Bạn đang xem bài viết Cấu Tạo Và Chức Năng Của Răng Trên Khung Hàm được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
CẤU TẠO CỦA RĂNG, CÁC LOẠI RĂNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA TỪNG LOẠI
Con người khi còn trẻ nhỏ sẽ có 20 chiếc răng sữa, cho đến khi trưởng thành thì răng vĩnh viễn sẽ mọc lên và dao động trong khoảng từ 28-32 chiếc. Răng thường có màu vàng nhạt hoặc màu trắng sữa (trắng ngà voi), chúng rất cứng chắc và khỏe mạnh.
(còn gọi vành răng): Là thành nằm ở phía trên nướu.
: Là phần nằm sâu bên dưới xương hàm và nướu. Được neo giữ bởi các dây chằng nha chu. Bạn không thể nhìn thấy chân răng.
(đường viền nướu): Là phần giao nhau giữa lợi và răng.
Trên thiết đồ cắt đứng dọc qua 1 chiếc răng, cấu tạo của răng được thành 4 phần chính, bao gồm:
Lớp ngoài cùng (men răng): Phần thân của răng được bao bọc bởi một lớp men rất cứng chắc và khỏe mạnh. Men răng chứa hàm lượng lớn khoáng chất như canxi và flour, nó còn có màu trắng sữa.
(ngà răng): Ngà răng nằm ở phía trong, được che chắn và bảo vệ bởi lớp men răng. Ngà răng có màu vàng nhạt và là tổ chức chiếm khối lượng chủ yếu ở thân răng.
Lớp trong cùng (tủy răng): Được bao bọc và che chở bởi lớp men răng và ngà răng. Tuy răng là một tổ chức rất đặc biệt, chứa nhiều dây thần kinh cảm giác và mạch máu để nuôi dưỡng răng khỏe mạnh. Tủy răng có ở cả chân răng và thân răng.
(xương răng): Lớp tế bào giống như mô xương, bao phủ bên ngoài chân răng và gắn chặt vào nướu. Đây là 1 thành phần không thể thiếu trong cấu tạo của răng.
Là lớp ngoài cùng có độ dày mỏng tùy theo mặt răng. Mặt nhai của răng hàm có độ dày nhiều nhất (từ 1mm – 3mm), răng cửa có men mỏng nhất. Men răng không có màu và trong suốt, nên màu răng là màu của ngà. Men răng không có dây thần kinh cảm giác nên men răng không biết đau.
Tế bào men răng có hình lăng trụ sắp xếp theo chiều hướng tâm. Do đó, men răng rất cứng và chịu lực theo chiều đứng của răng, nhưng men răng lại có khuyết điểm là dễ bị rạn nứt, dễ bị tách theo chiều dọc. Men răng có khuyết điểm tuy dày ở mặt nhai nhưng lại rất mỏng tại những hố và rãnh, ở đáy hố, rãnh, men răng rất mỏng. Ở cổ răng nơi tiếp giáp giữa thân răng với chân răng không có men, do đó nếu chải răng không đúng cách (theo chiều ngang, horizontal) sẽ làm mòn khuyết cổ răng. Do các khuyết điểm trên men răng mà axit (lactic acid) dễ ngấm vào dưới hố rãnh và tạo thành lỗ sâu. Ở người lớn tuổi hay người bị bệnh nha chu nướu răng bị tuột, chân răng bị lộ ra sâu răng sẽ đi ngược từ dưới lên làm cho lổ sâu khó phát hiện và răng dễ bị gẩy ngang vì sâu ở cổ răng làm răng rất yếu.
Men răng là mô xương cứng nhất trong cơ thê, tuy nhiên nhưng do cấu tạo bởi các tế bào hình lăng trụ theo chiều đứng và hướng tâm, có đặc tín giòn và dễ nứt khi có va chậm mạnh, hoặc nhiệt độ trong miệng thay đổi đột ngột từ nóng sang lạnh. Khi ta đang ăn nóng và uống nước đá lạnh ngay, nhiệt độ làm men răng dãn nở rồi lại co rút nhanh quá, men răng sẽ bị nứt.
Men răng phủ mặt ngoài ngà thân răng, là mô cứng nhất trong cơ thể, tỷ lệ chất vô cơ chiếm tới 96%. Hình dáng và bề dày của men được xác định từ trước khi răng mọc ra. Men răng không màu, trong suốt, rất cứng và giòn. Chiều dày của men răng thay đổi theo từng vị trí, dày nhất ở núm răng và mỏng nhất ở cổ răng, vì thế khi chải răng với động tác chải ngang sẽ dễ làm mòn phía cổ răng. Trong suốt đời sống, men răng không có sự bồi đắp thêm mà chỉ mòn dần theo tuổi, nhưng có sự trao đổi vật lý và hóa học với môi trường miệng.
Ngà răng chiếm phần lớn nhất về thể tích của một răng, bao gồm hàng tỷ các ống ngà dẫn trực tiếp đến tủy răng. Ngà răng kém cứng hơn men răng, chứa tỷ lệ chất vô cơ vào khoảng 75%. Bề dày ngà răng thay đổi trong đời sống do hoạt động của nguyên bào ngà. Ngà răng ngày càng dày theo hướng về phía hốc tủy răng, làm hẹp dần hốc tủy.
Màu của ngà răng cũng là màu của răng vì men răng không có màu, nếu mất đi lớp men và cement phủ bên ngoài, ngà răng bị lộ ra sẽ có những sắc thái vàng – trắng khác nhau và có bề mặt ráp hơn men răng. Khi bị lộ lâu ngày ngà răng bị nhiễm màu từ thức ăn, thuốc lá, khiến cho chúngbị chuyển màu vàng hơn. Sự nhiễm màu này là do ngà xốp hơn men răng, do ngà có nhiều những ống nhỏ như bọt biển làm giữ lại các chất màu. Sự nhiễm màu này gây mất thẩm mỹ, là mối lo lắng của nhiều người. Do đó muốn tẩy trắng răng thì thuốc tẩy trắng phải ngấm được vào bên trong lớp ngà và vì thế thường gây nên ê buốt. Do cấu tạo bên trong, giữa các tế bào ngà có những ống nhỏ chứa dây thần kinh và mạch máu. Ngà răng cảm giác với nóng lạnh, chất chua ngọt, và hơi gió lạnh.
Tủy là mô liên kết mềm, nằm trong hốc tủy gồm tủy thân (Pulp Chamber) và tủy chân (Root Canal). Tủy răng trong buồng tủy là tủy thân hay tủy buồng, tủy răng trong ống tủy gọi là tủy chân. Tủy răng chứa nhiều mạch máu, mạch bạch huyết và đầu tận cùng thần kinh để duy trì sự sống và nhận cảm giác của răng. Mạch máu dẫn từ trong xương và đi vào răng từ dưới gốc răng, qua lỗ chóp răng.
Con người ta sinh ra có hai loại răng. Dù là răng sữa hay răng vĩnh viễn thì chức năng chủ yếu của nó vẫn là để ăn nhai, nghiền thức ăn. Do đó, ngoại hình và chức năng của nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đối xứng với nhau. Người ta căn cứ vào chức năng để chia chúng thành các nhóm răng sau:
Được phân bổ ở chính giữa hàm răng, cân đối cả hai bên trái phải và trên dưới, tổng cộng gồm 8 chiếc. Đặc biểm chung của chúng là có hình chiếc xẻng, cạnh bên của răng mỏng dần, dùng để cắt thức ăn. Răng cửa hàm trên to hơn ở dưới, răng sữa nhỏ hơn răng vĩnh viễn. Chúng đều chỉ có một chân răng.
Là răng sát ngay cạnh răng cửa, cả hai bên trên dưới chỉ có tổng cộng 4 chiếc răng. Loại răng này phía trên mang hình ngọn dáo, mũ răng dày, nhọn và dài, bốn bên đều rất sắc, chủ yếu dùng để cắn, xé thức ăn. Răng sữa cũng có tác dụng như răng vĩnh viễn những thể tích nhỏ và kém sắc hơn, Chúng cũng chỉ có một chân.
Loại răng này mũ răng hình lập phương, trên mặt răng chia làm hai đỉnh đều nhọn, mỗi hàm có 4 chiếc, cộng lại là 8 chiếc. Công dụng chủ yếu là phối hợp cắn xé và nghiền nát thức ăn. Nó là loại răng quá độ giữa răng nanh và răng hàm. Chiếc đầu tiên hai bên ở hàm trên có thể có hai chân, còn lại cũng chỉ có một chân nhỏ mà dài. Loại răng này không có răng sữa.
Chủ yếu là dùng nghền, xay nhỏ thức ăn. Cả hai bên thuộc hai hàm gồm các răng còn lại. Chiếc đầu tiên có thể tích lớn nhất, rồi nhỏ dần. Mặt răng rộng và to, hình dáng phức tạp. Để cho chắc khoẻ, răng hàm ở hàm trên có 3 chân, ở hàm dưới chỉ có hai chân. Răng sữa thường nhỏ hơn, tổng cộng cả hai hàm chỉ có 8 cái.
Hình thức các loại răng khác nhau, chủ yếu là do chức năng khác nhau tạo ra, do đó chúng luôn hỗ trợ nhau.
Hàm răng và các loại răng vĩnh viễn.
Nha chu gồm có: xương ổ răng, cement, dây chằng nha chu và lợi
Xương ổ răng là mô xương xốp, bên ngoài được bao bọc bằng màng xương, nơi lợi bám vào. Xương ổ răng tạo thành một huyệt, có hình dáng và kích thước phù hợp với chân răng.
Bề mặt ổ răng nơi tiếp xúc với chân răng, là mô xương đặc biệt và có nhiều lổ thủng để các mạch máu và dây thần kinh từ xương xuyên qua để nuôi dây chằng nha chu.
Chiều cao xủa xương ổ tùy theo tuổi và tùy vào sự lành mạnh hay bệnh lý của mô nha chu. Trong viêm nha chu, xương ổ dần tiêu đi, răng không còn chỗ đứng nữa nên sẽ lung lay và rụng sớm.
Xê- măng là phần mô liên kết khoáng hóa, không mạch máu, tạo một lớp mỏng bao phủ quanh chân răng.
Dây chằng nha chu là những bó sợi liên kết, dày khoảng 0.25mm, một đầu bám vào cement, còn đầu kia bám vào xương ổ răng. Dây chằng nha chu có nhiệm vụ giữ cho răng gắn vào xương ổ răng và đồng thời có chức năng là vật đệm, làm cho mỗi răng có sự xê dịch nhẹ độc lập với nhau trong khi ăn nhai là giúp lưu thông máu, truyền lực để tránh tác dụng có hại của lực nhai đối với răng và nha chu. Bình thường khi nhai thức ăn không cứng lắm ta thấy rất êm ái là nhờ tác dụng co dãn của dây chằng nha chu và lực cắn nhai được chia đều trên các răng. Nếu vô tình ta cắn phải một hạt sạn cứng, ta sẽ thấy đau nhói lên là do lực của cả hàm răng chỉ đè lên một răng làm cho nó bị quá tải, chóp răng sẽ chạm mạnh vào xương ổ răng và gây đau. Có khi lực va chạm quá mạnh làm đứt dây thần kinh và mạch máu nuôi răng khiến răng bị chết.
Lợi là niêm mạc mô mềm bao phủ răng ở vùng ổ răng để che chở cho chân răng bên dưới. Bình thường nướu răng ở sát cổ răng và có độ hở (không dính chặt với men răng) khoảng 1-2 mm, ta gọi nướu tự do tạo thành vùng khe nướu, phần dưới là nướu dính bám chặt vào dây chằng nha chu. Nướu có màu hồng nhạt và bao quanh cổ răng một lớp rất mỏng, gai nướu ở vùng kẽ răng nhọn. Nướu săn chắc là nướu lành mạnh, nướu phồng rộp dễ chảy máu (khi ấn vào và khi chải răng thấy máu) là nướu đã bị viêm (gingivitis).
BẢNG GIÁ DỊCH VỤ NHA KHOA UY TÍN GÒ VẤP :Đăng ký khám tại Phòng khám nha khoa Tâm Việt tại http://www.nhakhoatamviet.com/bang-gia.html http://www.nhakhoatamviet.com
Địa chỉ: 366 Quang Trung, Phường 10, Quận Gò Vấp, Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028.66 753 538 – 0941 818 149
Cấu Tạo Và Chức Năng Của Da
Cấu tạo và chức năng của da
Cấu tạo và chức năng của da
I. CẤU TẠO CỦA DA
– Cấu tạo da gồm 3 lớp: lớp biểu bì, lớp bì (trung bì) và lớp mỡ dưới da (hạ bì).
1. Lớp biểu bì:
Lớp biểu bì bào gồm: tầng sừng và tầng tế bào sống
+ Nằm ở ngoài cùng của da.
+ Gồm những tế bào chết đã hóa sừng xếp sít nhau và dễ bong ra.
– Vào mùa hanh khô, ta thường thấy những vảy nhỏ trắng bong ra như phấn trắng đó chính là tế bào lớp ngoài cùng của da đã chết và hóa sừng bong ra.
+ Nằm dưới lớp sừng.
+ Lớp tế bào có khả năng phân chia tạo ra các tế bào mới thay thế lớp tế bào ở lớp sừng đã bong ra.
+ Có chứa sắc tố qui định màu sắc da. Tạo nên các màu da khác nhau
– Các tế bào ở lớp tế bào sống dễ hấp thụ tia UV của ánh sáng mặt trời → sạm da, đen da (hình thành sắc tố mealin)… thậm chí có thể gây ung thư da → cần phải bảo vệ da, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời quá lâu.
* Các sản phẩm của da
– Lông và móng là sản phẩm của da. Chúng được sinh ra từ các túi cấu tạo bởi các tế bào của tầng tế bào sống.
+ Tóc tạo nên lớp đệm không khí để chống tia tử ngoại, điều hòa nhiệt độ
+ Lông mày ngăn mồ hôi và nước
* Lưu ý: ta không nên lạm dụng kem, phấn, nhổ bỏ lông mày, dùng bút chì kẻ lông mày tạo dáng vì
+ Khi lạm dụng kem, phấn sẽ gây bít các lỗ chân lông và lỗ tiết chất nhờn, tạo điều kiện cho vi khuẩn bám vào da và phát triển gây bệnh cho da.
+ Không nên nhổ bỏ lông mày vì lông mày có vai trò ngăn không cho mồ hôi và nước chảy xuống mắt nếu nhổ bỏ lông mày thì nước và mồ hôi chảy xuống mắt có thể gây đau mắt và các bệnh về mắt.
2. Lớp bì
– Cấu tạo từ các sợi mô liên kết bện chặt, gồm có: thụ quan, tuyến nhờn, cơ co chân lông, lông và bao lông, tuyến mồ hôi, dây thần kinh, mạch máu và rất nhiều các thành phần khác.
Ví dụ: sợi collagen giúp da đàn hồi tạo nên sự săn chắc của da. Mức độ đàn hồi của các sợi collagen phụ thuộc vào từng lứa tuối làm biến đổi hình thái của da.
– Lớp bì có vai trò giúp cho:
+ Da luôn mềm mại và không thấm nước vì: các sợi mô liên kết bện chặt với nhau và trên da có nhiều tuyến nhờn tiết chất nhờn.
+ Trên da có các thụ cảm nằm dưới da, có dây thần kinh nên ta nhận biết được nóng, lạnh, độ cứng, mềm của vật mà ta tiếp xúc.
+ Da có phản ứng khi trời quá nóng hoặc quá lạnh: khi trời nóng: mao mạch dưới da dãn → tuyến mồ hôi tiết nhiều mồ hôi; khi trời lạnh: mao mạch dưới da co → cơ chân lông co lại.
3. Lớp mỡ dưới da
– Đặc điểm: chứa mỡ dự trữ, có vai trò cách nhiệt
II. CHỨC NĂNG CỦA DA
Da là lớp màng sinh học, không chỉ là vỏ bọc ngoài cơ thể mà còn có nhiều chức năng khác nhau:
– Điều hòa nhiệt độ cơ thể: giữ cho cơ thể luôn ở mức 37 0 C
– Bài tiết chất độc cơ thể: ure, ammonia, acid uric…
– Tạo vitamin D: giúp cho sự tăng trưởng và phát triển của xương
– Giữ ẩm cho cơ thể: tránh sự bốc hơi nước làm khô da
– Thu nhận cảm giác: nhờ vào những thụ cảm thể mà da có những cảm giác nóng, lạnh, đau…
Bài viết gợi ý:
Cấu Tạo Và Chức Năng Của Arn
ARN được cấu tạo theo nguyên tắc đa phân gồm 4 loại rinucleotit, chỉ có 1 chuỗi poliribonucleotit. Có 3 loại ARN (mARN,t ARN, rARN) mỗi loại thực hiện một chức năng nhất định trong quá trình truyền đạt thông tin từ ADN sang protein
Tương tự như phân tử AND thì ARN là đại phân tử cấu tạo theo nguyên tắc đa phân, đơn phân là các ribonucleotit.
Mỗi đơn phân (ribonucleotit) gồm 3 thành phần :
1 gốc bazơ nitơ (A, U, G, X) khác ở phân tử ADN là không có T
1 gốc đường ribolozo ((C_{5}H_{12}O_5) ), ở ADN có gốc đường đêoxiribôz((C_{5}H_{10}O_4) )
1 gốc axit photphoric ((H_{3}PO_{4})).
ARN có cấu trúc gồm một chuỗi poliribonucleotit . Số ribonucleotit trong ARN bằng một nửa nucleotit trong phân tử ADN tổng hợp ra nó.
Các ribonucleotit liên kết với nhau bằng liên kết cộng hóa trị giữa gốc((H_{3}PO_{4}))của ribonucleotit này với gốc đường ribolozo của ribonucleotit kia tạo thành chuỗi poliribonucleotit.
2.Các loại ARN và chức năng
Có 3 loại ARN là mARN, tARN và rARN thực hiện các chức năng khác nhau.
Hình 1: Cấu trúc của các phân tử ARN.
mARN cấu tạo từ một chuỗi polinuclêôtit dưới dạng mạch thẳng, mARN có chức năng truyền đạt thông tin di truyền tử mạch gốc trên ADN đến chuỗi polipepetit. Để thực hiện chức năng truyền đạt thông tin di truyền từ ADN đến protein thì ARN có
Trình tự nucleotit đặc hiệu giúp cho riboxom nhận và liên kết vào ARN
Mã mở đầu : tín hiệu khởi đầu phiên mã
Các codon mã hóa axit amin:
Mã kết thúc , mang thông tin kết thúc quá trình dịch mã
tARN có cấu trúc với 3 thuỳ, trong đó có một thuỳ mang bộ ba đối mã có trình tự bổ sung với 1 bộ ba mã hóa axit amin trên phân tử mARN , tARN có chức năng vận chuyển axit amin tới ribôxôm để tổng hợp nên chuỗi polipetit .
rARN có cấu trúc mạch đơn nhưng nhiều vùng các nuclêôtit liên kết bổ sung với nhau tạo các vùng xoắn kép cục bộ. rARN liên kết với các protein tạo nên các riboxom. r ARN là loại ARN có cấu trúc có nhiếu liên kết hidro trong phân tử nhất và chiếm số lượng lớn nhất trong tế bào.
II.CÁC CÔNG THỨC LIÊN QUAN ĐẾN CẤU TẠO CỦA ADN.
Gọi số nu từng loại của ARN là rA, rU, rX, rG thì
rA = Tmạch gốc. →% rA = % Tmạch gốc
rU = Amạch gốc → . % rU = % Amạch gốc.
rX = Gmạch gốc→ % rX = % Gmạch gốc
rG = Xmạch gốc → % rG = % Xmạch gốc
Vì Amạch gốc + Tmạch gốc = Agen = Tgen
rA + rU = Agen = Tgen
rG + rX = Ggen = Tgen
+ Giữa các ribonucleotit với nhau : rN – 1
+ Trong ribonucleotit : rN
Tính số bộ ba mã hóa trên phân tử ARN là :
Trong phân tử ARN cứ 3 nucleotit liên kề nhau thì mã hóa cho 1 axit amin
Số bộ ba trên phân tử mARN : rN : 3 = N : ( 2 ×3 )
Số bộ ba mã hóa aa trên phân tử mARN là : (rN : 3) – 1
( bộ ba kết thúc không mã hóa axit amin)
Số aa có trong chuỗi polipeptit được tổng hợp từ phân tử mARN là :(r N : 3) – 1 – 1
( khi kết thức quá trình dịch mã aa mở đầu bị cắt bỏ khỏi chuỗi vừa được tổng hợp)
Bài toán 1. Trong quá trình dịch mã, để tổng hợp 1 chuỗi pôlipeptit cần môi trường cung cấp 249 axitamin.
1. Xác định số nuclêôtit trên gen.
2. Xác định số nuclêôtit trên mARN do gen phiên mã.
3. Xác định số chu kỳ xoắn của gen.
4. Xác định chiều dài mARN
5. Tính số liên kết peptit trên chuỗi pôlipeptit.
1. Số nuclêôtit trên gen = (249+1) x 6 = 1500.
2. Số nuclêôtit trên mARN do gen phiên mã = 1500: 2=750
3. Số chu kỳ xoắn của gen =1500: 20 = 75.
4. Chiều dài của gen = (1500 : 2 )×3.4 = 2550A 0.
5. Số liên kết peptit trên chuỗi pôlipeptit = 249-1 =248.
Ví dụ 2 . Chuỗi pôlipeptit hoàn chỉnh có 248 axitamin.
1. Xác định bộ ba trên mARN
2. Xác định số nuclêôtit trên mARN do gen phiên mã.
3. Xác định chiều dài gen.
4. Số liên kết peptit được hình thành để tạo ra chuỗi pôlipeptit.
1. Xác định bộ ba trên mARN = 248+2=250
2. Số nuclêôtit trên mARN do gen phiên mã =250 x 3 =750
3. Lgen = LmARN=750 x3,4 = 2550A 0.
4. Số liên kết peptit được hình thành để tạo ra chuỗi pôlipeptit = 248.
Cấu Tạo Và Chức Năng Của Thực Quản
4.9
Cấu tạo thực quản
Thực quản là một ống cơ, nối hầu với dạ dày. Thực quản dài khoảng 25 – 30cm, dẹt do các thành áp sát vào nhau. Khi có khối thức ăn đang nuốt thì thực quản có hình ống. Thực quản tương đối di động, dính với các tạng xung quanh bằng các cấu trúc lỏng lẻo. Ở cổ, thực quản nằm sau khí quản, đi xuống trung thất sau, nằm phía sau tim, trước động mạch chủ ngực, xuyên qua cơ hoành vào ổ bụng, nối với dạ dày.
Về mặt phẫu thuật, thực quản được chia làm 3 đoạn:
1/3 trên: Bắt đầu từ miệng thực quản (cách cung răng trên 14-15cm) cho tới bờ trên quai động mạch chủ (cách cung răng trên 25cm) đoạn này chỉ dài chừng 10cm.
1/3 dưới: Bắt đầu từ bờ dưới tĩnh mạch phổi cho tới tâm vị (cách cung răng trên 40cm), đoạn này dài chừng 7cm.
Về mặt cấu tạo: Ngoài cùng là lớp mô liên kết bao bọc thực quản. Dưới lớp mô liên kết thành thực quản gồm 3 lớp. Từ ngoài vào trong, cụ thể là:
Lớp cơ: gồm cơ trơn và cơ vân, 1/3 trên thực quản là cơ vân, còn 2/3 dưới là cơ trơn.
Cơ trơn gồm những dải cơ dọc ở ngoài và những sợi cơ vòng ở trong.
Cơ vân gồm những bó sợi cơ vân, bao quanh họng, càng xuống dưới thì mỏng dần và đến đoạn tâm vị thì xuất hiện lại tạo thành cơ thắt tâm vị (cơ thắt thực quản dưới).
Lớp dưới niêm mạc: có các mạch máu và thần kinh.
Lớp niêm mạc: lót trong lòng thực quản, được cấu tạo bởi lớp biểu mô, lớp đệm, lớp cơ niêm và các tuyến.
Hoạt động sinh lý của thực quản:
Chức năng của thực quả là đưa thức ăn từ họng xuống dạ dày. Cơ trong họng co lại, cùng với sự nâng lên của thanh quản sẽ đẩy thức ăn từ miệng xuống thực quản. Tiếp theo các cơ ở miệng thực quản giãn ra để đón nhận lượng thức ăn này. Những chất lỏng, nhão thì rơi không xuống dạ dày. Những chất đặc hơn sẽ di chuyển trong thực quản nhờ sóng nhu động chậm của thực quản, kết hợp với trọng lượng của thức ăn. Phần thực quản dưới viên thức ăn giãn ra trước, sau đó phần thực quản trên viên thức ăn co lại. Cứ như vậy, viêm thức ăn được đẩy đi trong lòng thực quản, xuống đến tâm vị. Tâm vị bình thường luôn đóng. Khi viên thức ăn dừng tại tâm vị, có thể do trọng lượng của nó mà lớp cơ vân giãn ra nhanh, mở lỗ tâm vị để thức ăn rơi xuống dạ dày.
Lưu ý:
Miệng thực quản thường đóng kín để không khí không vào thực quản khi mở, nó chỉ mở ra khi thực quản thực hiện động tác nuốt.
Tâm vị cũng luôn được đóng kín, nó hoạt động như van một chiều để ngăn chặn sự trào ngược của dịch vị.
Trong các trường hợp nhược cơ, viêm niêm mạc sẽ làm các cơ thắt trên không đóng kín thường xuyên và đưa tới các rối loạn.
Cập nhật thông tin chi tiết về Cấu Tạo Và Chức Năng Của Răng Trên Khung Hàm trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!