem trọng sản xuất vật chất hơn dịch vụ, vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản xuất vật chất, kể cả các nguồn lực bên ngoài. Sản xuất vật chất là quan trọng, không ai phủ nhận, nhưng tầm quan trọng của nó không thể lấn át dịch vụ. Nếu ta tập trung đầu tư vào sản xuất thép, xi măng… nhưng không đầu tư thích đáng vào các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn… thì sản xuất thép, xi măng… sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao, chất lượng thấp, thiếu thị trường… Một nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chỉ được khuyến khích đầu tư vào sản xuất vật chất khi họ bí, cần tư vấn không có, cần vay vốn lại khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại quá đắt… Do vậy đã có nhà đầu tư nước ngoài nhận xét rằng phải có lòng dũng cảm mới dám đầu tư vào Việt Nam. Môi trường dịch vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu tư từ các nước phát triển, vì họ đã quen với môi trường đầu tư có hoạt động dịch vụ rất tốt. Điều đó giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khi đầu tư vào Việt Nam.

6. Cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp với định hướng xuất khẩu và sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế đất nước

Cơ cấu nhập khẩu của mỗi nước khác nhau có thể khác nhau tùy theo trình độ phát triển và các điều kiện lịch sử kinh tế, văn hóa, tự nhiên khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu này phải phù hợp với cơ cấu xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới và trong nước. Nghĩa là nó phải nhập những thứ để có thể sản xuất, gia công và xuất khẩu có hiệu quả và do vậy đương nhiên là có thể đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu.

Cơ cấu nhập khẩu của nước ta hiện là cơ cấu nhập khẩu 3 nhóm hàng hóa – máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng; hầu như không có nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ. Trong ba nhóm hàng hoá trên, nhóm hàng tiêu dùng thường chiếm một tỷ trọng nhỏ và giảm dần trong những năm gần đây. Năm 1995, hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng đến năm 2001, đã giảm xuống chỉ còn 5,3%. Trong nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập khẩu này, vì cho rằng ta chỉ nhập máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu cần cho phát triển sản xuất trong nước. Một cơ cấu cần cho phát triển sản xuất trong nước hẳn phải là một cơ cấu tiến bộ. Song thực tế đã không hẳn như vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu ít hàng tiêu dùng – khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu – là điều không bình thường. Thường các nước ở trình độ phát triển thấp như ta, kể cả Nhật Bản thời kỳ những năm 1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào khoảng 20% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Ở nước ta, vì nhập khẩu hàng tiêu dùng chính thức chịu mức thuế cao và nhiều cấm đoán, nên tình trạng buôn lậu mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là nạn tham nhũng. Nếu cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa, thì tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng chắc đã không kém 20% tổng giá trị nhập khẩu.

Việc ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế là một khiếm khuyết lớn. Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó đủ vốn mua được máy móc thiết bị hiện đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ – xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành “bãi thải công nghệ cũ”. Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện đại hóa các máy móc cũ, nên phải dùng máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên liệu vật liệu nhập khẩu – làm gia tăng chi phí. Ta cũng không nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn v.v.. nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu về được sử dụng càng kém hiệu quả.

Lý thuyết kinh tế học hiện đại chú trọng xuất khẩu để thu ngoại tệ, nhưng cũng đặc biệt chú trọng nhập khẩu – nhập khẩu những thứ để có thể hiện đại hóa kinh tế đất nước và phù hợp với định hướng xuất khẩu.

7. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại

Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại cần những nguồn nhân lực gì? Đó là các nhà chuyên đàm phán kinh tế trên các diễn đàn song và đa phương để mở cửa thị trường; những nhà nghiên cứu đánh giá tình hình thế giới, tìm kiếm thông tin, hoạch định chính sách, tìm hiểu thị trường, môi giới, quảng bá đầu tư; những nhà quản lý kinh doanh đối ngoại; những công nhân, kỹ sư, kỹ thuật viên lành nghề…

Đội ngũ những người làm các công tác trên của nước ta hiện rất mỏng và yếu.

Để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại, cần có những biện pháp sau:

– Cần tuyển chọn và cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nước ngoài chuyên về các quan hệ kinh tế quốc tế và kỹ thuật đàm phán quốc tế; xây dựng một bộ phận công tác ổn định chuyên lo việc đàm phán mở cửa thị trường, xử lý các rắc rối trong quan hệ quốc tế.

– Tăng cường đầu tư cho các trường đại học đào tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế, cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy những nghề phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại…

– Cho phép các công ty nước ngoài mở các trường dạy nghề ở Việt Nam

– Cần có chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam hoạt động kinh doanh, trong đó có những chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực đã về hưu ở nước họ nhưng lại muốn và có thể làm việc ở nước ta.

– Cần phổ cập tiếng Anh như là một quốc ngữ thứ hai.

– Cho phép rộng rãi hơn các trường nước ngoài có chọn lọc được mở các chi nhánh đào tạo tại Việt Nam.

8. Sửa đổi và ban hành các luật pháp cần cho kinh tế đối ngoại và phù hợp với các thông lệ quốc tế mà ta sẽ cam kết

Điểm nổi bật của thể chế và luật pháp Việt Nam trong thập kỷ 1990 là đã được đổi mới theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên hiện đang còn nhiều vấn đề.

Điểm đáng chú ý là hệ thống luật pháp của ta hiện vẫn chưa khớp với các cam kết quốc tế mà ta đã ký, có một khoảng cách xa với những thông lệ quốc tế hiện nay. Đáng lẽ ra ta phải căn cứ vào những nguyên tắc của WTO và các thông lệ quốc tế mà ta sẽ phải theo để đặt ra chương trình nghiên cứu, sửa đổi và xây dựng thể chế và luật pháp, thì ta lại chỉ xác định chương trình sửa đổi luật pháp và thể chế theo các cam kết đã ký. Hậu quả sẽ là khi ta nghiên cứu sửa đổi luật pháp theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ chưa xong thì ta lại phải sửa lại chính những luật pháp đó theo những cam kết với WTO. Công tác làm luật, sửa luật của ta hiện rất chậm, đặc biệt là các Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật. Các công ty xuyên quốc gia, vốn hoạt động trong các môi trường luật pháp đầy đủ, rất ngại đầu tư kinh doanh vào những nơi thiếu luật pháp, hoặc luật pháp chưa đủ rõ ràng như nước ta.

Trong các luật pháp, những luật pháp sau đây có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động kinh tế đối ngoại và hiện đang có nhiều vấn đề.

Thứ nhất là Luật Đất đai, ta đã có luật đất đai, nhưng hiện chưa đủ cho các doanh nghiệp có thể sử dụng đất để thế chấp vay ngân hàng làm vốn kinh doanh đối ngoại, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, do giấy tờ sở hữu đất chưa được hợp lệ, do các thủ tục phiền hà.

Thứ hai, là Luật Ngân hàng của ta chưa cho phép dùng thẻ tín dụng, hoặc chưa cho dùng các thương phiếu… làm vật thế chấp, trong khi ở các nền kinh tế thị trường thì đó là những hoạt động thường nhật.

Thứ ba, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu mới được thành lập lại giới hạn hoạt động của nó trong việc cung cấp tín dụng dài hạn cho các nhà sản xuất xuất khẩu có lựa chọn. Trong điều kiện nước ta hiện nay, quy định này dễ bị các doanh nghiệp lợi dụng, biến báo, chạy chọt để được vào diện chọn lựa. Các doanh nghiệp không có “tài biến báo” sẽ bị loại. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy là nên có khuyến khích như nhau cho tất cả các nhà xuất khẩu theo các tiêu chuẩn công bằng.

Thứ tư, Luật Đầu tư nước ngoài và luật Đầu tư trong nước hiện còn những khác biệt, tạo ra môi trường đầu tư không thống nhất và có phân biệt đối xử. Ở các nước, chỉ có một luật đầu tư thống nhất cho mọi loại kinh doanh.

Thứ năm, các luật và quy định về thuế quan, thủ tục hải quan, về thương quyền, về xuất nhập cảnh… của nước ta hiện còn có khác biệt khá lớn so với các nước trong khu vực. Chẳng hạn, Thái Lan và nhiều nước Đông Á đã miễn thị thực nhập cảnh cho tất cả các nước OECD, trong khi ta mới chỉ miễn thị thực nhập cảnh cho Nhật Bản.

Độ tin cậy về kinh tế của một quốc gia đối với thế giới tùy thuộc vào khả năng đảm bảo rằng hệ thống luật pháp của nó đối với các hoạt động kinh tế tuân theo các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế, đồng thời minh bạch và rõ ràng. Hệ thống luật pháp của ta tuy đã được đổi mới nhiều, nhưng vẫn còn thiếu sót, như chưa có luật kiểm soát độc quyền, luật chống bán phá giá, luật về thị trường bất động sản, thị trường vốn… Một số luật đã được ban hành nhưng còn khiếm khuyết như có tới hai luật đầu tư phân biệt đối xử giữa đầu tư trong và ngoài nước, luật phá sản không đủ hiệu lực làm phá sản các doanh nghiệp yếu kém… Do vậy việc sửa đổi các luật pháp đã có và ban hành các luật mới chưa có là một việc làm cấp bách.

Kinh tế đối ngoại nước ta hiện đã bước sang một giai đoạn mới – chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đã học hỏi và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đã có được những nền tảng bước đầu để có thể gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn mới. Đồng thời, những điều kiện quốc tế đã thay đổi, các quốc gia trong khu vực đã tiến xa so với chúng ta trên con đường hội nhập quốc tế và đang đặt ra những thách thức lớn. Trong bối cảnh đó, việc nước ta lựa chọn con đường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo những hướng mà bài viết này muốn lưu ý là một lựa chọn đúng đắn và thích hợp.

Ben Hopkin, Báo cáo điều tra về tác động của cơ sở hạ tầng ở Việt Nam lên các nhà xuất khẩu 3/2002. Ông N.SeSio, giám đốc Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7/2002 cho rằng chi phí liên lạc viễn thông của ta đắt gấp 6 lần Xingapo, 5 lần Philipin, gần 3 lần Inđônêxia, chi phí gửi hàng Container cao gấp 3 lần Xingapo, 2,5 lần Malaixia, gấp đôi Trung Quốc và Inđônêxia.

Ben Hopkin, 3/2002, Điều tra về tác động của cơ sở hạ tầng Việt Nam lên các nhà xuất khẩu.

Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2001, Hà Nội 2002, tr. 283.

© 2004 Thời Đại Mới – Số 1 – tháng 3/2004 – PGS. TSKH. Võ Đại Lược Viện Kinh tế Thế giới

Nguồn: http://www.tapchithoidai.org

(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Cập nhật thông tin chi tiết về Để Phát Triển Kinh Tế Số Ở Nước Ta Hiện Nay trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!