Xu Hướng 12/2023 # Đặc Điểm Hoạt Động Marketing Trong Ngân Hàng # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Đặc Điểm Hoạt Động Marketing Trong Ngân Hàng được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Việc nghiên cứu cầu thực chất là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi

“Khách hàng cần những sản phẩm gì?”, nhu cầu thực tế về chúng như thế nào?”. Ngoài ra ngân hàng còn cần thiết phải biết thêm cầu có khả năng chi trả, nghĩa là cầu được đảm bảo bằng tiến vốn của khách hàng. Qua trình nghiên cứu cầu bao gồm

Nghiên cứu mức cầu hiện tại

Ở bước này phòng Marketing có nhiệm vụ xem xét các phương hướng chung hình thành các nhu cầu của khách hàng tiềm năng và cả khách hàng đang phục vụ, cần phát hiện tron số khách hàng đó thì hiện nay cần quan tâm đến những khách hàng nào. Ngoài ra cần chú ý rằng không phải tất cả các nhu cầu được phát hiện ngân hàng đều có khả năng đáp ứng. Quá trình nghiên cứu

Dự đoán cầu

Để dự đoán chính xác những biến đổi của cầu cần nghiên cứu các khuynh hướng hiện có trên thị trường được xem xét, phát hiện tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến tìn hình cầu và xác định mức độ tác động có thể của chúng. Việc phân tích các khuynh hướng hiện có trong việc biến động của cầu của từng loại sản phẩm dựa trên cơ sở nghiên cứu sự vận động của cầu của từng loại sản phẩm ngân hàng đối với từng loại ngân hàng. Ví dụ: sự biến động của khách hàng có mức thu nhập cao sẽ có tác dộng tói các dịch vụ ngân hàng như tư vấn về thuế khoá, các khoản vay lớn. Vì vậy khi phát hiện các khuynh hướng biến động của khách hàng dẫn tới biến động của cầu về các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thì cần so sánh với các sản phẩm va fdv mà khách hàng hiện đang cung ứng để có các kế hoạch điều chỉnh.

Do hoạt động trong những điều kiện phức tạp của thị trường nên ngân hàng phải chú ý tới các vấn đề phục vụ ai và như thế nào. trên thực tế các ngân hàng không muốn thoả mãn tất cả các nhu cầu của tất cả các khách hàng tiềm năng. Do đó thị trường ngân hàng được chia ra thành các phân đoạn mà ở đó ngân hàng thực hiện việc bán sản phẩm của mình. Việc xác định chính xác các giới hạn thị trường phục vụ có ý nghĩa to lớn bởi vì chính trong giới hạn này là nơi ngân hàng hoạt động và hướng các chiến lược của mình vào đó.

Trong hoạt động ngân hàng, tiêu thức phân đoạn thị trường rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên 2 xu hướng được sử dụng rộng rãi nhất.

Phân đoạn thị trường theo các nhóm người tiêu dùng

Việc phân đoạn theo tiêu thức này là một quá trình tương đối khó khăn và phức tạp, đòi hỏi ngân hàng phải có nhiều nỗ lực. Theo tiêu thức này thị trường được chia thành 4 nhóm sau

Thị trường công ty

Thị trường bán buôn

Thị trường bán lẻ

Các tổ chức tài chính tín dụng khác và chính phủ.

Phân đoạn theo đặc trưng của các dịch vụ cung ứng

Phân đoạn theo tính chất các dịch vụ cung ứng rất có lợi khi lựa chọn các thị trường mục tiêu và cho phép xác định sản phẩm nào của ngân hàng được hấp dẫn nhất đối với khách hàng và cho phép so sánh dịch vụ đó với dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Theo phương pháp này có 4 tiêu thức nhỏ được các ngân hàng sử dụng sau đây.

Phân đoạn theo dịch vụ tín dụng

Phân đoạn theo dịch vụ tiền gửi

Phân đoạn theo nghiệp vụ đầu tư

Phân đoạn theo các dịch vụ khác

Phân đoạn theo một vài tham số khác

Ngoài hai phương pháp trên thì ngân hàng còn sử dụng một số tiêu thức khác để phân đoạn thị trường như:

Phân đoạn theo tiêu thức địa lý

Phân đoạn theo lứa tuổi

Phân đoạn theo mức tiền gửi

Sau khi công việc phân đoạn thị trường được hoàn thành thì việc quan trọng tiếp theo là lựa chọn thị trường mục tiêu nhằm tìm ra những đoạn thị trường mà ngân hàng có thế mạnh hơn đối thủ cạnh tranh. Vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là lựa chọn một trong số các phương án hoạt động sau:

Tập trung cố gắng phục vụ một nhóm khách hàng

Việc tập trung cố gằng vào một phân đoạn thị trường thích hợp tại ngân hàng tham gia vào thị trường mới nhằm mục đích “làm đà” cho sự mở rộng kinh doanh tiếp theo. Song nếu duy trì lâu chiến lượng này sẽ tuơng đối phức tạp khi đối thủ cạnh tranh bắt đầu tăng sụ cạnh tranh và khi đó ngân hàng sẽ gặp rủi ro cao.

Thoả mãn một nhu cầu nào đó của tất cả các nhóm khách hàng Phương án này được lựa chọn trong thời kỳ ngân hàng mới được thành lập, khi mà bao quanh là sự cạnh tranh mạnh mẽ. Ở đây điều đặc biệt là ngân hàng phải lựa chọn đúng đắn sản phẩm mà ngân hàng có khả năng thoả mãn số lượng tối đa khách hàng và có khả năng cạnh tranh.

Chuyên môn hoá có lựa chọn ở các phân đoạn thị trường khác nhau Phương án này được áp dụng khi ngân hàng đã được vị thế của mình trên thương trường, đảm bảo chi ngân hàng ít chịu ảnh hưởng của những thay đổi thị trường cũng như những thất bại trong cạnh tranh. Tuy nhiên, cần phả tốn kém cho chi phí Marketing và ngân hàng pha phân tán sức lực nên ít có ưu thế cạnh tranh ở một phân đoạn thị trường riêng nào đó

Phục vụ toàn bộ thị trường

Theo phương án này n cung ứng cho tất cả các khách hàng có nhu cầu và không hạn chế trong khuôn khổ các nhóm khách hàng nhất định. Tuy nhiên, phương án này chỉ thích hợp với các ngân hàng lớn, khả năng tài chính mạnh.

Sau khi thị trường mục tiêu được lựa chọn thì nhuệm vụ của ngân hàng là phải tìm cách xâm nhập vào đó thông qua quá trình định vị hàng hoá, tức là phải tìm cách khắc hoạn hình ảnh của sản phẩm trọng tâm khi khách hàng ở thị trường mục tiêu, bắt nguồn từ sự thấu hiểu những cảm nhận và đánh giá của họ về sản phẩm. Nói chung sản phẩm của ngân hàng là rất khó phân biệt nên để định vị sản phẩm thì các ngân hàng thường xác lập hình ảnh thông qua các biểu tượng hay đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền và khuyến mãi, tăng mức độ vật chất hoá sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt so với đối thủ cạnh tranh.

Chiến lược sản phẩm (P1)

Sản phẩm của ngân hàng thực chất là các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng cho khách hàng, các khách hàng mua sản phẩm của ngân hàng thực chất là mua khả năng thoả mãn một nhu cầu nào đó của mình. Các dịch vụ của ngân hàng được phân loại theo sơ đồ sau:

Dịch vụ tiền gửi tiền gửi là nguồn quan trọng nhất trong vốn tiền tệ của ngân hàng, chính vì vậy mà ngân hàng tập trung những cố gắng chủ yếu về tiếp thịvào nguồn vốn này, nguồn vốn bằng tiền của ngân hàng gồm có các dạng sau.

Dịch vụ tín dụng

Cho vay vốn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng và dịch vụ chủ yếu tạo ra nguồn thu nhập cho ngân hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất cho vay và lão suất huy động vốn của ngân hàng. Có rất nhiều cách phân loại dịch vụ cho vay theo các tiêu chí sau

Các dịch vụ đầu tư

Ngoài các dịch vụ cho vay, để sử dụng số vốn nhàn rỗi một cách có hiệu quả thị ngân hàng còn tiến hành các nghiệp vụ đầu tư vào các giấy tờ có giá, các loại giấy tờ có giá nhất mà ngân hàng đầu tư được chia thành 2 nhóm lớn

Các giấy tờ có giá thuộc loại dự trữ thứ nhất nhằm mục đích thu lợi nhuận cho ngân hàng và thường là các giâý tờ có giá có thời hạn dài và đưa lại thu nhập cao, chẳng hạn như công trái do chính phủ phát hành. Các giấy tờ có giá thuộc loại dự trữ thứ hai đạt mục đích nâng cao khả năng thanh toán hơn là thu nhập.

Các dịch vụ khác

Ngân hàng tiến hành các dịch vụ này nhằm mục đích đảm bảo cho ngân hàng 1 khoản thu nhập bổ sung và cho phép hạn chế rủi ro. Chúng bao gồm hàng loạt các dịch vụ trong đó có cả các dịch vụ không thuộc lĩnh vực ngân hàng, bao gồm: tổ chức thanh toán tiền mặt, dịch vụ ngoại tệ, dịch vụ tín khác, dịch vụ bảo quản vật có giá, dịch vụ tư vấn, dịch vụ thông tin, dịch vụ kiểm toán, dịch vụ thẩm định kinh tế kỹ thuật, các dịch vụ bảo lãnh, bảo hiểm và các dịch vụ khác.

Giá cả trong hoạt động ngân hàng chính là chi phí mà khách hàng phải trả cho ngân hàng để được sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Nó được thể hiện rõ nhất ở lãi suất của ngân hàng. Đây là nhân tố thứ hai của Marketing và là nhân tố chủ yếu xác định thu nhập của ngân hàng trên cơ sở đánh giá các chi phí mà ngân hàng bỏ ra.

Thông thường rất khó có thể xác định cơ cấu chi phí trong hoạt động ngân hàng do nó còn tuỳ thuộc vào sự quan tâm của các ngân hàng đối với việc cung ứng các dịch vụ tổng hợp cho thấy khách hàng của mình( được gọi là các dịch vụ liên kết)

Tính chất tổng hợp đó ngày càng phức tạp hơn cho việc đánh giá các thiệt hại do cung ứng từng dịch vụ bởi vì rất khó có thể phân chia chúng từ trong mối liên kết. Do đó các ngân hàng truyền thống thường định hướng tới việc xác định tổng lợi nhuận mà không chú ý đặc biệt tới các chi phí về cung ứng từng dịch vụ. Chính sách của chính phủ về việc điều chỉnh hợp đồng ngân hàng một cách trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động đến quá trình hình thành giá của ngân hàng, đặc biệt là việc ấn định tiền lãi suất…Điều đó được thể hiện rõ nét ở các nước phương Tây trong thời kỳ canh tranh ngân hàng còn yếu ớt. Tuy nhiên sự cạnh tranh mạnh mẽ ngày càng tăng từ phía các tổ chức ngân hàng cũng như các tổ chức phi ngân hàng đã làm suy yếu đáng kể sự can thiệp của Chính phủ trong việc hình thành giá của ngân hàng. Từ đó giá cả trong kinh doanh ngân hàng có cơ hội vận động theo quy luật cung cầu như các giá cả của các hàng hoá khác.

Thực tiễn hoạt động của các ngân hàng trên thế giới đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong việc vạch chiến lược hình thành giá cả. Để có được một mức giá phù hợp với từng nhóm khách hàng, đảm bảo lợi nhuận cho khách hàng cũng như ngân hàng và phù hợp với giá cả của đối thủ canh tranh thì quá trình vạch ra chiến lược giá cả của đối thủ cạnh tranh thì quy trình vạch ra chiến lược giá cả cho hoạt động kinh doanh ngân hàng của các nhà Marketing ngân hàng sau đây được sử dụng rộng rãi nhất.

Trong môi trường hoạt động kinh doanh, ngân hàng có một hệ thống các mối giao tiếp phức tạp: với khách hàng, với các định ché tài chính khác nhau, vơi snn TW, với các công chúng khác… Vì các mối quan hệ đó có các phương hướng khác nhau và đan chéo nhau nên ngân hàng có nhiệm vụ phải tiến hành hình thành và duy trì hình ảnh các sản phẩm cũng như tổ chức mình trong con mắt của xã hội và khách hàng tiềm năng. Muốn vậy, ngân hàng phải tiến hành các hoạt động xúc tiến hỗn hợp. Cũng như các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ khác, hệ thống xúc tiến hỗn hợp ở ngân hàng cũng bao gồm 4 yếu tố sau:

Bán hàng cá nhân

Bán hàng cá nhân là việc cung cấp các sản phẩm ngân hàng bằng các cuộc tiếp xúc với cá nhân giữa người đại diện của ngân hàng với khách hàng. Thông qua các cuộc tiếp xúc, nâng ngân hàng hiểu biết rõ hơn về khách hàng và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của họ. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt và rủi ro cao nên công cụ này ngày càng được các ngân hàng chú trọng. Song chi phí về các cuộc tiếp xúc là cao nên nó chỉ được áp dụng trong việc phục vụ các khách hàng lớn.

Kích thích tiêu thụ

Bao gồm việc thực hiện tổ hợp các công cụ nhằm thúc đẩy sự phản hồi của công chúng mục tiêu với các biện pháp khác nhau trong phạm vi chiến lược Marketing và chiến lược thông tin của khách hàng. Kích thích tiêu thụ không có khả năng được thực hiện một cách thường xuyên đối với các sản phẩm của ngân hàng và thu hút thêm khách hàng mới đẻ tạo mối quan hệ lâu dài. Tuy nhiên hiệu quả do nó mang lại tương đối nhanh hơn sơ với các biện pháp tác dộng khác. ngày nay ngân hàng thường sử dụng các công cụ kích thích tiêu thụ theo 3 hướng chính:

Kích thích người tiêu dùng: dùng các biện pháp như thi tuyển, trưng bày, trao giải thưởng, hạ giá, tuyên truyền các hình mẫu …

Kích thích lĩnh vực thương nghiệp: được thực hiện khi các dịch vụ của ngân hàng được cung cấp gián tiếp, thông qua bên thứ 3. Các công cụ kích thích trong lĩnh vực này bao gồm: hạ giá đặc biệt, triểm lãm chung, cung ứng hàng hoá miễn phí, phần thưởng cho những người môi giới, quà lưu niệm hay các quà tặng khác…

Kích thích nhân viên ngân hàng: giúp nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và phát triển kỹ năng thực hiện nghiệp vụ bằng các biện pháp như: sử dụng các loại phần thưởng, thi đua, quà tặng…

Tuyên truyền

Cơ cấu tổ chức ngân hàng là một bộ phận quan trọng để đạt được mục đích chiến lược đã chọn. Tất cả hoạt động của ngân hàng phụ thuộc vào việc ngân hàng được tổ chức như thế nào và các mối quan hệ giữa lãnh đạo và cán bộ nhân viên ngân hàng như thế nào. Thường thường những thiếu sót trong cơ cấu tổ chức cũng đủ để làm cho hoạt động của ngân hàng kém hiệu quả và có thể đi tới khủng hoảng.

Đối với Marketing tuy nó thâm nhập vào ngân hàng khá muộn, nhưng ngày nay các nhà quản trị ngân hàng trên thế giới đã nhận rõ vai trò vô cùng quan trọng của nó và bộ phận Marketing đã chiếm một vị trí xứng đáng trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Tuy có nhiều kiểu cấu trúc ngân hàng khác nhau nhưng bộ phận Marketing vẫn được đặt ngang hàng với các bộ phận quan trọng khác như là tài chính, kinh doanh, nhân sự, luật, kế toán… chẳng hạn với cơ cấu tổ chức ngân hàng theo nguyên tắc sản phẩm thì một ngân hàng được cơ cấu theo sơ đồ sau:

Cơ cấu tổ chức ngân hàng theo nguyên tắc sản phẩm

Ngoài việc chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức ngân hàng thì hoạt động Marketing được các ngân hàng tổ chức một cách chặc chẽ, bài bản theo các nguyên tắc khác nhau.

Tổ chức phòng Marketing theo chức năng

Trên thực tế cơ cấu tổ chức ngân hàng và bộ phận Marketing có thể thay đỏi một cách linh hoạt theo từng nhiệm vụ và mục tiêu ngân hàng ngưng Marketing vẫn chiếm vị trí quan trọng so với các bộ phận khác và được tổ chức hoạt động một cách chặt chẽ và khoa học.

Khái Niệm, Đặc Điểm Và Vai Trò Của Hoạt Động Bảo Lãnh Ngân Hàng

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Bảo lãnh là một hình thái đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, là một nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng.

Hiện nay, sự phát triển của sản xuất, hàng hóa và sự xuất hiện của tiền tệ ngày càng phát triển. Việc phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh đồng nghĩa với việc giao lưu hàng hóa giữa các vùng miền, quốc gia càng lớn đã có một số khó khăn nhất định trong quá trình mua bán, thanh toán, chuyển đổi tiền.

Vì vậy, việc các thương gia phải thực hiện công việc đổi các loại tiền của các vùng, các nước khác nhau giúp cho việc giao lưu hàng hóa trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Chính vì vậy hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng các dịch vụ để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Một trong những nghiệp vụ phát triển hiện nay của ngân hàng là nghiệp vụ bảo lãnh. Những rủi ro khác nhau trong quá trình kết và thực hiện hợp đồng là lý do sinh ra nhiều loại bảo lãnh khác nhau.

Dù rằng về cơ bản, chúng được phát hành với mục đích chung bảo vệ người thụ hưởng đối với những rủi ro xảy ra do người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Bảo lãnh ngân hàng chính là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ hưởng của hợp đồng khoản đền bụ trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp đồng.

1. Khái niệm hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Bảo lãnh là khái niệm được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, ở mỗi góc độ nó được hiểu theo một nghĩa khác nhau. Hiểu theo phương diện pháp lí thì :” Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền(gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ – Điều 366 Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005.

Đó là khái niệm bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự, theo đó cũng có thể hiểu bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng với nghĩa tương tự. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 2010, bảo lãnh ngân hàng được hiểu như sau:” Là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”.

2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Hoạt động huy động vốn.

Ngân hàng có thể tạo ra nguồn vốn bằng rất nhiều cách thức khác nhau nhưng chủ yếu chính là từ tiền gửi của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các loại hình khác nhau. Có ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và ngoài ra ngân hàng còn vay từ các cá nhân, tổ chức hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay bằng các cách thức khác.

Huy động bằng tiền gửi.

Tiền gửi giao dịch dịch vụ nhân tiền gửi là một trong những dịch vụ có sớm nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ khách hàng. Dịch vụ này có nguồn vốn và chi phí thấp nhưng mặt khác lại có quy mô rất lớn đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay khi các lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ba. Cá nhân, tổ chức khi sử dụng loại tài khoản này phần lớn dùng thanh toán cho khách hàng. Nó vừa là tài sản có của khách hàng, vừa là tài sản nợ của ngân hàng và ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả lại cho người gửi vào bất kỳ thời điểm nào. Thông qua đó ngân hàng huy động được lượng vốn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng và thu phí dịch vụ cũng như cung cấp cho khách hàng những tiện ích nhất định.

Hoạt động sử dụng vốn

Các ngân hàng thường đi vay các tổ chức tín dụng, các ngân hàng khác. Vay trực tiếp bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, bán tín phiếu kho bạc, vay trên thị trường liên ngân hàng, vay ngân hàng trung ương bằng cách tái chiết khấu.

Đây là hoạt động về ngân quỹ đảm bảo các khoản dự trữ tự nguyện dự trữ bắt buộc, đảm bảo tính thanh khoản, tiền mặt trong quá trình thu. Các hoạt động thanh toán bù trừ, tiền gửi giao dịch tại các tổ chức tín dụng khác. Đây là hoạt động nhằm kiểm soát tình hình ngân quỹ của ngân hàng không mang tính chất sinh lời. Hoạt động cho vay tùy theo từng tiêu chí có thể phân loại các hình thức cho vay theo mục đích sử dụng, bảo đảm hay kỳ hạn…Có thể nói hoạt động cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán và hoạt động ủy thác của khách hàng. Ngân hàng sử dụng vốn để mua chứng khoán có độ an toàn cao. Bên cạnh đó ngân hàng cũng thành lập các công ty chứng khoán với các nghiệp vụ như: tư vấn, bảo lãnh, lưu ký chứng khoán, môi giới…Một hoạt động khác của ngân hàng là nhận sự ủy thác của khách hàng để đầu tư vào những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cho khách hàng có rủi ro thấp. Ngân hàng đều có thể cung cấp cả hai loại dịch vụ ủy thác thông thường cho các cá nhân, hộ gia đình và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.

Hoạt động trung gian như: chuyển tiền hộ, mua bán ngoại tệ, tiền mặt, lưu ký, thanh toán séc, bảo lãnh, tư vấn tài chính, môi giới….

3. Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.

Từ khái niệm trên ta thấy thực chất bảo lãnh ngân hàng là một hình thái đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, do vậy mà nó vừa mang đặc thù chung của bảo lãnh vừa mang đặc tính tiêng chỉ có trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Trước hết, với bản chất là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự thì bảo lãnh ngân hàng chứa đựng những thuộc tính chung sau:

Phạm vi bảo lãnh có thể là toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên.

Bên cạnh những đặc điểm chung của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự thì hoạt động bảo lãnh ngân hàng cũng có những đặc thu sau:

Về bản chất pháp lí, bảo lãnh ngân hàng là một loại giao dịch thương mại đặc thù. Tính thương mại của hoạt động này thể hiện ở chỗ, hoạt động bảo lãnh ngân hàng vừa do tổ chức tín dụng thực hiện trên “thị trường” nhằm mục đích lợi nhuận vừa có tính chuyên nghiệp như một nghề nghiệp kinh doanh. Do đó mà để thực hiện hoạt động này bát buộc phải thực hiện việc đăng kí kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Về chủ thể, chủ thể hoạt động bảo lãnh ngân hàng luôn là các tổ chức tín dụng. Do bảo lãnh ngân hàng có tính rủi ro cao bởi vậy mà hoạt động này phải được thực hiện bởi các chủ thể chuyên nghiệp, có điều kiện về vốn là các tổ chức tín dụng.

Trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là người bảo lãnh mà còn có tư cách là nhà kinh doanh, thông qua hoạt động bảo lãnh tổ chức tín dụng tạo lợi nhuận cho mình.

Giao dịch bảo lãnh làm phát sinh hai hợp đồng: hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh. Hai hợp đồng này vừa gắn kết vừa tách rời, có mối quan hệ nhân quả với nhau nhưng hoàn toàn độc lập với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ nếu như hợp đồng này vô hiệu thì không đương nhiên hợp đồng kia bị vô hiệu.

Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể hủy ngang bởi người đại diện có thẩm quyền của tố chức tín dụng bảo lãnh.

Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên chứng từ.

4. Vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.

Vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng vô cùng quan trọng, đối với từng chủ thể thì nó có vai trò riêng:

Đối với tổ chức tín dụng: Đối với ngân hàng, bảo lãnh là một trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng đó là phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản không nhỏ, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay. Không chỉ đóng góp vào lợi nhuận, bảo lãnh còn làm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro mất vốn.

Đối với nền kinh tế: Sự tồn tại bảo lãnh ngân hàng là một khách quan đối với nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu làm cho nền kinh tế ngày một phát triển. Nó có vai trò như­ một chất xúc tác làm điều hoà, xúc tiến hàng loạt các quan hệ trong hợp đồng kinh tế. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể tin tưởng yên tâm tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế và có trách nhiệm với hợp đồng của mình đã ký kết. Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cư­ờng mối quan hệ thư­ơng mại quốc tế giữa các quốc gia.

Hoạt Động Ngân Hàng Là Gì? Khái Quát Về Hoạt Động Ngân Hàng?

Hoạt động ngân hàng là gì? Đặc điểm của hoạt động ngân hàng? Khái quát về hoạt động ngân hàng? Hệ thống ngân hàng theo quy định của Luật ngân hàng Việt Nam?

Như ta đã biết ngân hàng là một tổ chức kinh tế có đối tượng trong các giao dịch nghề nghiệp là tiền tệ.

Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua năm 1997, ngân hàng được hiểu là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

+ Hoạt động nhận tiền: Theo khoản 13 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

Việc nhận tiền gửi được thực hiện diễn ra liên tục và thường xuyên nhất tại Ngân hàng, việc nhận tiền gửi là một trong những hoạt động giúp cho ngân hàng huy động được nguồn tiền, nguồn vốn để duy trì hoạt động khác của ngân hàng.

+Hoạt động cấp tín dụng: Theo khoản 14 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, việc cấp tín dụng cho một tổ chức hay cá nhân được phép sử dụng được hiểu như một giao kết qua lại giữa các bên khách hàng và ngân hàng đó

+ Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: Căn cứ theo khoản 15 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản được hiểu là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.

– Hoạt động ngân hàng lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh trực tiếp

– Hoạt động ngân hàng chỉ do các tổ chức tín dụng thực hiện

– Chủ thể quản lý nhà nước là ngân hàng nhà nước

– Hoạt động ngân hàng được điều chỉnh bằng Luật Ngân hàng

– Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc thù, tính đặc thù thể hiện ở chỗ rủi ro cao, khó quản lý, khó giám sát..

+ Ngân hàng thương mại( thương mại nhà nước, thương mại cổ phần…)

+ Ngân hàng chính sách(Ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng phát triển)

+ Ngân hàng hợp tác quỹ tín dụng

– Tổ chức tín dụng phi ngân hàng

+ Công ty tài chính: không nhận được tiền gửi của cá nhân, không làm dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

– Quỹ tín dụng nhân dân với mục đích tương trợ giữa các thành viên, cho các thành viên cay hoặc các đối tượng ngoài thành viên gửi.

5. Các loại hình ngân hàng tại Việt Nam hiện nay và những hoạt động tại ngân hàng

+ Ngân hàng chính sách xã hội :

Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng do Nhà nước thành lập để cho những người thuộc đối tượng chính sách vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng phục vụ người nghèo có chức năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước , tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho người nghèo vay, thực hiện chương trình của Chính phủ đối với người nghèo. Hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo , không vì mục đích lợi nhuận , thực hiện việc bảo toàn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện cho vay trực tiếp đối với hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn, được vay vốn để phát triển sản xuất,không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn vay và theo lãi suất quy định.

Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn giảm thuế doanh thu (thuế giá trị gia tăng) và thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) , để giảm lãi suất cho vay đối với người nghèo. Các rủi ro bất khả kháng trong quá trình hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo được bù đắp bằng quỹ bù đắp rủi ro theo quy chế tài chính của Bộ Tài chính.

Hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.

+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngân hàng nhà nước Việt Nam có tư cách pháp nhân, cố vốn pháp định, tổ chức thành hệ thống tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các văn phòng đại diện ở trong nước, ở ngoài nước và các đơn vị trực thuộc. Theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam là người lãnh đạo, điều hành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và là thành viên của Chính phủ.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có chức năng ngân hàng trung ương, thực hiện các hoạt động kinh doanh vừa là cơ quan của Chính phủ. Kể từ sau cải cách hệ thống ngân hàng theo cơ chế kinh tế thị trường, Ngân hàng nhà nước Việt Nam không còn thực hiện hai chức năng cơ bản là quản lý nhà nước về ngân hàng và chức năng ngân hàng trung ương của đất nước.

Với chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng như: cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tín dụng, cấp thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức khác, quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp… Với chức năng là ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các hoạt động như phát hành, điều hòa lưu thông tiền tệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức tín dụng.

+ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn:

Ngân hàng thương mại Nhà nước chuyên doanh tiền tệ , tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn.

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn do Nhà nước đầu tư 100% vốn thành lập và thuộc sở hữu nhà nước. Thực hiện chủ trương cải cách hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, ngày 26.3.1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành nghị định số 53/HĐBT quy định lại cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng chuyên nghiệp được đổi thành ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng nông nghiệp.

Trên cơ sở pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 400-CT ngày 14.11.1990 về việc thành lập Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam trong đó quy định rõ; Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam là ngân hàng thương mại quốc doanh, có tư các pháp nhân thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, ngư diêm nghiệp.

Chức năng chủ yếu của Ngân hàng này là kinh doanh, tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng, cho tập thể, cá nhân vay tiền với lãi suất thấp nhất nhằm phát triển trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế hợp tác xã,kinh tế hộ gia đình, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nông dân và nhân dân nói chung, góp phần hiện đại hóa nông nghiệp.

Ngân hàng kinh doanh tiền tệ vì mục đích lợi nhuận.

Ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng để cấp tín dụng và thực hiện nghiệp vụ chiếu khấu và làm phương tiện thanh toán. Với tư cách là tổ chức kinh doanh, hoạt động của ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở chế độ hoạch toán kinh tế, nhằm mục đích là có lợi nhuận. Ngân hàng thương mại được pháp luật cho phép thực hiện rộng rãi các loại nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng như: nhận tiền gửi có kì hạn, nhận tiền gửi không kỳ hạn; thực hiện nghiệp vụ chiết khấu; dịch vụ thanh toán ; huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ nhận nợ…

Theo quy địnhcủa Luật tổ chức các tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức các tín dụng ban hành năm 2004, ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

+Về loại hình kinh doanh có: ngân hàng thương mại bán buôn, ngân hàng thương mại bán lẻ; ngân hàng thương mại vừa bán buôn vừa bán lẻ.

+Về tiềm năng kinh doanh có: ngân hàng thương mại trung tâm, ngân hàng thương mại khu vực, ngân hàng thương mại địa phương.

+Về hình thức tổ chức có: ngân hàng thương mại cơ sở, ngân hàng thương mại chi nhánh, ngân hàng thương mại chấp hữu.

+Về hình thức sở hữu có: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại liên doanh.

+Về đối tượng kinh doanh có: ngân hàng thương mại công thương, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng ngoại thương…

Ngân hàng thực hiện các hoạt động của Nhà nước về tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, giữ vai trò trung tâm của hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính chính thức của một quốc gia.

Chức năng phổ biến của ngân hàng, trung ương trên thế giới là thực hiện chức năng công quyền về ngân hàng như: phát hành đồng tiền quốc gia, bảo vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền đó, điều hòa lưu thông tiền tệ ở một quốc gia hoặc trong một liên minh giữa một số quốc gia. Khác với các ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương hoạt động chủ yếu nhằm mục đích thực hiện chính sách tiền tệ của một quốc gia hoặc của liên minh một số quốc gia. Ngoài ra, ngân hàng trung ương có thể có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, ban hành các quy chế quản lý hoạt động ngân hàng, cũng như chịu trách nhiệm về hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt.

Hoạt Động Của Ngân Hàng Lưu Ký, Ngân Hàng Giám Sát

Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát được lựa chọn tổ chức tài chính ngoài nước có chức năng lưu ký tài sản làm tổ chức lưu ký phụ để lưu ký các tài sản ở nước ngoài của công ty đầu tư chứng khoán được đầu tư phù hợp với quy định pháp luật. Hoạt động ủy quyền lưu ký phải tuân thủ các quy định sau:

Tổ chức lưu ký phụ phải là thành viên lưu ký theo quy định của pháp luật nước ngoài;

Hoạt động ủy quyền lưu ký phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát và tổ chức lưu ký phụ. Hợp đồng phải quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm giữa ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát và tổ chức lưu ký phụ. Tổ chức lưu ký phụ chỉ thực hiện theo lệnh hoặc chỉ thị hợp pháp của ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát;

Tài sản lưu ký phải được xác định rõ là tài sản của công ty đầu tư chứng khoán mà ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát cung cấp dịch vụ;

Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát phải có đầy đủ thông tin về tất cả mọi tài sản thuộc sở hữu của công ty đầu tư chứng khoán, bao gồm loại, khối lượng, nơi lưu ký, tổ chức lưu ký. Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát có trách nhiệm bảo đảm tài sản của công ty đầu tư chứng khoán phải được đăng ký, lưu ký và ghi nhận sao cho có thể luôn nhận diện được là thuộc sở hữu của công ty đầu tư chứng khoán .

Trách nhiệm của ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát trong hoạt động lưu ký tài sản của công ty đầu tư chứng khoán:

– Trường hợp là loại tài sản không có đăng ký sở hữu, thì ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát có trách nhiệm định kỳ hàng tháng đối soát với tổ chức tiếp nhận vốn đầu tư, tổ chức phát hành, tổ chức quản lý sổ đăng ký cổ đông hoặc các tổ chức tương đương khác về khối lượng, giá trị tài sản của công ty đầu tư chứng khoán, bảo đảm việc lưu ký tài sản tuân thủ quy định tại điểm e khoản 1 Điều này.

– Trường hợp là tiền gửi ngân hàng, ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát có quyền và trách nhiệm yêu cầu công ty đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ (nếu có) cung cấp đầy đủ thông tin về các hợp đồng tiền gửi, các tài khoản tiền gửi của công ty đầu tư chứng khoán. Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát có trách nhiệm định kỳ hàng tháng đối soát số dư tài khoản tiền gửi, giá trị các hợp đồng tiền gửi với các ngân hàng nhận tiền gửi của công ty đầu tư chứng khoán;

b) Quản lý và lưu ký tài sản của công ty đầu tư chứng khoán tách biệt với tài sản của các tổ chức, cá nhân khác, kể cả với tài sản của ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát;

c) Trừ trường hợp công ty đầu tư chứng khoán tự quản lý vốn, công ty quản lý quỹ là đại diện được ủy quyền thực hiện các giao dịch tài sản của công ty đầu tư chứng khoán. Việc chuyển giao tài sản của công ty đầu tư chứng khoán trong hoạt động đầu tư, thoái vốn đầu tư chỉ được thực hiện theo chỉ thị bằng văn bản của công ty quản lý quỹ, người điều hành quỹ theo đúng quy định tại hợp đồng lưu ký, hợp đồng giám sát;

d) Việc thanh toán các giao dịch chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch phải tuân thủ các nguyên tắc giao chứng khoán đồng thời với thanh toán tiền và các nguyên tắc bù trừ, thanh toán theo quy định của pháp luật. Mọi giao dịch chuyển khoản, thanh toán tiền, chuyển giao tài sản đều phải thực hiện đúng đến các đối tác giao dịch của công ty đầu tư chứng khoán, các tài khoản của công ty đầu tư chứng khoán. Giá trị thanh toán phải phù hợp với khối lượng tài sản, giá và đúng với số tiền ghi trong các chứng từ thanh toán;

e) Xác nhận các báo cáo về tài sản của công ty đầu tư chứng khoán, bảo đảm khối lượng tài sản trong báo cáo là đúng, đầy đủ, chính xác với thực trạng tài sản lưu ký tại ngân hàng;

g) Tham gia và cung cấp đầy đủ các thông tin tại các cuộc họp đại hội đồng cổ đông công ty đầu tư chứng khoán; các cuộc họp hội đồng quản trị công ty đầu tư chứng khoán nhưng không có quyền biểu quyết.

Tài sản của công ty đầu tư chứng khoán dưới dạng vật chất hoặc phi vật chất, đăng ký sở hữu dưới tên của công ty đầu tư chứng khoán hoặc không dưới tên công ty đầu tư chứng khoán (trong trường hợp tài sản không đăng ký sử hữu theo qy định của pháp luật), được lưu ký tại nhân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát và tổ chức lưu ký phụ (nếu có), là thuộc sở hữu của công ty đầu tư chứng khoán, không phải là tài sản của ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát hoặc công ty quản lý quỹ. Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát không được sử dụng tài sản của công ty đầu tư chứng khoán để thanh toán, bảo lãnh thanh toán cho các khoản nợ của mình hoặc cho bên thứ ba, kể cả cho công ty quản lý quỹ.

Thu, chi, hạch toán cổ tức, lãi trái phiếu, lãi vốn và các khoản thu nhập;

Thực hiện các bút toán, thanh toán các khoản chi;

Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát chịu trách nhiệm bồi thường đầy đủ cho công ty đầu tư chứng khoán trong trường hợp làm thất thoát tài sản của công ty đầu tư chứng khoán đã lưu ký tại ngân hàng, kể cả trong trường hợp do lỗi hoặc hành vi lừa đảo của nhân viên của ngân hàng, hoặc do sự cẩu thả, không cẩn thận của ngân hàng.

Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát chịu trách nhiệm bồi thường đầy đủ cho công ty đầu tư chứng khoán trong trường hợp tổ chức lưu ký phụ làm thất thoát tài sản của công ty đầu tư chứng khoán, trừ trường hợp;

a) Thuộc các trường hợp bất khả kháng, nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát, mà đã được quy định rõ về việc miễn trừ trách nhiệm đối với ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát trong các trường hợp này tại hợp đồng lưu ký, hợp đồng giám sát;

b) Tổ chức lưu ký phụ có trách nhiệm bồi thường cho công ty đầu tư chứng khoán và hợp đồng lưu ký phụ có điều khoản cho phép công ty quản lý quỹ (nếu có) thay mặt cho công ty đầu tư chứng khoán yêu cầu tổ chức lưu ký phụ phải bồi thường theo hợp đồng;

Marketing Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại

(thitruongtaichinhtiente.vn) – Bài viết nêu một số ưu, nhược điểm trong hoạt động marketing huy động vốn tại các NHTM, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này.

Tóm tắt: Trong những năm gần đây, thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh và có nhiều thay đổi tích cực cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Để đảm bảo nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh, nguồn huy động từ bên ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc áp dụng marketing đối với nguồn vốn huy động các ngân hàng thương mại (NHTM) là cần thiết. Thông qua nghiên cứu trường hợp cụ thể của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam  (BIDV) chi nhánh Hà Tây, bài viết nêu một số ưu, nhược điểm trong hoạt động marketing huy động vốn tại các NHTM, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này.

Capital mobilization marketing in commercial banks – from the case of BIDV Ha Tay

1. Một số hoạt động Marketing huy động vốn tại NHTM

Nghiên cứu thị trường

Thứ nhất, xác định mong muốn và sự thay đổi nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng của khách hàng.

Thứ hai, phân loại khách hàng và lựa chọn đoạn khách hàng mục tiêu của đoạn thị trường huy động vốn.

Thứ ba, nghiên cứu chính sách huy động vốn của đối thủ cạnh tranh.

Định vị sản phẩm

Tạo được hình ảnh cho sản phẩm huy động vốn, thương hiệu của ngân hàng thương mại (NHTM) trong tâm trí của khách hàng ở thị trường mục tiêu. Lựa chọn vị thế của sản phẩm huy động vốn của NHTM trên thị trường mục tiêu. Tạo được sự khác biệt cho sản phẩm, thương hiệu của NH. Lựa chọn và khuếch trương điểm khác biệt có ý nghĩa.

Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược marketing

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược giá cả: Giá cả của sản phẩm ngân hàng được xác định trên nguyên tắc phải bù đắp được các chi phí và có lãi. Việc xác định giá cả còn phụ thuộc vào mục tiêu của NHTM, nhu cầu và lợi ích của khách hàng, thị trường, chi phí, các nhân tố khách quan như: lạm phát, quy định của Nhà nước.

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phân phối: Là chiến lược trực tiếp đưa các sản phẩm ngân hàng đến với khách hàng thể hiện qua yếu tố con người, mạng lưới chi nhánh/ phòng giao dịch, cơ sở vật chất kỹ thuật. Hiện nay, ngoài các kênh phân phối truyền thống trên, các ngân hàng đều đang không ngừng hoàn thiện và phát triển các kênh phân phối có sử dụng công nghệ tiên tiến, mở rộng ra phạm vi quốc tế nhằm thống nhất sự cung cấp các sản phẩm, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược nhân sự: Mục tiêu của chiến lược nhân sự là nhằm nâng cao toàn diện đội ngũ nhân viên, đặc biệt là nhân viên giao dịch vì chính họ là một phần hữu hình của sản phẩm dịch vụ. Muốn đạt được hiệu quả cao trong chiến lược nhân sự nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần xây dựng chương trình đào tạo cụ thể, xác định các tiêu chuẩn, số lượng, phong cách cần có ở nhân viên ngân hàng.

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược hữu hình: Phương tiện hữu hình thể hiện qua ngoại hình, trang phục của nhân viên phục vụ, các trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ. Đây là những yếu tố hữu hình để khách hàng có thể cảm nhận về chất lượng dịch vụ ngân hàng. Cũng giống như logo và slogan, trang phục nhân viên của các ngân hàng được cho là một trong những đặc điểm nhận dạng quan trọng cũng như minh chứng cho tính chuyên nghiệp, uy tín sức lan tỏa của thương hiệu.

Đánh giá marketing huy động vốn

Marketing là một lĩnh vực chức năng, trong đó các mục tiêu, chiến lược và chương trình luôn phải thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của thị trường. Sau mỗi thời gian nhất định các NHTM cần đánh giá lại quan điểm chiến lược, mục tiêu và hiệu quả hoạt động marketing để có những điều chỉnh cần thiết.

Có hai công cụ cơ bản đánh giá marketing huy động vốn đó là: đánh giá hiệu quả và kiểm tra marketing.

Các chỉ tiêu đánh giá kết quả của marketing huy động vốn

– Chỉ tiêu phản ánh sự gia tăng về vốn

Tốc độ tăng trưởng VHĐ = (Tổng VHĐ kỳ này – Tổng VHĐ kỳ trước)/(Tổng VHĐ kỳ trước)*100

– Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu huy động vốn

Tỷ trọng của loại vốn = Quy mô của loại vốn / Tổng vốn huy động

– Chỉ tiêu lợi nhuận vốn huy động

Lợi nhuận vốn huy động = Doanh thu từ nguồn vốn huy động – Chi phí vốn huy động.

2. Hoạt động marketing huy động vốn tại BIDV  Chi nhánh Hà Tây

BIDV chi nhánh Hà Tây được thành lập ngày 1/6/1990, là một trong những chi nhánh của BIDV, là đơn vị hạch toán độc lập  trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng.

Hoạt động nghiên cứu thị trường

Việc nghiên cứu để phân loại thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu đã được chi nhánh tiến hành thực hiện trong những năm qua. Thị trường nguồn vốn tại địa phương đa dạng với nhiều nhóm khách hàng khác nhau. Theo địa bàn thị trường được phân đoạn chủ yếu tập trung vào thị trường mục tiêu là thị trường quận Hà Đông và quận Thanh Xuân.

Hoạt động định vị sản phẩm

Việc định vị sản phẩm trong hoạt động marketing huy động vốn tại BIDV chi nhánh Hà Tây được thực hiện sau quá trình thực hiện nghiên cứu phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu. Với thị trường mục tiêu là nhóm khách hàng cá nhân thì các sản phẩm được chi nhánh định vị và cung cấp là các sản phẩm tiền gửi, tiết kiệm như các sản phẩm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tích lũy, tiền gửi có kỳ hạn online cá nhân, tiền gửi thanh toán thông thường, tiền gửi kinh doanh chứng khoán. Với thị trường nhóm khách hàng tổ chức kinh tế thì các sản phẩm được chi nhánh định vị và cung cấp như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn online doanh nghiệp, tiền gửi như ý.

Hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược marketing

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược giá cả: Thực hiện theo chính sách lãi suất huy động mà hệ thống BIDV xây dựng cùng với những điều chỉnh theo đúng cơ chế lãi suất thỏa thuận với khách hàng. Đồng thời áp dụng biểu phí linh hoạt, ưu đãi cho các dịch vụ sản phẩm của mình. Biểu phí được BIDV quy định điều chỉnh theo từng thời kỳ khác nhau, tùy theo sự biến động của thị trường tài chính.

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phân phối: Các Phòng giao dịch như PGD BIDV Nguyễn Trãi, PGD BIDV Lê Lợi, PGD BIDV Yết Kiêu, PGD BIDV Văn Quán, PGD BIDV Lê Hồng Phong tại quận Hà Đông, PGD BIDV Nguyễn Quý Đức tại quận Thanh Xuân là những Phòng giao dịch được hình thành và hoạt động rất sớm, năm 2013 BIDV Hà Tây khai trương PGD BIDV Chúc Sơn tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội.

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược hỗn hợp: Về cơ bản hiện nay việc xây dựng và thực hiện chiến lược marketing trong huy động vốn tại hệ thống BIDV nói chung và chi nhánh Hà Tây nói riêng chính là thực hiện một chiến lược hỗn hợp, vừa theo những chỉ đạo và phương hướng, chính sách của hệ thống BIDV chi nhánh cũng xây dựng và thực hiện chiến lược theo đặc điểm riêng của chi nhánh.

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược nhân sự: Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của BIDV chi nhánh Hà Tây nói riêng và hệ thống BIDV nói chung là phải xây dựng, duy trì và phát triển đội ngũ nhân viên đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing của toàn hệ thống.

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược hữu hình: Phương tiện hữu hình thể hiện qua ngoại hình, trang phục của nhân viên phục vụ, các trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ. Chi nhánh Hà Tây luôn tuân thủ thực hiện theo quy định về đồng phục chung của nhân viên BIDV với tiêu chí lịch sự, gọn gàng và gây ấn tượng thiện cảm với khách hàng, mang màu sắc riêng biệt.

Kết quả, thông qua hoạt động marketing, tình hình huy động vốn tại BIDV chi nhánh Hà Tây giai đoạn 2023 – 2023 thể hiện qua số liệu tại bảng 1.

Bảng 1. Tình hình huy động vốn của BIDV Hà Tây

Đơn vị: tỷ đồng

(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh BIDV Hà Tây)  

Đánh giá marketing huy động vốn

Sự gia tăng nguồn vốn huy động tại Chi nhánh thể hiện qua bảng 2. Cơ cấu huy động vốn theo hình thức huy động tại BIDV chi nhánh Hà Tây hiện nay gồm: huy động từ tiền gửi dân cư, huy động từ tiền gửi của tổ chức kinh tế và phát hành các giấy tờ có giá (kỳ phiếu, trái phiếu).

Chỉ tiêu lợi nhuận vốn huy động được thể hiện qua bảng 3.

Bảng 2. Sự gia tăng nguồn vốn huy động tại BIDV Hà Tây

Đơn vị: tỷ đồng, %

(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh BIDV Hà Tây)

Bảng 3. Lợi nhuận huy động vốn tại BIDV Hà Tây

(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh BIDV Hà Tây)

3. Ưu điểm và nhược điểm trong hoạt động marketing huy động vốn tại các NHTM

Từ phân tích thực trạng hoạt động marketing huy động vốn tại BIDV chi nhánh Hà Tây, có thể nhận thấy những ưu điểm và đặc điểm chung đối với các NHTM như sau:

* Ưu điểm

Thứ hai, trong quá trình nghiên cứu thị trường, các ngân hàng đã có hoạt động tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, thói quen của khách hàng, cũng như về các hoạt động của các đối thủ và đối tác trên địa bàn.

Thứ ba, trong thực hiện chiến lược giá cả có thể thấy, lãi suất là điểm mấu chốt thu hút nguồn vốn huy động và ảnh hưởng đến các loại phí và các dịch vụ đi kèm trong cạnh tranh huy động vốn giữa các ngân hàng.

Thứ tư, trong thực hiện chiến lược phân phối, các ngân hàng đã không ngừng mở rộng mạng lưới, kênh phân phối trên khắp địa bàn để phát triển và giữ vững vị thế của mỗi ngân hàng. Do đó, các ngân hàng thường có các chính sách khuyến mại nhằm thu hút khách hàng huy động vốn.

Thứ năm, trong thực hiện chiến lược phát triển, các ngân hàng chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ nhân viên, giao dịch viên với tác phong giao dịch nhanh nhẹn, lịch sự, tận tình, chu đáo, chuyên nghiệp.

Thứ sáu, các ngân hàng không ngừng củng cố mối quan hệ khách hàng, đặc biệt là khách hàng lớn truyền thống, đẩy mạnh tiếp thị, huy động từ khách hàng tiềm năng.

* Nhược điểm và nguyên nhân

Bên cạnh những ưu điểm đạt được thì hoạt động marketing huy động vốn của các ngân hàng còn một số hạn chế cần khắc phục:

– Cơ cấu nguồn vốn kỳ hạn chưa thực sự mang lại hiệu quả cao nhất.

– Các sản phẩm dịch vụ chưa thực sự đáp ứng đủ nhu cầu của các đối tượng khách hàng khác nhau, dịch vụ Ngân hàng điện tử đôi khi còn xảy ra lỗi trong quá trình giao dịch.

– Hoạt động mở rộng tìm kiếm khách hàng mới chưa đạt hiệu quả cao, số dư lớn vốn huy động tập trung ở những doanh nghiệp đã có mối quan hệ lâu dài.

– Công tác phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu chưa được thực hiện một cách rõ ràng cụ thể.

– Đội ngũ nhân viên làm công tác huy động vốn còn nhiều hạn chế về trình độ ngoại ngữ.

– Công tác marketing huy động vốn chưa thực sự được chú trọng, chưa quyết liệt và chưa sâu rộng đến các đối tượng khách hàng.

Những hạn chế nêu trên là do một số những nguyên nhân sau:

– Nguyên nhân khách quan như: môi trường kinh tế – xã hội chưa thực sự ổn định; môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ; sự cạnh tranh giữa các NHTM trong cùng địa bàn hoạt động và nguyên nhân từ tâm lý người dân.

– Nguyên nhân chủ quan như: quy trình và quy chế hoạt động huy động vốn chưa linh hoạt; chưa có những chiến lược kinh doanh cụ thể; chi phí cho hoạt động xúc tiến – truyền thông thấp; hệ thống công nghệ thông tin chưa được ứng dụng mạnh mẽ; đội ngũ nhân viên chưa có nhiều kinh nghiệm.

4. Một số giải pháp đẩy mạnh marketing huy động vốn tại các NHTM

Thứ nhất, đối với sản phẩm:

– Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như: nghiên cứu áp dụng thêm nhiều hình thức tiết kiệm linh hoạt như tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm tích lũy. Tăng cường phát triển các sản phẩm dành cho đối tượng là các tổ chức kinh tế như mở các tài khoản đặc biệt nhằm hỗ trợ tối ưu cho từng nhu cầu cụ thể của khách hàng…

Thứ hai, đối với giá cả:

Chính sách lãi suất hợp lý phải vừa đẩy mạnh việc thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, vừa kích thích các khách hàng vay vốn sử dụng vốn có hiệu quả phục vụ cho đầu tư sản xuất kinh doanh.

Thứ ba, hoàn thiện chiến lược phân phối sản phẩm, dịch vụ:

Để tăng hiệu quả huy động và phục vụ khách hàng, các ngân hàng cần bố trí xây dựng thêm điểm giao dịch (phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm) tại vùng ngoại thành, những nơi đang có tốc độ phát triển nhanh. Đồng thời với việc phân phối sản phẩm, dịch vụ trong nước cũng cần mở rộng đầu tư ra nước ngoài.

Thứ tư, hoàn thiện chiến lược xúc tiến hỗn hợp như:

– Hoàn thiện công tác kế hoạch các công cụ marketing truyền thông hàng năm làm kim chỉ nam định hướng cho hoạt động marketing thành công.

– Chú trọng công tác chăm sóc khách hàng: hiện nay, các sản phẩm dịch vụ của các NHTM hầu như có ít sự khác biệt, vì vậy một trong những lợi thế cần tạo ra đó là chất lượng dịch vụ khách hàng. Cần tập trung vào công tác chăm sóc khách hàng để vừa tạo ra một lượng khách hàng trung thành vừa thu hút thêm những khách hàng mới.

Thứ năm, cần có những giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:

Trong điều kiện hiện nay khi mà công nghệ thông tin đang được ứng dụng mạnh mẽ trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội thì nhân tố con người đang lại càng trở nên quan trọng hơn nữa. Ngân hàng luôn phải đảm bảo có đội ngũ nhân viên đáp ứng kịp thời với sự thay đổi đó.

Thứ sáu, cần xây dựng kế hoạch tài chính cho marketing huy động vốn:

Để có thể đầu tư vào nguồn nhân lực có trình độ cao, đầu tư vào cơ sở vật chất, đầu tư vào công tác truyền thông và chăm sóc khách hàng… thì tài chính cho marketing là yếu tố quyết định.

Thứ bảy, áp dụng công nghệ ngân hàng, cụ thể như:

Tiến hành xây dựng một chiến lược phát triển công nghệ dài hạn đi đôi với phát triển nguồn lực hiện có. Việc thay đổi công nghệ ngân hàng khá tốn kém, vì thế nếu không có chiến lược phát triển công nghệ đúng đắn có thể tạo ra sự lãng phí lớn. Chiến lược công nghệ cần đi sâu vào các mặt, như: trình độ công nghệ, kỹ thuật, khả năng cải tiến, nghiên cứu và phát triển sản phẩm dịch vụ, ứng dụng, khai thác công nghệ thông tin, kỹ thuật số, điện tử và viễn thông trong hoạt động kinh doanh (giao dịch, thanh toán, quản trị điều hành…) của ngân hàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngân hàngTMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây (2023-2023), Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh.

 2. Peter Rode (NXB Tài chính dịch 2001), Quản trị Ngân hàngthương mại, NXB Tài chính, Hà Nội.

3. Philip Kotler (Nhà sách Alphabooks dịch 2011), Quản trị Marketing, NXB Lao động, Hà Nội.

4. Đỗ Dũng Tráng (2013), “Giải pháp marketing nhằm mở rộng huy động vốn tại ngân hàng thương mại Cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh”, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.

Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 10 năm 2023

Khái Niệm, Đặc Điểm Và Chức Năng Của Bảo Lãnh Ngân Hàng

X

Privacy & Cookies

This site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control cookies.

Khái niệm, đặc điểm và chức năng của bảo lãnh ngân hàng

1. Khái niệm

Khái niệm bảo lãnh

Phương thức bảo lãnh là bất cứ một sự bảo lãnh, một sự cam kết hay bất cứ một sự cam kết thanh toán nào của trung gian tài chính hoặc của pháp nhân hay thể nhân bằng văn bản là sẽ bồi thường một số tiền nhất định, nếu đến hạn mà người được bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ như quy định trên thư bảo lãnh.

Theo luật Dân sự Việt Nam điều 336, khái niệm bảo lãnh được xác định “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.

Khái niệm bảo lãnh ngân hàng

Bảo lãnh ngân hàng chính là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.

Cam kết bảo lãnh: Là văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, bao gồm:

Thư bảo lãnh: là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.

Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm Giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của doanh nghiệp mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp hơn.

Vì là một nghiệp vụ mới nên hiện có rất nhiều tranh cãi về đặc điểm của loại hình dịch vụ này. Xét về bản chất, bảo lãnh ngân hàng là hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (giao dịch bảo đảm) mang tính phái sinh. Vấn đề được đặt ra là quan hệ bảo lãnh có phải là quan hệ hợp đồng hay chỉ là cam kết đơn phương? Hợp đồng bảo lãnh ngân hàng được ký kết giữa những chủ thể nào? Trong trường hợp phát sinh tranh chấp về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ bảo lãnh thì cơ quan tài phán có thể xem xét một cách độc lập với quan hệ phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh hay không?

Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , ho tro spss , viết luận văn tiếng anh , làm tiểu luận thuê

2. Đặc điểm cơ bản 2.1. Tính chất độc lập

Mặc dù nội dung của bảo lãnh được xây dựng trên cơ sở nội dung của hợp đồng thương mại, hợp đồng vay vốn hay hợp đồng đấu thầu nhưng đặc trưng nổi bật của bảo lãnh đó là nó độc lập và tách biệt với các quan hệ thương mại và vay nợ.

Thứ nhất là quan hệ giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh (người thụ hưởng) trong hợp đồng thương mại, hợp đồng vay nợ hay đấu thầu. Đây là hợp đồng đóng vai trò cốt yếu và là cơ sở cho việc xây dựng hai hợp đồng còn lại.

Thứ ba là quan hệ giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành bảo lãnh thể hiện qua cam kết bảo lãnh của ngân hàng đối với khách hàng của mình (người được bảo lãnh).

Do vậy, Những vấn đề nảy sinh giữa các bên trong hợp đồng thương mại như các tranh chấp hợp đồng, hay các quyền kháng nghị từ hợp đồng đều không hề ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ngân hàng và bên người thụ hưởng. Giữa ngân hàng và bên thụ hưởng chỉ có mối ràng buộc ở các điều kiện bảo lãnh. Một khi điều kiện bảo lãnh của ngân hàng được tuân thủ thì ngân hàng phát hành không thể vì bất kỳ một lý do nào đó như: ràng buộc giữa Người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành không chặt chẽ, Người được bảo lãnh bị phá sản, Người được bảo lãnh vẫn còn nợ ngân hàng phát hành, Người được bảo lãnh và Người thụ hưởng đang tranh cãi về hình thức vi phạm và mức độ thiệt hại…mà từ chối hay cố tình trì hoãn việc thanh toán. Trách nhiệm này đòi hỏi ngân hàng phải thực sự thận trọng và cân nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho một khách hàng nào đó.

Đồng thời cũng vì lý do này mà người được bảo lãnh để được ngân hàng bảo lãnh cần tuân thủ chặt chẽ các cam kết của mình với bên yêu cầu bảo lãnh và với ngân hàng bảo lãnh. Ngân hàng sau khi xem xét, kiểm tra các chứng từ cần thiết sẽ phải thanh toán rồi mới đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.

Tuy nhiên, tuỳ từng hình thức bảo lãnh mà đặc trưng này được thể hiện rõ nét hay không. Nếu điều kiện đòi tiền là do chính người thụ hưởng lập và ghi “Tuyên bố vi phạm”(Statement of default), thì tính chất độc lập ở đây là gần như tuyệt đối. Ngược lại, nếu bảo lãnh quy định xuất trình chứng từ từ phía bên thứ ba như chứng thực của một cơ quan độc lập về sự vi phạm của người được bảo lãnh, quyết định của trọng tài, thậm chí phán quyết của toà án hay văn bản của người được bảo lãnh thì tính độc lập của nghiệp vụ bảo lãnh cũng đã ít nhiều bị điều chỉnh.

2.2. Bảo lãnh là một hoạt động ngoại bảng

Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng nhưng lại được quản lý như một nghiệp vụ tín dụng.

#luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ

Cập nhật thông tin chi tiết về Đặc Điểm Hoạt Động Marketing Trong Ngân Hàng trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!