Bạn đang xem bài viết Cấu Tạo Và Chức Năng Của Ruột Non được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ruột non dài khoảng 5-9m, trung bình 6.5m, là đoạn dài nhất của ống tiêu hóa, đi từ môn vị của dạ dày đến góc tá- hỗng tràng. Ruột non gồm ba phần là tá tràng, hỗng tràng và hồi tràng.
Tá tràng (duodenum):
Tá tràng là phần đầu của ruột non, đi từ môn vị (ở ngang sườn phải đốt sống lưng thứ nhất) đến góc tá- hỗng tràng (ở ngang sườn trái đốt thắt lưng thứ II).
Tá tràng dài khoảng 25cm, uốn cong hình chữ C hướng sáng trái và ôm quanh đầu tụy. Tá tràng đi theo một đường gấp khúc gồm bốn phần: trên, xuống, ngang và lên.
Phần trên từ môn vị chạy lên trên, sang phải và ra sau ở sườn phải thân đốt sống lưng I. Phần trên có đoạn đầu hơi phình to gọi là bóng tá tràng hay hành tá tràng (ampulla), và di động giữa các mạc nối.
Phần xuống: chạy xuống ở bên phải đầu tụy, dọc theo bờ phải các thân đốt sống lưng I-III. Phần này ở trước và dính với phần trong mặt trước thận phải. Chỗ gấp góc giữa phần trên và xuống gọi là góc tá tràng trên.
Phần ngang: chạy ngang từ phải sáng trái ở dưới đầu tụy, bắt chéo trước tĩnh mạch chủ dưới, thân đốt sống lưng II và động mạch chủ bụng. Chỗ gấp góc giữa phần xuống và phần ngang của tá tràng gọi là góc tá tràng dưới.
Phần lên: chạy lên dọc bờ trái động mạch chủ bụng và tận cùng tại góc tá hỗng tràng ở ngang sườn trái thân đốt thắt lưng II.
Hỗng tràng và hồi tràng:
Hỗng tràng và hồi tràng dài khoảng 6-7m, 4/5 đoạn ở trên gọi là hỗng tràng, ranh giới hai phần không rõ ràng. Chúng uốn thành 14-16 quai hình chữ U bắt đầu từ nơi hỗng tràng liên tiếp với phần trên của tá tràng và tận hết ở chỗ hồi tràng đổ vào manh tràng. Ở trên, các quai chữ U nằm ngang, ở dưới các quai thường nằm dọc. Hỗng tràng và hồi tràng được treo vào thành lưng bởi mạc treo ruột non.
Hỗng tràng và hồi tràng nằm trong ổ bụng, dưới đại tràng ngang và mạc trao đại tràng ngang, phía trên là các tạng trong chậu hông bé, hai bên là đại tràng lên và đại tràng xuống. Hỗng tràng- hồi tràng được phủ ở phía trước bởi mạc nối lớn.
Cấu tạo của ruột non giống như cấu tạo chung của thành ống tiêu hóa gồm 4 lớp: màng bọc, lớp cơ, lớp dưới niêm mạc và lớp niêm mạc.
Màng bọc: màng bọc của tá tràng cố định là phúc mạc ở mặt trước và mô liên kết ở mặt sau . Phúc mạc của hỗng tràng- hồi tràng được kết nối với phúc mạc thành bụng qua một nếp phúc mạc gọi là mạc treo ruột non. Phúc mạc gồm hai lớp là lớp thanh mạc và tấm dưới thanh mạc.
Lớp cơ gồm hai lớp cơ trơn. Các sợi cơ của lớp ngoài xếp theo chiều dọc (lớp cơ dọc), các sợi cơ của lớp trong còng quanh thành ống tiêu hóa (lớp cơ vòng). Giữa hai lớp có các mạch máu, mạch bạch huyết và một đám rối thần kinh tự chủ chi phối cho cơ trơn. Lớp cơ tạo các nhu động ruột đẩy các thành phần trong hệ tiêu hóa về phía trước, nhào trộn thức ăn với dịch tiêu hóa. Tại một số điểm trên đường đi, lớp cơ vòng dày lên tạo nên các cơ thắt. Cơ thắt có vai trò làm chậm sự dịch chuyển về phía trước của các thành phần bên trong ống tiêu hóa, giúp cho sự tiêu hóa và hấp thu có thời gian diễn ra.
Lớp dưới niêm mạc: là lớp mô liên kết lỏng lẻo chứa các đám rối mạch máu và thần kinh, các mạch bạch huyết và các mô dạng bạch huyết với số lượng khác nhau tùy từng loại. Các mạch máu bao gồm các tiểu động mạch, các mao mạch, các tiểu tĩnh mạch. Đám rối thần kinh trong lớp này là đám rối dưới niêm mạc, có vai trò chi phối cho niêm mạc.
Lớp niêm mạc có chức năng bảo vệ, tiết dịch và hấp thu. Ở ruột non, niêm mạc là lớp tế bào thượng mô trụ xen kẽ với tế bào tiết nhầy. Ở dưới bề mặt của thượng mô trụ có những tuyến đổ dịch tiêu hóa vào lòng ống tiêu hóa.
Niêm mạc ruột non có nhiều nếp gấp hình van, bề mặt niêm mạc được bao phủ bằng những nhung mao. Mỗi mm2 niêm mạc có khoảng 20-40 nhung mao. Mỗi nhung mao là một chỗ lồi lên hình ngón tay, được bao phủ bởi một lớp tế bào biểu mô hình cột. Bờ tự do của các tế bào biểu mô của nhung mao lại chia thành những vi lông mao nên làm tăng diện tích hấp thu của ruột non lên đến 250-300 m2 . Trong mỗi nhung mao có một mạng lưới mao mạch và mạch bạch huyết. Các tế bào ruột sẽ bị rơi vào lòng ruột và được thay thế bằng các tế mới, tốc độ luân chuyển của tế bào ruột là 1-3 ngày.
Mạch máu và thần kinh ở ruột non:
Động mạch: hỗng tràng và hồi tràng được cung cấp máu bởi 15-18 nhánh của động mạch mạc treo tràng trên.
Tĩnh mạch: các tĩnh mạch đi kèm động mạch rồi đổ vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên.
Bạch huyết đổ vào các hạch tạng treo tràng (nodi lymphatici viscerales mesenteric)
Thần kinh gồm các nhánh tách ra từ đám rồi mạc treo tràng trên (plexus mesentericus superior).
Chức năng ruột non là gì? Nhờ diện tích hấp thu lớn cùng với cấu trúc đặc biệt của niêm mạc ruột mà ruột non là nơi xảy ra sự tiêu hóa và hấp thu thức ăn chính của cơ thể.
Ở ruột non, thức ăn được nhào trộn với dịch tụy, dịch mật và dịch ruột. Các kiểu vận động của thành ruột hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa gồm có: vận động lắc lư, co bóp phân đoạn, co bóp nhu động, vận động của nhung mao.
Dưới sự tác động của các men tiêu hóa, các thức ăn là protein, lipid, glucid được tiêu hóa thành những sản phẩm cuối cùng có thể hấp thu được là các acid amin, monosaccarid, acid béo và các glycerol. Các chất dinh dưỡng được hấp thu qua thành ruột, theo các đường tĩnh mạch về gan, sau đó theo tĩnh mạch chủ dưới về tim.
Lượng dịch được hấp thu hàng ngày khoảng 8-9 lít bao gồm dịch tiêu hóa và dịch của thức ăn, khoảng 77.5 lít được hấp thu ở ruột non, còn lại xuống ruột già.
Cấu Tạo Và Chức Năng Của Ruột Già
Ruột già hay đại tràng là phần áp cuối trong hệ tiêu hóa – chặng cuối cùng của ống tiêu hóa là hậu môn. Ruột già có độ dài trung bình khoảng 1,5m, tuy nhiên có người lại có ruột già dài tới 1,9m. Có sự chênh lệch này là bởi vào giới tính và cơ địa của từng người không giống nhau. Ruột già ngắn hơn ruột non 4 lần nhưng tiết diện lại lớn hơn ruột non.
Cấu tạo của ruột già chia ra làm 3 phần chính: manh tràng, kết tràng và trực tràng. Ruột non thông với ruột già tại ranh giới giữa manh tràng và kết tràng. Giữa ruột non và ruột già có van hồi – manh giữ không cho các chất ở ruột già rơi ngược trở lại ruột non.
Manh tràng
Manh tràng có hình dạng giống như một cái túi tròn và nằm ngay phía dưới khu vực hỗng tràng đổ vào ruột già ,dài 6 – 7cm và đường kính khoảng 7cm. Phía đầu manh tràng bịt kín có một đoạn ngắn hình giun gọi là ruột thừa có hình dạng như ngón tay với chiều dài trung bình ở người lớn khoảng 9 cm và đường kính 0,5-1 cm.
Ruột thừa xuất phát từ bờ trong của manh tràng, nơi gặp nhau của ba dải cơ dọc. Ruột thừa hướng xuống dưới, lòng ruột thừa thông với lòng manh tràng bằng một lỗ là lỗ ruột thừa. Ruột thừa có thể có hoặc không là 3 cơ dọc ở manh trang hợp thành là (cơ tự do, cơ dọc sau ngoài và sau trong).
Kết tràng
Đây là bộ phận chính của ruột già, được chia làm 4 phần: kết tràng lên, kết tràng ngang, kết tràng xuống và kết tràng xích ma. Kết tràng đi từ manh tràng đi lên dọc theo bên phải ổ bụng cho đến khi gặp gan chỗ gặp gỡ nó uốn cong gọi là góc phải góc gan. Sau đó nó trở thành kết tràng ngang, đi ngang qua ổ bụng. Khi đến gần lách ở bên trái, kết tràng quay xuống để tạo thành kết tràng xuống chỗ uốn cong gọi là góc trái hay góc tụy. Nó đi vào khung chậu nó có hình chữ S tạo thành kết tràng xích ma.
Trực tràng
Sau khi uốn cong 2 lần, kết tràng xích ma nối tiếp với trực tràng, là một ống thẳng, dài khoảng 15 cm và kết thúc ở hậu môn mở ra ngoài cơ thể. Hoạt động đóng mở của hậu môn trực tràng được kiểm soát nằm sau bàng quang ở nam và sau tử cung ở nữ.
Ruột già cơ bản gồm 5 lớp thứ tự từ trong ra ngoài là: Lớp niêm mạc. Lớp dưới niêm mạc. Lớp cơ gồm cơ vòng ở trong và cơ dọc ở ngoài. Lớp dưới thanh mạc. Lớp thanh mạc.
Dịch ruột già
Mạch máu ruột già
Dựa vào phôi thai và mạch máu người ta chia ruột già làm hai phần phải và trái mà ranh giới là chỗ nối 1/3 phải và 1/3 giữa kết tràng ngang:
Mạch máu kết tràng phải: Động mạch nuôi dưỡng kết tràng phải gồm những nhánh bên của động mạch mạc treo tràng trên là động mạch kết tràng giữa, động mạch kết tràng phải và động mạch hồi kết tràng.
Mạch máu kết tràng trái: Động mạch nuôi dưỡng kết tràng trái phát sinh từ động mạch mạc treo tràng dưới. Ðộng mạch mạc treo tràng dưới là nhánh của động mạch chủ bụng, chạy trong hai lá của mạc dính kết tràng trái và mạc treo kết tràng sigma, tận cùng bằng động mạch trực tràng trên.
Trên đường đi, động mạch mạc treo tràng dưới cho các nhánh bên là động mạch kết tràng trái nối với động mạch kết tràng giữa và các động mạch kết tràng sigma.
Ngoài ra, trực tràng và ống hậu môn còn nhận máu từ động mạch trực tràng giữa và dưới, xuất phát từ động mạch chậu trong.
Chức năng của dịch ruột già
Trong bộ phận tiêu hóa, ruột già không có enzyme tiêu hóa mà chứa chất nhầy có tính kiềm giúp làm trơn thành ruột khiến phân được di chuyển dễ dàng hơn. Chất nhầy còn có tác dụng bảo vệ niêm mạc ruột già, chúng sẽ được tiết ra nhiều hơn khi bị viêm ruột già hoặc ruột già bị những tổn thương khác.
Hấp thu các chất dinh dưỡng và tạo ra một số chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể
Cơ quan có chức năng chính hấp thu chất dinh dưỡng là ruột non, không phải ruột già. Nhưng có một số chất sẽ phải đợi đến khi đi xuống ruột già thì mới có thể được chuyển hóa thành chất dinh dưỡng được. Hoạt động tiêu hóa ở đại tràng được thực hiện bằng 3 cơ vòng và 3 cơ dọc, tương tự như tại ruột non.
Trong ruột già có rất nhiều loại vi khuẩn như escherichia coli, enterobacter aerogenes, bacteroides fragilis,… Các loại vi khuẩn này sử dụng một số chất như vitamin B12, C và cholin để làm chất dinh dưỡng nhưng đồng thời tổng hợp một số dưỡng cần thiết khác cho cơ thể như vitamin B, B1, B6, K, axit folic,… Chức năng này là chức năng quan trọng nhất của ruột già.
Trong trường hợp các axit amin còn sót lại mà không làm hết nhiệm vụ tạo ra NH3, histamin, triramin thì chính các vi khuẩn trong ruột già sẽ đảm nhiệm vai trò này. Hấp thu các chất cần thiết mà ruột non làm sót lại
Đa phần chất dinh dưỡng khi tới xuống ruột già đã được hấp thu gần hết, tuy nhiên nhờ sự hỗ trợ của bộ phận này, triệt để các chất dinh dưỡng được đưa vào cơ thể:
Hấp thu nước: 1 lít nước từ ruột non được chuyển xuống ruột già và sau đó hấp thụ, khi thải ra ngoài môi trường theo đường phân hoặc nước tiểu thì chúng chỉ còn lại khoảng 100-200ml. Khi hấp thụ nước, nguyên tố Na+ cũng được hấp thụ theo để giúp cân bằng áp suất thẩm thấu. Phân ở lại càng lâu trong ruột già thì sự hấp thu nước càng tăng lên. Chính vì thế mà chúng ta thường bị táo bón khi nhịn đi cầu.
Hấp thu thuốc: Một số loại thuốc như an thần, hạ nhiệt, giảm đau,.. có thể được hấp thụ tại ruột già. Vì vậy, nhiều trường hợp bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em được chỉ định đưa thuốc từ đường này để chữa bệnh dưới dạng thuốc đạn.
Hấp thu muối: Đây là một trong những nguyên tố cần thiết cho cơ thể, được hấp thụ ở đoạn đầu ruột già.
Hấp thu NH3: Một số vi khuẩn trong ruột già sẽ hấp thu NH3 vào máu. Để tránh lượng NH3 được hấp thu quá lớn gây hôn mê gan thi nên tránh táo bón và viêm đại tràng, vì táo bón và viêm đại tràng là hai nguyên nhân khiến lượng NH3 được hấp thu nhiều. Thụt rửa đại tràng và dùng thuốc kháng sinh dành cho đường ruột là một lựa chọn phù hợp để điều trị những trường hợp này.
Chức năng bài tiết phân của ruột già
Hậu môn được cấu tạo bởi hai cơ thắt: Cơ thắt trong chính là cơ trơn, được điều khiển bởi hệ thần kinh trung ương. Cơ thắt ngoài chính là cơ vân, chịu sự điều khiển của vỏ não. Được thực hiện theo quy trình như sau:
Khi các phần phía trước ruột già thực hiện chức năng co bóp để đẩy phân xuống trực tràng sẽ làm căng trực tràng khiến trực tràng co bóp tác động đến cơ thắt và mở cơ thắt trong làm kích thích việc đi đại tiện. Lúc này khi chưa đủ các điều kiện thuận tiện để thực hiện động tác đại tiện, đẩy phân dịch chuyển ngược lại lên phía trên trực tràng, trừ khi phân lỏng thì quá trình này hầu như là không thể diễn ra, vì chỉ cần sự co bóp của trực tràng cũng đủ để tống phân ra ngoài.
Sau khi phân đã được tạo hình và đảm bảo được độ mềm cần thiết, cũng như đủ lượng thì sẽ được bài tiết. Lúc này, các chất thải rắn của cơ thể chúng ta lại được hấp thụ một lần cuối cùng ở trực tràng – đoạn cuối cùng của đại tràng (dài tầm vài cm) nối với ống hậu môn. Trong ruột già có một khối ruột dài khoảng 20cm, có khả năng thực hiện các thao tác co bóp để có thể ép chất thải và đẩy ra ngoài cơ thể. Thông thường thì hoạt động co bóp này sẽ mất xuất hiện 2 lần mỗi ngày, mỗi lần từ 10 phút đến 1h đồng hồ. Khi đại tràng co bóp, chúng ta sẽ cảm thấy đau bụng và muốn đi vệ sinh. Chất nhầy trong đại tràng không chỉ có chức năng làm mềm, kết dính chất thải mà còn có thể tạo một lớp màng ở thành cơ quan này để tránh trầy xước và giảm đi tác hại của các loại vi khuẩn.
Nếu có đầy đủ các điều kiện, thuận tiện cho việc đại tiện tốt, vỏ não chủ động thực hiện động tác rặn đẩy phân ra ngoài. Trung tâm thần kinh đảm nhiệm chức năng phản xạ đại tiện nằm ở các đốt tụy cuối cùng từ S2 đến S4. Nhịn đại tiện lâu ngày có thể làm giảm gây bệnh táo bón.
Thực chất, phân của chúng ta có khối lượng khoảng 100 – 200g/ ngày, chúng chứa khoảng 75% nước, một số ít acid béo, protein không hòa tan, muối khoáng, sắc tố mật, các chất xơ không thể tiêu hóa có trong thức ăn, các loại vi khuẩn và cả những tế bào biểu mô của ruột bị bong ra cũng bị lẫn trong phân đi ra ngoài cơ thể. Chính vì có chứa nhiều vi khuẩn, do đó sau khi đi đại tiện, bạn phải vệ sinh hậu môn và tay sạch sẽ tránh để mắc các bệnh như tiêu chảy , kiết lị… để bảo vệ sức khỏe bản thân.
Các biện pháp phòng tránh bệnh viêm đại tràng mãn tính:
Chế độ sinh hoạt lành mạnh
Kiểm soát stress, căng thẳng, lo lắng, bởi điều này kéo dài gây trầm cảm hay giảm nhu động ruột, đảm bảo tinh thần vui vẻ, thoải mái, lành mạnh.
Ngoài ra, tăng cường vận động thể dục thể thao tăng cường sức khỏe và sức đề kháng, uống nhiều nước kết hợp xoa bóp nhẹ vùng thượng vị để kích thích tăng nhu động ruột.
Đảm bảo chế độ ăn hợp lý, lành mạnh
Nên ăn nhiều thực phẩm tốt cho đại tràng và sự phục hồi như sữa đậu nành, gạo, khoai tây, cá, tăng cường rau xanh, trái cây, củ quả giàu chất xơ, chuối đu đủ giàu Kali…
Hạn chế ăn các loại thực phẩm còn tươi sống như nem chua, tiết canh, rau sống, gỏi các loại, lòng heo… tránh nhiễm khuẩn đường ruột.
Hạn chế ăn trứng, nem rán, thịt mỡ, sữa… cùng các chất gây kích thích đường ruột như cà phê, rượu bia, thuốc lá, những đồ ăn chiên nóng khó tiêu. Nên ăn thức ăn dễ tiêu, chia thành nhiều bữa nhỏ, ăn ít vào buổi tối để giảm gánh nặng cho đường ruột.
Dù đảm bảo chế độ ăn uống lành mạnh nhưng điều trị bệnh vẫn cần đủ thành phần dinh dưỡng, đảm bảo 1g chất đạm, 30 – 35 kcal cho mỗi 1kg cân nặng mỗi ngày, đồng thời giảm chất béo, tăng cung cấp nước, vitamin và muối khoáng.
Khám sàng lọc định kỳ
Để phát hiện sớm các nguy cơ có thể gây bệnh nguy hiểm
Cấu Tạo Ruột Non Người Phù Hợp Với Chức Năng Hấp Thụ Dinh Đưỡng
Chúng ta đã biết ruột non không chỉ là nơi tiến hành biến đổi () chủ yếu thức ăn về mặt hóa học ( tiêu hóa hóa học) thành những hợp chất dinh dưỡng đơn giản mà còn là nơi diẽn ra quá trình hấp thụ các sản phẩm đó nên dặc điểm cấu tạo của ruột thể hiện sự thích nghi cao độ với chức năng này.
Ruột tuy là đoạn dài nhất trong ống tiêu hóa nhưng cũng chỉ dài khoảng 3m, đường kính của ruột non khoản 2,5cm. Nhưng bề mặt hấp thụ thì rất lớn, vì trong lớp niêm mạc ruột có nhiều nếp gấp chạy vòng, cao đến 10mm nằm suốt từ tá tràng đến giữa đoạn hồi tràng. Các nếp gấp này làm tăng bề mặt hấp thụ của ruột và là cho dưỡng chấp chuyển vận chậm, vừa đi vừa được trộn đều với dịch tiêu hóa ở ruột phối hợp với sự co bóp của các lớp cơ dọc và cơ vòng thành ruột, giúp cho sự biến đổi hóa học của thức ăn được triệt để, tạp điều kiện cho hấp thụ được dễ dàng.
Niêm mạch ruột ngoài có nếp gấp, trên bề mặt còn nổi lên các lông ruột xếp sít nhau tư như một tấm thảm nhung với các sợi lông cao 0,5 – 1mm. Thảm lông này dày nhất ở tá tràng và giảm dần khi chuyển xuống hồi tràng. Trong mỗi lông ruột có một mạng mao mạch máu bao quanh một mao mạch bạch huyết, tham gia vào sự tiếp nhận các chất hấp thụ (sản phẩm của quá trình tiêu hóa).
Các lông ruột được bao quanh bằng một lớp tế bào biểu bì xếp sít nhau, gồm hai loại:
Tế bào biểu bì trụ là tế bào hấp thụ.
Tế bào tiết chất nhầy nằm xen kẽ.
Các tế bào hấp thụ của lông ruột, trên đỉnh hướng về ống ruột các các lông cực nhỏ cao khoảng 1μm (micrômet) như lông bàn chải.
Nhờ ba cấp độ cấu trúc nêu trên của nêm mạch ruột ( nếp gấp nêm mạc ruột, lông ruột và lông cực nhỏ) đã làm cho bề mặt hấp thụ các sản phẩm tiêu hóa của ruột người nói riêng và các động vật nói chung tăng lên rất nhiều.
Nêu Các Phần Của Thân Non Và Chức Năng Của Mỗi Phần. So Sánh Cấu Tạo Trong Của Thân Non Và Rễ
C1:Thành phần:1- Biểu bì:
– Gồm một lớp tế bào trong suốt, xếp sát nhau
Bảo vệ các phần trong của thân
2- Thịt vỏ:– Gồm nhiều lớp tế bào lớn hơn. Một số tế bào chứa chất diệp lục
Tham gia dự trữ và quang hợp
3- Mạch rây
– Gồm những tế bào sống vách mỏng
Vận chuyển các chất hữu cơ
4- Mạch gỗ
– Gồm những tế bào có vách hóa gỗ dày, không có chất tế bào
Vận chuyển nước và muối khoáng
5- Ruột– Gồm những tế bào có vách mỏng Chứa chất dự trữC2:Giống nhau: đều gồm 2 phần vỏ (biểu bì, thịt vỏ) và trụ giữa (bó mạch và ruột)Khác nhau:+Cấu tạo rễ: Biểu bì: gồm 1 lớp tế bào hình đa giác xếp sít nhau. Lông hút là tế bào biểu bì kéo dài ra Thịt vỏ: tế bào không chứa diệp lục. Mạch rây và mạch gỗ xếp xen kẽ thành 1 vòng.+Cấu tạo thân non: Biểu bì: gồm 1 lớp tế bào trong suốt xếp sít nhau. Không có lông hút. Thịt vỏ: có 1 số tế bào chứa diệp lục. Mạch rây ở ngoài mạch gỗ ở trong.C3:– Cây gỗ to ra nhờ sự phân chia các tế bào của mô phân sinh ở tầng sinh vỏ và tầng sinh trụ.– Tầng sinh vỏ: hằng năm sinh ra một lớp tế bào vỏ ở phía ngoài và một lớp thịt vỏ ở phía trong.– Tầng sinh trụ (nằm giữa mạch rây và mạch gỗ): hằng năm sinh ra ở phía ngoài một lớp mạch rây và ở phía trong một lớp mạch gỗ.C4:Có thể xác định tuổi của cây gỗ bằng cách đếm số vòng gỗ của cây (qua mặt cắt ngang thân cây). Mỗi năm, tầng sinh trụ sẽ sinh ra thêm 1 tầng mạch gỗ và một tầng mạch rây. Như vậy, mỗi năm cây sẽ cho thêm một chút gỗ ở vòng ngoài. Dựa vào số lượng vòng gỗ ta có thể đoán được số tuổi của cây.C5:– Dác: Là lớp gỗ màu sáng ở phía ngoài, gồm những tế bào mạch gỗ sống, có chức năng vận chuyển nước và muỗi khoáng.
– Ròng: Là lớp màu thẫm, rắn chắc hơn dác, nằm ở phía trong, gồm những tế bào chết, vách dày có chức năng nâng đỡ.C6:– Người ta thường chọn phần gỗ lõi hay còn gọi là phần gỗ ròng để làm cột nhà, trụ cầu, tà vẹt.
– Vì: Phần ròng gồm những tế bào gỗ đã chết, vách dày nên cứng chắc thích hợp cho nhiệm vụ nâng đỡ. Phần ròng cũng là nơi chưa đựng nhiều chất độc cây cất trữ trong thân nên ít mối mọt hơn phần dác, đảm bảo thời gian sử dụng bền lâu hơn.
Cập nhật thông tin chi tiết về Cấu Tạo Và Chức Năng Của Ruột Non trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!