Bạn đang xem bài viết Chuyên Đề:“Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam” được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Chuyên đề:“Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam”
1. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam/ Nguyễn Thị Phương Liên
Tóm tắt: Thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Những năm gần đây, thì trường TPCP Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định nhưng cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phát triển thị trường TPCP Việt Nam giai đoạn 2010-2015 từ các nguồn thông tin, dữ liệu thứ cấp, bài viết chỉ ra một số hạn chế về chủng loại hàng hóa, phương thức giao dịch, cơ sở nhà đầu tư; làm rõ các nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế trong quá trình phát triển của thị trường như hệ thống thông tin thị trường, các điều kiện cơ sở hạ tầng, môi trường pháp lý… Từ đó đề xuất các định hướng và giải pháp cho sự phát triển an toàn, hiệu quả của thị trường trong thời gian tới.
Nguồn trích: Tạp chí Khoa học Thương mại/ 2017, Số 103, Tr. 3-12
2. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam/ Phạm Thị Thanh Tâm, Đỗ Đức Minh
Tóm tắt: Trong cấu trúc của thị trường tài chính, thị trường trái phiếu là kênh dẫn vốn trung -dài hạn, hỗ trợ cho thị trường cổ phiếu và thị trường tín dụng ngân hàng. Thị trường trái phiếu cho phép huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và giảm nhu cầu vốn hóa vào hệ thống ngân hàng đặc biệt là vốn trung – dài hạn. Đối với thị trường trái phiếu Việt Nam, thị trường trái phiếu chính phủ phát triển mạnh trong giai đoạn vừa qua về quy mô, cấu trúc, cơ sở hạ tầng. Trong khi đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển, quy mô còn nhỏ (đến 31/12/2016 chiếm 5,27 phần trăm GDP), thanh khoản thấp. Điều này tác động đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp nói riêng bà sự phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam nói chung. Chính vì vậy, việc phát triển và hoàn thiện thị trường trái phiếu doanh nghiệp là một trong những ưu tiên hàng đầu trong phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn quan thị trường trái phiếu, đặc biệt là vốn trung – dài hạn, giảm bớt áp lực cho kênh tín dụng ngân hàng, phù hợp với xu hướng và thông lệ quốc tế.
Nguồn trích: Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam/ 2017, Số 4, Tr. 60-70
3. Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam/ Nguyễn Thị Thúy Hà
Tóm tắt: Là một bộ phận của thị trường tài chính, những năm qua, thị trường trái phiếu Việt Nam đã có những bước phát triển tương đối mạnh mẽ, đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, cung cấp một lượng vốn lớn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, cho đầu tư phát triển và các chương trình tín dụng chính sách mục tiêu của Nhà nước. Nếu như năm 2001, quy mô thị trường trái phiếu mới chỉ dừng ở mức 2,82 phần trăm GDP thì đến cuối năm 2012, con số này đã là 21,6 phần trăm GDP. Tuy vậy, nếu xét trên phương diện tổng thể, thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn đang tồn tại những hạn chế như: Quy mô và phạm vi của thị trường trái phiếu còn nhỏ, tính thanh khoản chưa cao, cấu trúc thị trường chưa hoàn chỉnh, hệ thống nhà đầu tư (đặc biệt các định chế đầu tư dài hạn) còn mỏng… Bài viết phân tích thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp phát triển thị trường này nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển.
Nguồn trích: Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng/ 2015, Số 159, Tr. 50-54
4. Triển vọng thị trường trái phiếu Việt Nam năm 2016/ Trịnh Thị Vân Anh
Tóm tắt: Để phấn đấu đạt mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 -2020 là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đi đôi với đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững; nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngày càng lớn, trong đó huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu giữ vai trò quan trọng.
Nguồn trích: Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia/ 2016, Số 1, Tr. 28-29
5. Phát hành trái phiếu chính phủ: Kết quả năm 2016 và triển vọng năm 2017/ Trịnh Thị Vân Anh
Tóm tắt: Năm 2016, KBNN đã hoàn thành nhiệm vụ huy động vốn cho NSNN theo Nghị quyết của Quốc hội giao, đạt được trên cả 5 tiêu chí về khối lượng huy động, kỳ hạn, lãi suất trái phiếu, phương thức, sản phẩm phát hành và cơ cấu nhà đầu tư. Năm 2017, được đánh giá là một năm hứa hẹn nhiều cơ hội để phát triển thị trường TPCP theo chiều sâu.
Nguồn trích: Tạp chí Quản lý ngân quỹ Quốc gia/ 2017, Số 01, Tr. 32-33
6. Phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam: Thực trạng và đánh giá/ Lê Thị Vân Anh
Tóm tắt: Tính đến năm 2016, Việt Nam đã trả qua 3 lần Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế thành công. Những lần phát hành này đã thiết lập điểm chuẩn cho trái phiếu Việt Nam trên thị trường quốc tế; mở đường cho các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trực tiếp huy động nguồn vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ; hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế nhằm đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư. Việc nhiều nhà đầu tư lớn quốc tế tham gia mua trái phiếu Việt Nam là điều kiện tốt để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu khi giao dịch trên thị trường thứ cấp, tạo thuận lợi cho những lần phát hành tiếp theo.
Nguồn trích: Tạp chí Tài Chính/ 2016, Số 636, Tr. 46-47
7. Đồng bộ giải pháp thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển nhanh và bền vững/ Minh Khôi
Tóm tắt: Trong bối cảnh thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế cả về thanh khoản, quy mô thị trường, cơ sở nhà đầu tư…tới đây, Bộ Tài chính sẽ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường này phát triển nhanh và bền vững hơn.
Nguồn trích: Tạp chí Điện tử Tài chính
8. Phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu Việt Nam/ Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính
Tóm tắt: Để phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, đồng thời tăng cường tính liên thông của thị trường tiền tệ với thị trường trái phiếu nhằm phát triển sâu rộng và bền vững thị trường này.
Nguồn trích: Tạp chí Điện tử Tài chính
9. Giải pháp đồng bộ phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam/ Vụ Tài chính ngân hàng (Bộ Tài chính)
Tóm tắt: Thị trường trái phiếu của Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh và trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để tận dụng tốt kênh dẫn vốn này đối với việc phát triển kinh tế đất nước, thời gian tới cần tiếp tục đề ra những giải pháp định hướng phát triển thị trường trái phiếu, góp phần phát triển thị trường vốn Việt Nam ổn định, bền vững.
Nguồn trích: Tạp chí Điện tử Tài chính
10. Một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp/ Nguyễn Thị Phương Dung
Tóm tắt: Mặc dù hành lang pháp lý cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam đã phát triển khá đầy đủ, tiềm năng thị trường rất lớn nhưng thực tiễn hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn khiêm tốn (kết thúc năm 2016, quy mô thị trường chỉ chiếm 5,27% GDP). Để thị trường trái phiếu doanh nghiệp của nước ta phát triển, trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp, cần triển khai nhiều giải pháp tích cực và đồng bộ.
Nguồn trích: Tạp chí Điện tử Tài chính
11. Thị trường trái phiếu chính phủ: Kỳ vọng tăng trưởng!/ Trần Thị Minh Hải
Tóm tắt: Mặc dù tình hình huy động vốn trái phiếu chính phủ 5 tháng đầu năm chưa như kỳ vọng, tuy nhiên, với ổn định kinh tế vĩ mô cùng nền tảng phát triển của thị trường trái phiếu trong những năm qua, mục tiêu đề ra trong năm 2015 vẫn có thể đạt được…Bài viết giới thiệu một số khó khăn và đưa ra nhiều kỳ vọng phát triển trong thời gian tới.
Nguồn trích: Tạp chí Điện tử Tài chính
12. Thị trường trái phiếu chính phủ kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển/ Phạm Nga
Tóm tắt: Sau 5 năm hoạt động (2009 – 2014), thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) đã trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, cung cấp công cụ chi bao phục vụ điều hành kinh tế vĩ mô, đồng thời góp phần cũng cố hình ảnh và độ tín nhiệm của Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. Đánh giá này được Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà đưa ra tại Hội nghị tổng kết 5 năm hoạt động và phát triển của thị trường TPCP diễn ra ngày 23/9 tại Hà Nội.
Nguồn trích: Tạp chí Thuế Nhà nước/ 2014, Số 40, Tr. 10-11
Tổng hợp: Võ Hồng Thơ
Tổng Quan Về Phát Triển Thị Trường Trái Phiếu Doanh Nghiệp Việt Nam
Từ khóa: Thị trường trái phiếu, doanh nghiệp, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Trong giai đoạn mới thành lập, thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển khá khiêm tốn. Tới năm 2009, hệ thống giao dịch chuyên biệt của trái phiếu Chính phủ (TPCP) được đưa vào hoạt động tại ở Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), quy trình đấu thầu, thanh toán và bù trừ được thiết kế một cách đồng bộ và hệ thống. Năm 2013, HNX xây dựng đường cong lợi suất chuẩn của TPCP, là thước đo tham khảo quan trọng cho các hoạt động giao dịch trái phiếu.
Đồng thời, những biện pháp tích cực như: đầu tư cơ sở hạ tầng tin học, tái cấu trúc các đợt phát hành TPCP… đã khiến tốc độ tăng trưởng trung bình năm của thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2011-2015 lên mức 31%/năm. Hiện nay, TPCP chiếm từ 85-87% thị trường trái phiếu, còn trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) chỉ chiếm từ 13-15% thị phần. Riêng năm 2018, thị trường TPDN có sự phát triển mạnh mẽ, khối lượng phát hành tại thị trường sơ cấp là 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần năm 2017 và cao hơn khối lượng phát hành của thị trường TPCP, tổng dư nợ TPDN đạt mức 474.500 tỷ đồng, tương đương 8,6% GDP (Biểu 1).
Do đó, việc thực hiện các nghiên cứu để đánh giá sự phát triển của thị trường TPDN ở Việt Nam là cần thiết để tạo tiền đề cho các chính sách nhằm phát triển một thị trường TPDN ổn định và bền vững.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan được thực hiện trên cơ sở thu thập và phân tích số liệu thống kê về thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPDN nói riêng. Đối tượng nghiên cứu là các cấu phần của thị trường TPDN gồm: thực trạng các hoạt động chính trên thị trường, quy mô thị trường, hoạt động công bố thông tin, cơ cấu kỳ hạn và cấu trúc nhà đầu tư,… Từ đó, đánh giá thực trạng của thị trường nhằm đưa ra các hàm ý chính sách cho sự phát triển thị trường trong thời gian tới.
3. Kết quả tổng hợp thực trạng phát triển thị trường TPDN Việt Nam
3.1. Hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Hoạt động phát hành trên thị trường TPDN hiện nay tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Chứng khoán 2006 và Nghị định số 163/2018/NĐ-CP. Theo Nghị định số 163/2018, các công ty có thể lựa chọn chào bán trái phiếu theo một trong các hình thức sau: (i) Đấu thầu phát hành trái phiếu; (ii) Bảo lãnh phát hành trái phiếu; (iii) Đại lý phát hành trái phiếu; (iv) Bán trực tiếp cho nhà đầu tư. Hiện nay, hầu hết các đợt phát hành TPDN được thực hiện thông qua hình thức bảo lãnh phát hành, chủ yếu là phát hành riêng lẻ.
Hình thức bán trực tiếp tới các nhà đầu tư chỉ áp dụng cho các tổ chức tín dụng và các TCTD này đồng thời phải tuân thủ các quy định của NHNN áp dụng cho việc phát hành TPDN. Ngoài ra, bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào khi phát hành TPDN cũng phải báo cáo kế hoạch phát hành lên đơn vị/bộ chủ quản để xin phê duyệt. Bên cạnh đó, những công ty muốn phát hành trái phiếu quốc tế đều phải báo cáo NHNN vì SBV được Chính phủ giao trách nhiệm kiểm soát trần giới hạn vay nợ nước ngoài hàng năm của quốc gia.
Sự ra đời của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP với những quy định gia tăng tính minh bạch về thông tin phát hành và sự tham gia tích cực của các định chế trung gian phân phối đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường TPDN. Bên cạnh đó, các chính sách của NHNN nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng cũng khiến các doanh nghiệp chuyển từ kênh huy động tín dụng ngân hàng sang kênh phát hành trái phiếu. Sự gia tăng cả hai phía cung và cầu đối với TPDN giúp thị trường TPDN phát triển sôi động hơn bao giờ hết (Biểu 2).
Trong giai đoạn 2010-2015 quy mô phát hành của thị trường TPDN Việt Nam tương đối ổn định, với khối lượng phát hành TPDN trung bình hàng năm dao động trong khoảng 30.000 – 35.000 tỷ đồng, trong đó khoảng 99% TPDN phát hành theo hình thức riêng lẻ. Quy mô phát hành TPDN có sự tăng đột biến từ năm 2016, đạt mức gần 130.000 tỷ đồng (tăng 203% so với năm 2015). Đặc biệt, năm 2018 ghi nhận con số đạt mức kỷ lục là 224.000 tỷ đồng phát hành TPDN riêng lẻ (tăng 94,5% so với năm 2017) và chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2019, quy mô phát hành TPDN riêng lẻ đạt mức gần 130.000 tỷ đồng 1.
3.2. Các yêu cầu về công bố thông tin TPDN
Với mục tiêu minh bạch hóa thông tin, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, đã có nhiều quy định về việc công bố thông tin đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu được ban hành. Cụ thể, doanh nghiệp phải xây dựng phương án phát hành và được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, phê duyệt. Phương án xây dựng phải bao gồm các nội dung cơ bản như: Thông tin chung về doanh nghiệp; Mục đích phát hành và phương án sử dụng vốn; Thông tin về trái phiếu dự kiến phát hành; Phương thức phát hành; Kế hoạch và phương thức thanh toán;… Doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm công bố thông tin trước và sau phát hành; công bố thông tin định kỳ, thông tin bất thường; công bố thông tin của doanh nghiệp về trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm theo chứng quyền, mua lại trái phiếu trước hạn, hoán đổi trái phiếu.
Hoạt động giao dịch trái phiếu doanh nghiệp
Tổng dư nợ của thị trường TPDN Việt Nam vẫn ở mức khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực. Theo báo cáo của VCBS, khối lượng trái phiếu doanh nghiệp hiện hành tăng mạnh từ 5,27% năm 2016 và 6,19% GDP năm 2017 lên 7,86% GDP năm 2018. Trong 8 tháng đầu năm 2019, với quy mô thị trường tăng lên mức khoảng 10,2% GDP (Biểu 3).
Cơ cấu kỳ hạn phát hành của TPDN có một sự tập trung ở các kỳ hạn 3-5 năm và trên 5 năm. Hai kỳ hạn này chiếm tỷ trọng khá lớn, đặc biệt cho thấy nhu cầu của tổ chức phát hành về công cụ nợ kỳ hạn dài này (Bảng 1).
Trong giai đoạn này, các NHTM là nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường, với tỷ lệ nắm giữ TPDN cao hơn 70%. Tiếp theo là công ty chứng khoán (15,21%), quỹ đầu tư (2,57%) và công ty bảo hiểm (0,8%). Khác với TPCP, TPDN được các NHTM xếp vào nhóm tín dụng và thị trường do vậy mang nhiều bản chất của thị trường tín dụng hơn là thị trường vốn.
Do cơ chế giao dịch thứ cấp thị trường TPDN còn thiếu và chưa minh bạch, Quỹ Bảo hiểm xã hội của Việt Nam với lượng vốn dồi dào chỉ được phép đầu tư vào TPCP (chiếm 85% tổng tài sản) 2 và chưa tham gia vào thị trường TPDN. Bên cạnh đó, mặc dù các văn bản hướng dẫn thành lập các quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện đã ra đời (Thông tư 115/2013, Thông tư 130/2015, Nghị định 88/2016 và Thông tư 86/2017), nhưng cho tới nay mới chỉ có 6 công ty bảo hiểm thành lập quỹ hưu trí tự nguyện, với tổng số vốn đầu tư vào TPDN rất khiêm tốn trong giai đoạn 2014-2017 (tỷ trọng đầu tư vào TPDN có bảo lãnh ở mức 1-2%, vào cổ phiếu và TPDN không có bảo lãnh dưới 5% tổng tài sản) 3. (Bảng 2).
Cơ sở hạ tầng của thị trường TPDN
Chất lượng cơ sở hạ tầng được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhằm phát triển thị trường TPDN hiệu quả và có tính thanh khoản cao. Hiện nay, thị trường TPDN Việt Nam đã có Hệ thống giao dịch thỏa thuận OTC; Hệ thống giao dịch tại Sở và Hệ thống thanh toán. Tuy nhiên, so với thông lệ quốc tế và thị trường TPCP trong nước, thị trường TPDN Việt Nam còn thiếu vắng hệ thống đăng ký phát hành/cấp phép phát hành trực tuyến; Hệ thống đấu thầu tiêu chuẩn; Hệ thống cấp mã ISIN trực tuyến; Hệ thống niêm yết thông tin TP; Hệ thống thông tin định giá TP; Hệ thống thông tin cấp quốc giá về TPDN.
4. Đánh giá và kết luận về phát triển thị trường TPDN Việt Nam
Nếu giai đoạn 2010-2015, thị trường TPDN Việt Nam chỉ đạt quy mô dưới 4%GDP thì từ 2016 tới nay, quy mô vốn hóa thị trường đã tăng dần và đạt mức 8,6% năm 2018. Tuy nhiên, con số này vẫn nhỏ hơn nhiều mức bình quân của khu vực Asean +3 là 21,7% GDP cho thấy tiềm năng phát triển của thị trường TPDN Việt Nam là rất lớn. Lý do là quy mô nền kinh tế Việt Nam so với khu vực Asean +3 khá tương đương và có nhiều tiềm năng tăng trưởng trong những năm tới.
Vì thế công cụ trái phiếu với khả năng đảm bảo an toàn đầu tư cao sẽ giúp nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn hơn. Mặt khác, do hệ thống ngân hàng trong nước đang chịu nhiều sức ép do hệ số nợ khó đòi cao, sự phát triển mạnh của thị trường TPDN sẽ tạo ra một kênh huy động vốn mới dài hạn, ổn định cho các công ty Việt Nam.
+ Sự vắng mặt của các tổ chức định mức tín nhiệm (ĐMTN) và các dịch vụ ĐMTN ở thị trường Việt Nam đã kìm hãm sự phát triển thị trường TPDN. Các đợt phát hành TPDN hiện nay vẫn mang bản chất của thị trường tín dụng hơn là thị trường đầu tư công cụ nợ; dẫn đến tình trạng thanh khoản không cao. Nghị định số 88/2014 do BTC ban hành là khung pháp lý đầu tiên cho việc thành lập các tổ chức ĐMTN ở Việt Nam, nhưng do thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích nên cho tới nay vẫn chưa có tổ chức ĐMTN nào chính thức hoạt động ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cả các công ty phát hành và các nhà đầu tư chưa có văn hóa trả phí cho việc dùng các thông tin, dịch vụ do các tổ chức ĐMTN cung cấp.
+ Sự thống trị tuyệt đối của các đợt phát hành riêng lẻ, cùng với thị trường giao dịch phi tập trung thiếu tính thanh khoản khiến tính minh bạch về thông tin TPDN còn kém. Gần 99% TPDN tại Việt Nam được phát hành theo hình thức riêng lẻ, cao hơn rất nhiều so với kinh nghiệm quốc tế (chiếm khoảng 12% tại Mỹ; 10% tại Đức, từ 0.4-15% tại Hàn Quốc). Theo Nghị định số 163/2018 các doanh nghiệp phát hành TPDN sẽ phải đáp ứng các yêu cầu chặt chẽ hơn về công bố thông tin trước và sau đợt phát hành. Tuy nhiên, các yêu cầu chuẩn hóa và chặt chẽ hơn về công bố thông tin thường áp dụng đối với các đợt phát hành ra công chúng. Bộ Tài chính hiện nay là cơ quan được báo cáo đầy đủ về hoạt động phát hành TPDN, tuy nhiên chưa có hệ thống hay cơ chế ủy quyền đại lý thông tin để cung cấp ra thị trường. Thiếu minh bạch thông tin trong các đợt phát hành TPDN sẽ khiến cho các nhà phát hành và nhà đầu tư tiềm năng lo ngại việc gia tăng chi phí và rủi ro.
+ Các sản phẩm của thị trường khá đơn giản, chưa đa dạng hóa và chưa đủ hấp dẫn với nhà đầu tư, chủ yếu tập trung vào phân mảng trung hạn, trả lãi coupon cố định hoặc thả nổi. Hiện chưa có sản phẩm trái phiếu gắn với chỉ số lạm phát; các trái phiếu kèm quyền mua/chứng quyền đã được phát hành nhưng chưa nhiều.
+ Các NHTM trong nước hiện vẫn là nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường TPDN, trong khi các nhà đầu tư chuyên nghiệp dài hạn đóng vai trò khá khiêm tốn. Một đặc điểm chính của trung gian tài chính dựa trên hệ thống ngân hàng ở châu Á và ở Việt Nam là các ngân hàng thường là những người mua TPDN chính trong giai đoạn đầu của thị trường. Một mặt, với việc NHNN siết chặt các quy định đối với các NHTM trong nước nhằm quản lý rủi ro và áp dụng cơ chế quản lý vốn theo Basel II, các ngân hàng trong nước sẽ chịu sự kiểm soát chặt chẽ từ NHNN trong việc đầu tư vào TPDN, làm giảm cầu với TPDN. Mặt khác, để đáp ứng các tiêu chí yêu cầu về vốn của Basel II nhiều NHTM sẽ phải đẩy mạnh kế hoạch phát hành trái phiếu dài hạn để tái cơ cấu vốn. Vì vậy, họ sẽ đẩy mạnh nguồn cung trên thị trường này. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường sự có mặt của các định chế đầu tư chuyên nghiệp là cần thiết để phát triển thị trường TPDN.
+ Việc tổ chức giao dịch đối với TPDN đang phân tán thành TPDN được niêm yết và trái phiếu giao dịch OTC. TPDN có thể được niêm yết trên các Sở tuy nhiên quy mô còn rất ít, hầu như không đáng kể. Hệ thống thanh toán cho TPDN hầu như chưa hình thành. Giao dịch TPDN trên thị trường OTC chủ yếu là giao dịch trực tiếp, TPDN không niêm yết do vậy các phương thức thanh toán chuẩn DVP chưa được áp dụng. Hệ thống mã ISIN quốc gia chưa áp dụng cho TPDN.
+ Các hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ cho sự hoạt động của thị trường TPDN còn thiếu. Chất lượng và sự đồng bộ của một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh (hỗ trợ cho việc đăng ký cấp phép/trực tuyến; cấp mã ISIN cho các nhà phát hành trái phiếu; hệ thống định giá/yết giá TP trực tuyến; hệ thống thông tin TPDN tập trung…) là một trong những yếu tố cốt lõi cho sự phát triển thành công của thị trường này và để hỗ trợ cho cả hai bên nhà phát hành và nhà đầu tư tiềm năng.
+ Nhận thức còn hạn chế của các công ty phát hành trái phiếu, các định chế đầu tư, trung gian và các nhà đầu tư về tầm quan trọng của thị trường TPDN. Một trong những lý do dẫn tới việc công tác đào tạo, tuyên truyền về trái phiếu chưa được chú trọng nhiều là vì đây được coi là thị trường chủ yếu dành cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp và các định chế đầu tư, những người vốn được coi là có đủ năng lực hành nghề trên thị trường này. Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức đào tạo hành nghề cần chú trọng công tác đào tạo nhà đầu tư về thị trường TPDN.
Bài viết là một phần của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho việc hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng của Việt Nam”, thuộc Chương trình KX01/16-20.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN: 1Tổng hợp số liệu từ báo cáo của Bộ Tài chính, VCBS và HNX năm 2018, 6 tháng đầu năm 2019. 2Báo cáo của Quỹ BHXH 2019. 3Bài “Thực trạng hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam” – ThS. Trần Nguyễn Minh Hải, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 18/2019. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Asian Development Bank (2012). ASEAN + 3 bond market guide Vietnam
Ayako Yamaguchi, Institute for International Monetary Affairs (IIMA) (2012). Domestic Bond Markets in the Asian region.
Hannah Levinger, Deutsche Bank (2014). What’s behind recent trends in Asian corporate bond markets?
Hiroshi Yoshikawa, Nomura Institute of Capital Markets Research (2016). The reforms and developments of Japan’s Corporate Bond market.
Hyun Suk, Korea Capital Market Institute (2014). ABMF and the standardization of the Asian Corporate Bond Market.
IOSCO Research Department. (2014) Corporate Bond Markets: A Global Perspective. Working paper Volume 1 April 2014.
IOSCO (2011). Development of the corporate bond markets in the emerging markets.
Satoshi Shimizu, Japan Research Institute (2008). Corporate bond markets of Korea, Malaysia and Thailand.
Yoshitomi, Masaru and Sayuri Shirai, Designing a Fiancial market structure in Post-crisis Asia – How to develop corporate bond markets. ADB Institute Working Paper 15 March 2001.
VCBS, Báo cáo thị trường TPDN 2018.
HNX, Đề án phát triển thị trường TPDN Việt Nam, 2016.
Nguyen Thi Thanh Huong, Nomura Journal of Asian Capital Markets 2016, “The overview of Vietnam securities market – 16 years of establishment and development”.
OVERVIEW ABOUT THE DEVELOPMENT OF CORPORATE BOND MARKET IN VIETNAMAssoc. Prof. PhD. NGUYEN THI MINH HUE
Lecturer, School of Banking – Finance, National Economics University
NGUYEN THI THANH HUONG
The Securities Research And Training Center State Securities Commission of Vietnam
ABSTRACT:
Vietnam’s corporate bond market has been progressing in the past two years. This has provided many opportunities for Vietnamese firms, but it has also raised challenges to Vietnam’s policy makers when the Vietnamese infrastructure has not met the requirement of the market development. Research on corporate bond market in Viet show the situation of critical issues of the market such as information publishment, market size, bond maturity, investor structure, ect. From there, the article reviews and provides policy implication for developing Vietnam’s corporate bond market.
Keywords: Bond market, business, Vietnam.
Thị Trường Trái Phiếu Là Gì? Vai Trò Của Thị Trường Trái Phiếu
Thị trường trái phiếu là gì? Thị trường trái phiếu có vai trò như thế nào đối với nền kinh tế, đối với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Trong bài viết này, Luận Văn Việt sẽ cung cấp cho bạn những thông tin chi tiết, đầy đủ nhất về vấn đề thị trường trái phiếu mà bạn đang quan tâm.
Thị trường trái phiếu là nơi giao dịch mua bán các loại trái phiếu đã phát hành, các loại trái phiếu này do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương và các công ty phát hành.
Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho phía chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn.
Thị trường trái phiếu đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đối với các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư.
2. Vai trò của thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả.
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Đây là thị trường có khả năng huy động các nguồn vốn phân tán, tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc đầu tư.
Đối với Nhà nước/Chính Phủ, toàn bộ các khoản chi tiêu khổng lồ đều trông chờ vào các khoản thu của ngân sách (trong đó chủ yếu là nguồn thu từ thuế), nhưng ngân sách không đủ chi, ngân sách Nhà nước luôn đứng trước nguy cơ thâm hụt. Chính phủ rất cần nguồn tài chính để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thiếu hụt ngân sách quốc gia.
Thị trường TPCP phát triển giúp Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ.
Trên thị trường vốn, trái phiếu là một hàng hóa quan trọng, đặc biệt là TPCP với đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên thị trường, góp phần hình thành lãi suất trên thị trường.
Trái phiếu do Chính phủ phát hành thu hút một khối lượng vốn tiền mặt trong lưu thông từ các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung gian. Vốn này được đưa vào sử dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải hàng hóa cho xã hội.
Nhờ vậy, mà cân đối tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ vòng quay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt của nền kinh tế, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước.
Ngân hàng trung ương (NHTƯ) theo sự ủy quyền của Bộ Tài chính thường phát hành loại trái phiếu ngắn hạn để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở.
Khi NHTƯ cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông về thì NHTƯ bán tín phiếu ra, ngược lại khi cần thiết phải đưa tiền vào lưu thông thì NHTƯ mua tín phiếu về. Mục đích góp phần thực hiện chính sách tài chính quốc gia khắc phục tình hình lạm phát, bảo đảm được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách hợp lý.
Thị trường trái phiếu phát triển làm cho thị trường vốn hoàn thiện và đa dạng hơn.
Thị trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị trường vững chắc mà nó dựa trên cơ sở cân đối giữa thị trường vay nợ ngân hàng, thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu trong tương lai. Thị trường trái phiếu thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của thị trường vốn.
Huy động vốn qua loại hình trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ thống ngân hàng. Đặc biệt là thị trường trái phiếu công ty vừa có thể huy động được nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội. Nếu trước đây doanh nghiệp chỉ có nguồn vay duy nhất từ ngân hàng, với sự tồn tại và phát triển hoạt động của thị trường TPCT đã tạo thêm cho các doanh nghiệp nguồn cung tín dụng hữu hiệu.
Phát triển thị trường trái phiếu sẽ làm giảm sự sự huy động qua hệ thống ngân hàng.
Điều này tạo sự cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng, làm giảm nhẹ các “sai lệch kép” và do đó hạ thấp nguy cơ nền kinh tế đối mặt với khủng khoảng về cán cân vốn như tình hình ở các nước Châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998.
Thị trường trái phiếu giúp Chính phủ thực thi có hiệu quả chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế-xã hội.
Đối với Chính phủ, một trong những chức năng nhiệm vụ quan trọng là quản lý vĩ mô nền kinh tế đảm bảo vai trò của “người trọng tài” tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế – xã hội phát triển bền vững.
Thông qua phát hành trái phiếu và đầu tư bằng vốn TPCP góp phần nâng cao hiệu quả của việc phân phối và tái phân phối nguồn lực tài chính, định hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
Mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển. Đối với doanh nghiệp, thường có ba cách để huy động vốn: vay ngân hàng, phát hành trái phiếu và phát hành cổ phiếu.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp ở Việt Nam thường huy động bằng cách vay ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái. Phát hành trái phiếu với các ưu điểm:
Phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một nguồn vốn ổn định và dài hạn, trong khi vay ngân hàng thường là ngắn hạn hơn.
Mặt khác, doanh nghiệp phát hành trái phiếu còn có ưu điểm về thời hạn vay hơn các khoản vay ngân hàng, các doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong việc xác định thời hạn vay. Nếu các doanh nghiệp chú tâm đến kênh huy động vốn này thì sẽ có lợi thế lớn cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trong tương lai.
Doanh nghiệp phát hành trái phiếu để không làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp.
Trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng ngại phát hành cổ phiếu rộng rãi vì sợ phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát hành cổ phiếu, vì không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu tư khi phải trả cổ tức cao theo hiệu quả kinh doanh… thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu.
Vì thế, doanh nghiệp không sợ bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ hạn chế trong phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Ngoài ra, trái phiếu là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái chủ sẽ kết thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với cổ đổng nắm giữ cổ phiếu trong suốt thời gian nó tồn tại.
Chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ phiếu.
Do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Việc đầu tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái phiếu, do đó mức bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ phiếu.
Công ty phát hành trái phiếu trả lãi cho trái chủ không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, trong khi đó công ty chỉ trả cổ tức cho cổ đông khi kinh doanh có lãi. Hơn nữa, trong trường hợp công ty giải thể hoặc bị phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước rồi mới đến các cổ đông.
Chính vì thế, nhà đầu tư luôn đánh giá mức độ rủi ro của trái phiếu thấp hơn cổ phiếu và tương ứng họ đưa ra mức bù rủi ro đối với trái phiếu thấp hơn đối với cổ phiếu.
Để tham gia thị trường trái phiếu với tư cách là nhà phát hành, các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy đối với nhà đầu tư như quy mô hoạt động, hệ thống kế toán – kiểm toán, định mức tín nhiệm…
Điều này đặc biệt quan trọng và không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng một cách rộng rãi và niêm yết trái phiếu của mình trên sở giao dịch chứng khoán. Trái phiếu của doanh nghiệp phát hành càng chất lượng thì càng thu hút được nhiều nhà đầu tư và ngược lại.
Chính những yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người đầu tư. Đây cũng có thể coi là một tác động mang tính gián tiếp của thị trường trái phiếu đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Thông qua chi đầu tư bằng vốn TPCP, khi Chính phủ đầu tư vào ngành, lĩnh vực nào sẽ giúp thúc đẩy hoạt động đầu tư vào ngành, lĩnh vực đó của thành phần kinh tế phi nhà nước.
Bên cạnh đó, đầu tư vào cổ phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất lợi nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi ro cao hơn. Thị trường trái phiếu với các loại trái phiếu và kỳ hạn khác nhau tạo thêm cho nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp.
Đối với nhà đầu tư, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ được nhận lại vốn góp ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu là tiền lãi, đây là khoản thu cố định.
Khi đầu tư vào TPCT, trái chủ nhận tiền lãi không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này không giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Thêm một đặc điểm nữa, nếu công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước các cổ đông. Vì vậy đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư có khẩu vị đầu tư không thích mạo hiểm.
Đề Tài Một Số Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ Việt Nam
thành viên, khối lượng trúng thầu của từng thành viên chính bằng khối lượng đặt thầu của thành viên đó. – Trường hợp tổng khối lượng GTCG đặt thầu của các thành viên vượt quá khối lượng GTCG NHNN cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu bằng khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán. Khối lượng trúng thầu phân bổ cho từng thành viên tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. b. Đấu thầu lãi suất: NHNN có thể thông báo hoặc không thông báo trước khối lượng GTCG cần mua hoặc cần bán trong từng phiên đấu thầu. Các TCTD đặt thầu tương ứng theo từng mức lãi suất (tối đa 5 mức lãi suất cho mỗi loại GTCG), NHNN xét thầu theo nguyên tắc: Khối lượng GTCG trúng thầu được xét theo lãi suất đăng ký từ cao đến thấp (trường hợp NHNN mua GTCG) hoặc từ thấp đến cao (trường hợp NHNN bán GTCG) và bằng tổng khối lượng các mức đăng ký trong phạm vi lãi suất trúng thầu mà không vượt quá khối lượng GTCG NHNN cần mua, bán. Lãi suất trúng thầu: Phụ thuộc vào phương thức xét thầu và có hai trường hợp sau: + Trường hợp xét thầu theo lãi suất thống nhất: Lãi suất trúng thầu là lãi suất đăng ký thấp nhất (trường hợp NHNN mua GTCG) hoặc là lãi suất đăng ký cao nhất (trường hợp NHNN bán GTCG) trong phạm vi lãi suất chỉ đạo (nếu có) mà tại đó quyết định được khối lượng trúng thầu không vượt quá khối lượng GTCG NHNN cần mua hoặc cần bán. Lãi suất trúng thầu thống nhất áp dụng để tính giá chung cho tất cả khối lượng GTCG trúng thầu. + Trường hợp xét thầu theo lãi suất riêng lẻ: Lãi suất trúng thầu là tất cả các mức lãi suất đăng ký từ cao đến thấp (trường hợp NHNN mua GTCG) hoặc là tất cả các mức lãi suất từ thấp đến cao (trường hợp NHNN bán GTCG) trong phạm vi lãi suất chỉ đạo (nếu có) mà tại các mức lãi suất đó quyết định được khối lượng trúng thầu không vượt quá khối lượng GTCG NHNN cần mua hoặc cần bán. Lãi suất trúng thầu riêng lẻ áp dụng để tính giá cho từng khối lượng GTCG trúng thầu tưng ứng. Phân bổ thầu: + Nếu cho đến mức lãi suất trúng thầu mà tổng khối lượng GTCG đăng ký đấu thầu của các thành viên nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán thì Khối lượng trúng thầu bằng tổng khối lượng đăng ký và từng thành viên được phân bổ thầu theo khối lượng đăng ký. + Nếu cho đến mức lãi suất trúng thầu mà tổng khối lượng GTCG đăng ký đấu thầu của các thành viên lớn hơn khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán thì tổng khối lượng trúng thầu bằng khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán và từng thành viên được phân bổ thầu bằng khối lượng đăng ký tương ứng tại các mức lãi suất cao hơn (trường hợp NHNN mua GTCG) hoặc thấp hơn (trường hợp NHNN bán GTCG) so với lãi suất trúng thầu và khối lượng trúng thầu tại mức lãi suất trúng thầu. 2. Một số thông tin về hoạt động nghiệp vụ TTM ở Việt Nam Ngày 12/7/2000 là ngày khai trương và triển khai phiên giao dịch đầu tiên tại nghiệp vụ TTM. Một số thông tin chi tiết về hoạt động nghiệp vụ TTM như sau: 2.a Thành viên tham gia nghiệp vụ TTM: Tổng số thành viên tham gia nghiệp vụ TTM đến nay 35 thành viên gồm các TCTD : TT Tên thành viên Ngày tham gia 01 NH Đầu tư & PTVN 07/7/2000 02 NH TMCP Đông á 07/7/2000 03 NH TMCP Sài gòn thương tín 07/7/2000 04 NH TMCP Quân đội 07/7/2000 05 NH Chinfon Commercial, HN 07/7/2000 06 NH TMCP Quốc tế VN 07/7/2000 07 NH TMCP Phương Nam 07/7/2000 08 Công ty Tài chính bưu điện 07/7/2000 09 NH TMCP các DN ngoài QD 07/7/2000 10 ABN AMRO Bank, CN Hà Nội 07/7/2000 11 NH Ngoại thương VN 07/7/2000 12 Quỹ Tín dụng nhân dân TW 07/7/2000 13 NH Công thương VN 07/7/2000 14 NH Nông nghiệp & PTNT VN 07/7/2000 15 NH TMCP Tân Việt 11/7/2000 16 STANDARD CHARTERED, CN HN 24/7/2000 17 NH TMCP Á châu 25/7/2000 18 NH TMCP Hàng Hải VN 01/8/2000 19 Citi Bank, CN Hà Nội 16/10/2000 20 NH VID Public 27/10/2000 21 NH TMCP Sài gòn công thương 18/5/2001 22 Ngân hàng ANZ 22/01/2002 23 NH TMCP Kỹ thương VN 12/6/2003 24 NH PT nhà đồng bằng SCL 10/11/2003 25 NH TMCP Xuất nhập khẩu 15/6/2004 26 NH TMCP Nhà Hà Nội 30/9/2004 27 Deutsche Bank,CN Hà Nội 28/12/2004 28 NH TMCP Nam Á 30/9/2005 29 NH United Overseas, CN HCM 30/9/2005 30 NH TMCP An Bình 15/12/2005 31 NH BNP PARIBAR 05/5/2006 32 NH TMCP Đông Nam Á 24/5/2006 33 NH TMCP Việt Á 24/5/2006 34 NH TMCPNT Đồng Tháp Mười 12/9/2006 35 NH ANZ 12/9/2006 2.b Khối lượng giao dịch nghiệp vụ TTM: Tần suất và khối lượng trúng thầu nghiệp vụ TTM tăng dần qua các năm kể từ ngày khai trương cho đến nay. Khối lượng giao dịch nghiệp vụ TTM (12/7/2000 – 31/10/2006) Năm thực hiện Số phiên thực hiện Khối lượng trúng thầu theo các phương thức giao dịch (tỷ đồng) Mua kỳ hạn Mua hẳn Bán kỳ hạn Bán hẳn Tổng cộng 2000 17 873,50 480,00 550,00 1.903,50 2001 48 3.253,81 60,00 50,00 570,00 3.933,81 2002 85 7.245,53 1.900,00 9.145,53 2003 107 9.844,15 11.340,00 21.184,15 2004 123 60.985,91 950,00 61.935,91 2005 159 100.679,15 700,00 1.100,00 102.479,15 10t/2006 133 26.332,77 200,00 77.102,00 103.634,77 Tổng cộng 672 209.214,82 540,00 950,00 93.512,00 304.216,82 3. Lãi suất hình thành tại nghiệp vụ TTM: Lãi suất được hình thành thông qua đấu thầu và thường giao động trong khoảng trần là lãi suất tái cấp vốn và sàn là lãi suất chiết khấu GTCG. Tuy nhiên tại thời điểm quá căng thảng về vốn khả dụng, có thể cao hơn lãi suất tái cấp vốn và vào thời điểm quá dư thừa vốn khả dụng, có thể thấp hơn lãi suất chiết khấu GTCG. NVTTM là công cụ điều hành CSTT chủ yếu nhất và có khối lượng giao dịch chiếm phần lớn trên TTTT. Kết quả giao dịch NVTTM năm 2008 như sau: Loại giao dịch Tổng số dự kiến Khối lượng đăng ký Khối lượng trúng thầu LS trúng thầu b.quân (%/năm) Mua có kỳ hạn (260 phiên) 979.800 3.883.098 947.205 12,92 Bán hẳn (133 phiên) 368.000 135.553 76.837 4,6 Bán có kỳ hạn (9 phiên) 12.022 12.022 12.022 14,91 Tổng số 1.359.822 1.030.673 1.036.066 Năm 2008, NVTTM đảo chiều so với năm 2007 với tổng số phiên giao dịch là 402 phiên, tăng 47 phiên so với năm 2007; doanh số giao dịch đạt 1.036.066 tỷ đồng, tăng 148% so với năm 2007, trong đó doanh số mua chiếm 91,42% và gấp 15 lần so với năm 2007, doanh số bán giảm 4,6%. Đặc biệt, mức lãi suất đặt thầu trong một số phiên mua kỳ hạn trong quý I/2008 ở mức rất cao, có lúc lên tới 40%/năm vì vậy NHNN đã áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng, lãi suất thống nhất cho tất cả các kỳ hạn giao dịch (từ 9-15%/năm) để ổn định lãi suất thị trường. Diễn biến này phản ánh những biến động bất thường của TTTT năm 2008 và khó khăn về thanh khoản của các TCTD. Kết quả giao dịch cụ thể của từng quý thể hiện như sau: Giao dịch Quý I Quý II Quý III Quý IV LS (%) KL (tỷ) LS (%) KL (tỷ) LS (%) KL (tỷ) LS (%) KL (tỷ) Mua kỳ hạn 12,18 190.214 11,88 445.000 15 283.100 13,6 28.891 Bán hẳn 8,5 1.867 7,75 1.578 4,5 74.986 Bán kỳ hạn 14,91 12.022 Nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBC): NH nhân dân Trung Quốc áp dụng công cụ thị trường mở vào năm 1993. Do các năm tiếp theo có rất ít các ngân hàng thương mại tham gia giao dịch, hàng hoá sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở thiếu, khối lượng giao dịch nhỏ nên vào năm 1997, PBC quyết định tạm ngừng thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Năm 1997, sau những cải cách của BPC thì thị trường liên ngân hàng đã có những bước phát triênt mới và đặc biệt từ năm 1998 khi PBC chuyển cách thức điều hành chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp thì cùng với công cụ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở đã trở thành công cụ chính sách tiền tệ quan trọng. 4.a. Dự báo vốn khả dụng : Để thực hiện chức năng bơm, hút vốn khả dụng thông qua nghiệp vụ thị trường mở , tháng 3/2004 , PBC thành lập hệ thống phân tích và sự báo vốn khả dụng. Hiện nay ngân hàng nhân dân TQ đưa ra chương trình quản lý vốn khả dụng hàng quý và hang năm theo mục tiêu hàng năm của chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu thanh khoản hàng ngày thông qua điều chỉnh cung cầu vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, mỗi tuần PBC thực hiện 4 lần nghiệp vụ thị trường mở. Việ tăng tần suất thực hiện nghiệp vụ thị trường mở đã hỗ trợ rất nhiều cho PBC quản lý, điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng một cách linh hoạt, từ đó đạt đựợc những mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ . 4.b Hàng hoá trên thị trường: Suốt thời gian dài, hàng hoá giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở Trung quốc chủ yếu là tín phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc. Tuy nhiên do tín phiếu chính phủ có rất ít kỳ hạn và khối lượng lưu hành tín phiếu Kho bạc nhỏ nên việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở gặp nhiều hạn chế trong việc bơm hút tiền từ hệ thống ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến việc quản lý điều tiết vốn khả dụng của NHND TQ.Tháng 4/2003, NHND TQ bắt đầu phát hành tín phiếu NHTW và trở thành hang hoá chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở. Khối lượng phát hành tín phiếu NHTW tăng mạnh qua các năm. Khối lượng phát hành tín phiếu NHTW qua nghiệp vụ thị trường mở Trung Quốc 2003-2007( tỷ NDT) 4.c Hình thức giao dịch Gồm mua bán lại và mua bán hẳn. Mua bán lại gồm : hợp đồng repo được sử dụng để rút tiền cơ sở làm giảm lượng vốn khả dụng; hợp đồng repo đảo ngược sử dụng để phát hành tiền cơ sở làm tăng vốn khả dụng. Từ tháng 5/1998 tới giữa năm 2000, chỉ có hoạt động mua bán lại được PBC sử dụng với mục đích duy nhất là phát hành tiền cơ sở. Tuy nhiên từ giữa năm 2000 đến nay, hoạt động này ở Trung Quốc lại tập trung chủ yếu vào việc hút tiền cơ sở từ hệ thống ngân hàng, số lần thực hiện hình thức giao dịch hợp đồng repo đảo ngược giảm, số lần thực hiện hình thức giao dịch repo và phát hành tín phiếu NHTW tăng. Đơn vị : lần Năm Tổng số thực hiện Hợp đồng repo đảo ngược Hợp đồng repo Tín phiếu NHTW 2000 132 107 25 0 2001 50 26 24 0 2002 77 45 32 0 2003 73 6 18 49 2004 138 1 43 94 2005 189 3 62 124 2006 137 1 39 97 Tổng cộng 796 189 243 364 4.2 Đấu thầu tín phiếu kho bạc Hình thức đấu thầu: Thực hiện kế hoạch phát hành năm 2009, kể từ ngày 15/01/2009, Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phối hợp với Ban Đấu Thầu Trái phiếu Chính phủ tại NHNN tổ chức các phiên đấu thầu Tín phiếu Kho bạc dưới các hình thức: – Hình thức phát hành: Ghi sổ. – Hình thức đấu thầu: Cạnh tranh lãi suất. Thời gian, kỳ hạn tín phiếu và khối lượng phát hành sẽ được đưa ra trong từng phiên đấu thầu. Và các Tổ chức tín dụng nộp đơn dự thầu qua mạng AFD. Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Kho bạc Nhà nước đấu thầu tín phiếu Kho bạc để huy động nguồn vốn cho Ngân sách Nhà nước. 0/2008, Ngân hàng Nhà nước có văn bản số 9183/NHNN-SGD gửi Tổng Giám đốc các tổ chức tín dụng thông báo việc tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua mạng tin học. Nhằm tiếp tục thu hút vốn nhàn rỗi cho Ngân sách Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Kho bạc Nhà nước tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua mạng vi tính rất thuận tiện và thanh toán nhanh chóng. Mỗi tuần đấu thầu từ 1 đến 2 phiên, hình thức của tín phiếu Kho bạc là loại ghi sổ, kỳ hạn 364 ngày với lãi suất phù hợp. Về nguyên tắc, tín phiếu do NH thương mại tự nguyện mua, trên cơ sở tính toán nguồn vốn của mình và có thời hạn dưới 12 tháng. Trường hợp cần thiết, NH thương mại có thể bán lại tín phiếu cho NHNN để lấy tiền về Thời điểm nửa đầu năm 2008, đặc biệt trong những tháng đầu năm 2008, tăng trưởng kinh tế thuận lợi nhưng chỉ số giá tiêu dùng được dự báo có nguy cơ tăng ở mức cao (riêng tháng 1 tăng 2,38%), việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức bắt buộc để rút tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát chặt chẽ tiền tệ ngay từ đầu năm, góp phần kiềm chế lạm phát. Ngày 17/3/2008, NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc với tổng giá trị tín phiếu là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,80%/năm; hình thức phát hành là ghi sổ. Giá trị tín phiếu được phân bổ cho từng tổ chức tín dụng theo quy mô, tỷ trọng huy động vốn bằng đồng Việt Nam của từng tổ chức tín dụng. Có 41 tổ chức tín dụng thuộc đối tượng mua tín phiếu NHNN bắt buộc. Tín phiếu NHNN mua bắt buộc đợt này được NHNN thanh toán khi đáo hạn (ngày 16/3/2009); xuất phát từ mục tiêu rút bớt tiền từ lưu thông do vậy các tổ chức tín dụng không được sử dụng tín phiếu mua đợt này trong các giao dịch tái cấp vốn với NHNN. Có nghĩa là với 20.300 tỉ đồng tín phiếu mà NH Nhà nước sẽ phát hành từ ngày 17-3 lại không có tính tự nguyện, NHTM buộc phải mua theo số lượng đã được NHNN ấn định. Khi mua rồi, NH thương mại cũng không được bán lại cho NH Nhà nước để lấy tiền về mà phải chờ đến khi đáo hạn. Thời điểm nửa cuối năm 2008 lạm phát vẫn xảy ra, nhưng với xu hướng giảm, kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước phối hợp tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc đợt 18 và 19: Số tín phiếu này sẽ được đấu thầu đợt 18 vào ngày 30/10 và đợt 19 vào ngày 3/11 với khối lượng gọi thầu là 1.000 tỷ đồng cho mỗi đợt, giảm đáng kể so với đầu năm 2008.Ngày phát hành tín phiếu đợt 18 vào 3/11/2008 và đợt 19 vào 5/11/2008 với kỳ hạn 364 ngày.Tín phiếu được phát hành dưới hình thức ghi sổ và không công bố lãi suất trong thông báo thầu. Khối lượng trúng thầu tín phiếu kho bạc qua các năm: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo kết quả đấu thầu tín phiếu kho bạc phiên 27 ngày 01/12/2008 như sau: Số lượng thành viên tham gia dự thầu 3 Khối lượng dự kiến phát hành 1000 tỷ đồng Khối lượng trúng thầu 1000 tỷ đồng Kỳ hạn phát hành 364 ngày.Lãi suất trúng thầu 8.98%/năm. Lãi suất đăng ký – cao nhất 10.00 – thấp nhất 8.88 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo kết quả đấu thầu tín phiếu kho bạc phiên 26 ngày 27/11/2008 như sau: Số lượng thành viên tham gia dự thầu 2 Khối lượng dự kiến phát hành 1000 tỷ đồng Khối lượng trúng thầu 300 tỷ đồng Kỳ hạn phát hành 364 ngày. Lãi suất trúng thầu 9.00%/năm. Lãi suất đăng ký – cao nhất 10.50 – thấp nhất 9.00 4.3. Thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam 4.3.1 Hàng hoá (các công cụ) trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là nơi các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng vay mượn nhau khoản dự trữ dư thừa nhằm bù đắp nhu cầu ngân quỹ tạm thời cho các nghĩa vụ tài chính thường xuyên. Qua định nghĩa ta thấy đối tượng của thị trường tiền tệ liên ngân hàng là khoản dự trữ tạm thời dư thừa có thể là nội tệ và ngoại tệ,ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu nội tệ. Hàng hoá trên thị trường chính là quyền sử dụng các khoản ngân quỹ dư thừa và giá cả được thể hiện thông qua lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. 4.3.2 Ho¹t ®éng cña thÞ trêng liªn ng©n hµng Khối lượng giao dịch: Khối lượng giao dịch thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm. Kết quả này phản ánh phần nào vai trò thị trường liên ngân hàng với tư cách là “kênh” dẫn vốn quan trọng của các tổ chức tín dụng, làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng, đồng thời có tác dụng đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh cho toàn hệ thống. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua, khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng cũng có nhiều biến động 1.a. Năm 2005: Khối lượng giao dịch trên thị trường nội tệ liên ngân hàng co xu hướng tăng: Năm 2005, Thị trường tiền tệ trong nước hiện không chỉ có sự sôi động của các chiến dịch huy động vốn và khuyến mại của các ngân hàng thương mại, của xu hướng gia tăng lai suất tiền gửi, mà cả thị trường nội tệ liên ngân hàng cũng đang “nóng lên” khá nhanh. Thị trường nội tệ liên ngân hàng từ đầu năm đến tháng 8/05, tiếp tục phát triển với các hình thức vay mượn lẫn nhau giữa các tổ chức trung gian tài chính dựa trên nền tảng lai suất của thị trường tiền tệ. Nói cách khác, ngân hàng này thừa vốn cho ngân hàng khác vay, hay ngân hàng có điều kiện mở rộng cho vay hiệu quả tìm đến ngân hàng có nguồn vốn dồi dào để vay. Đây chính là thị trường bán buôn vốn giữa các ngân hàng thương mại, mà giá cả là lai suất thoả thuận giữa các bên. Từ đầu năm 2005, thị trường nội tệ liên ngân hàng diễn ra sôi động. Tính đến nay, trên địa bàn chúng tôi số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác đạt 22.517 tỷ đồng, tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác đạt 21.385 tỷ đồng, cho vay tổ chức tín dụng khác đạt 4.724 tỷ đồng và đi vay tổ chức tín dụng khác là 3.600 tỷ đồng. Lãi suất trên thị trường này biến động không lớn. Lai suất cho vay qua đêm là 6,0%/năm, lai suất kỳ hạn 1 tháng là 6,8%/năm, lai suất kỳ hạn 3 tháng là 7,3%/năm và lai suất kỳ hạn 6 tháng là 7,8%/năm. Số liệu cân đối vốn huy động và dư nợ cho vay cũng cho thấy, mặc dù chúng tôi có tiềm năng và có số dư vốn huy động đứng thứ hai trong toàn quốc, nhưng do sức hấp dẫn về vốn đầu tư nên tính cân đối sơ bộ thiếu hụt gần 30.000 tỷ đồng được điều chuyển theo các hệ thống ngân hàng thương mại để đáp ứng nhu cầu cho vay trên địa bàn. Thực trạng này cũng cho thấy, cân đối vốn cho khu vực này càng khẩn trương hơn, nếu trong các tháng cuối năm, các ngân hàng thương mại không gia tăng được vốn huy động th´ khó có thể điều chuyển vốn cho chúng tôi Tại Hà Nội, số dư các khoản vay các tổ chức tín dụng khác đạt 46.434 tỷ đồng, chiếm tới 16,3% tổng tài sản nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Cũng do tình trạng nhu cầu vốn của một số ngân hàng thương mại rất khẩn trương để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nên tình trạng vay mượn vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại diễn ra rất sôi động. Huy động vốn trên thị trường II, tức là thị trường liên ngân hàng của khối ngân hàng liên doanh tăng tới 91,1%, do khối ngân hàng này phải đáp ứng nhu cầu vốn vay của các dự án liên doanh, dự án 100% vốn nước ngoài đang triển khai ở Việt Nam. -Tương tự, khối ngân hàng thương mại cổ phần tăng tới 30,8%, do phải đáp ứng nhu cầu vốn mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng cho vay nhu cầu tiêu dùng trong dân cư và do phải điều chuyển vốn vào hội sở chính ở phía Nam. -Khối Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn do nhu cầu vốn chuyển về mở rộng cho vay ở nông thôn, cho vay các vùng sản xuất thuỷ hải sản, cà phê, cao su xuất khẩu…, nên có số vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng tăng khá và hiện chiếm tỷ trọng tới 24% trong tổng tài sản của ngân hàng này. Do huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng sôi động, nên phần nào kiềm chế được sự gia tăng lai suất trên thị trường tiền tệ trong cả nước hiện nay. Tại Hà Nội, tính cân đối chung không những thừa tới khoảng trên 30.000 tỷ đồng vốn phải chuyển đi cho vay ở phía Nam và đầu tư trên thị trường tiền gửi, mà còn có vai trò cung ứng vốn lớn nhất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng. Lãi suất vay mượn vốn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng ở Hà Nội cũng ở mức hợp lý, tương ứng với lãi suất ở chúng tôi Một điều nghịch lý là nếu như trước đây các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị thường thiếu vốn, phải đi vay vốn của các ngân hàng thương mại Nhà nước, do uy tín của các ngân hàng thương mại cổ phần không cao, mạng lưới hạn chế. Song hiện nay th´ tình hình diễn ra ngược lại, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần trở thành người cho vay vốn lớn trên thị trường liên ngân hàng, bán buôn vốn cho ngân hàng thương mại Nhà nước. Nguyên nhân do các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị linh hoạt trong huy động tiền gửi, lai suất hấp dẫn, mở rộng mạng lưới nhanh tới những nơi thuận lợi huy động vốn, công tác tiếp thị hiệu quả và hình thức huy động vốn đa dạng. Hiện nay các ngân hàng thương mại cổ phần cho vay chỉ riêng các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tới trên 17.000 tỷ đồng, chưa kể một số ngân hàng thương mại quốc doanh khác. Diễn biến đó cũng cho thấy hiệu quả cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường vốn. Thị trường liên ngân hàng phát triển là phù hợp với thông lệ quốc tế, là bước phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo xu hướng hội nhập, đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp, của khách hàng cả về số vốn vay, cả về lai suất vay vốn. Trên thị trường tiền tệ, sẽ có một số ngân hàng thương mại có thế mạnh về huy động vốn sẽ thiên về bán buôn vốn trên thị trường. Trong khi đó, có một số ngân hàng thương mại có thể mạnh về mở rộng cho vay an toàn sẽ thiên về cho vay. Trong từng hệ thống ngân hàng thương mại cũng vậy, có những chi nhánh thiên về huy động vốn và chi nhánh thiên về cho vay. Mục tiêu cao nhất là đáp ứng nhu cầu cao nhất về vốn đầu tư của nền kinh tế và lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Đồng thời h´nh thành nên lai suất bình quân trên thị trường, giảm khoảng cách chênh lệch lai suất giữa nông thôn và thành thị, khoảng cách lãi suất cho vay giữa các ngân hàng thương mại, thúc đẩy chu chuyển vốn trong cả nước. 1.b Năm 2007 Cụ thể các con số về khối lượng giao dịch trên thị trường II cuối năm 2007 của một số ngân hàng: – Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn Mỹ Xuyên thời điểm hết năm 2007, tổng tiền gửi và vay tổ chức tín dụng khác lên tới 624 tỷ đồng, tăng mạnh so với 166 tỷ đồng của năm 2006. Trong khi đó, vốn huy động từ khách hàng chỉ có 328,7 tỷ đồng, tăng hơn 3 lần so với mức 109 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy trong cơ cấu nguồn vốn 952,7 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm tới 65,5%. Cũng tại thời điểm này, dư nợ cho vay khách hàng là 1.266 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 392,9 tỷ đồng cuối năm 2006. -Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định có quy mô rất khiêm tốn trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, cũng tính đến hết năm 2007 tổng số tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 840 tỷ đồng, gấp 5 lần mức 168 tỷ đồng hết năm 2006; trong khi đó, tiền gửi và huy động từ khách hàng chỉ đạt 417 tỷ đồng, tăng rất chậm so với mức 332 tỷ đồng năm trước. Tính chung trong cơ cấu nguồn vốn huy động 1.257 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên thị trường liên ngân hàng chiếm tới 66,8%; trong khi dư nợ cho vay khách hàng là 1.049 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2006. Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn huy động, ta thấy một số ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ cũng có tỷ trọng vốn đi vay trên thị trường liên ngân hàng cao tương tự như hai ngân hàng thương mại cổ phần nói trên. Một ngân hàng khác thuộc nhóm quy mô khá, như: -Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế, cũng tính đến hết năm 2007 có tổng số tiền gửi và tiền vay các tổ chức tín dụng khác là 12.846,6 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 3.429,3 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động từ khách hàng là 17.686,7 tỷ đồng, tăng khoảng 1,7 lần so với mức 9.813,5 tỷ đồng cuối năm 2006. Tương tự, trong cơ cấu nguồn vốn huy động là 27.500,2 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm 46,7%. Về sử dụng vốn, riêng dư nợ cho vay khách hàng là 16.611 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 9.058,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế cũng có số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác là 12.347 tỷ đồng, gấp gần 4 lần năm 2006. -Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương đến hết năm 2007 có tổng tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 8.458,9 tỷ đồng, tăng gần 1,7 lần so với mức 5.077,8 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng là 24.476,6 tỷ đồng, tăng khoảng 2,5 lần so với mức 9.566 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng nguồn vốn huy động là 32.934,9 tỷ đồng, thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm 25,7%. Tuy nhiên, cũng tại thời điểm nói trên Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương có số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác là 9.303,6 tỷ đồng, lớn hơn số tiền huy động trên thị trường liên ngân hàng. Dư nợ cho vay đến hết năm 2007 là 20.486 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với mức 8.696 tỷ đồng cuối năm 2006. -Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, đến hết năm 2007 có tổng số dư tiền gửi và tiền vay tổ chức tín dụng khác là 10.805,5 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với mức 4.858 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động của khách hàng là 8.467 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 4.484,8 tỷ đồng cuối năm 2006. 1.c Năm 2008 Đầu năm 2008 Một loạt nghiệp vụ cho vay bị siết chặt làm cho khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng mạnh: Nếu như năm 2007, thị trường ngân hàng chứng kiến sự bùng nổ về tăng trưởng tín dụng (tăng 51,39%), trong đó tăng trưởng mạnh ở các nghiệp vụ cho vay đầu tư bất động sản, chứng khoán và tín dụng tiêu dùng tuy nhiên huy động tiền gửi từ dân cư và doanh nghiệp không đủ, các tổ chức tín dụng đã tích cực tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng, khiến hoạt động trên thị trường này gần đây sôi động hẳn lên, làm cho khối lượng giao dịch trên thi trường 2 này tăng lên ngoạn mục. Nhưng bước sang năm 2008,chính sách thắt chặt tiền tệ và khó khăn thanh khoản trong nửa đầu năm là nguyên nhân đầu tiên khiến nhiều ngân hàng buộc phải “đóng cửa” đối với những nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, sự sụt giảm nhanh và mạnh của thị trường chứng khoán, bất động sản dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng, các ngân hàng thận trọng; lãi suất cho vay quá cao cũng là một rào cản đối với các nhu cầu. Trong khi lạm phát 4 tháng đã là 11,6% thì với trần lãi suất huy động VND 12%/năm, điều ai cũng có thể nhận thấy là người gửi tiền đang bị chèn ép.
Cập nhật thông tin chi tiết về Chuyên Đề:“Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam” trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!