Bạn đang xem bài viết Các Yếu Tố Liên Quan Đến Mức Độ Nặng Của Viêm Phổi Ở Trẻ Em Từ 2 Tháng Đến 5 Tuổi được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
RISK FACTORS OF SEVERE PNEUMONIA IN CHILDREN
Background and Aims: Pneumonia is a common diagnosis and a leading cause of mortality in children. Aim of the study is to evaluate factors related to the severity of pneumonia in children aged 2 months to 5 years. Methods: A descriptive cross-sectional study was conducted in 221 children aged 2 months to 5 years with pneumonia admitted to the Pediatric Center Hue National hospital from April 2015 to May 2016. Separate logistic regression analyses were used to identify determinants in children of this age group. Results: Risk factors associated with severe pneumonia in children aged 2 months to 5 years were malnutrition, living in the rural areas, delay treatment for 3 days or more, passive smoking, young age with corrected ORs of 5.143 (2.174-2.167); 3.870 (1.244-12.043); 3.214 (1.165-8.867); 2.714 (1.162-6.339); 0.952 (0.910-0.997), respectively. Sex, number of siblings, history of prematurity or low birth weight, inadequate breastfeeding, previous RTIs, previous antibiotic use at home, mothers’ education, insufficient vaccination, history of chronic diseases, contact with persons with RTIs did not associate with the severity of pneumonia. Conclusions: Risk factors associated with severe pneumonia in children aged 2 months to 5 years were malnutrition, living in the rural areas, delay treatment for 3 days or more, passive smoking, young age.
Keywords: pneumonia, risk factors, children aged 2 months to 5 years.
* ThS. BS. Nguyễn Thị Thanh Phương, Bệnh viện Nhi Quảng Nam
**PGS. TS. BS. Bùi Bỉnh Bảo Sơn, Bộ môn Nhi, Trường Đại Học Y Dược Huế
Viêm phổi là bệnh lý thường gặp và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Ước tính năm 2010, có 120 triệu trường hợp viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi, trong đó 14 triệu trường hợp diễn tiến thành viêm phổi nặng [12]. Việc chẩn đoán và điều trị viêm phổi chủ yếu dựa vào dịch tễ, lâm sàng và X-quang phổi. Các chiến lược quản lý viêm phổi vẫn chưa tối ưu, một phần vì chúng ta chưa có đủ phương tiện để xác định bệnh nguyên, phân loại và tiên lượng cho bệnh nhân. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mới mắc và mức độ nặng của viêm phổi, đặc biệt ở các nước đang phát triển như: tuổi nhỏ, cân nặng lúc sinh thấp, suy dinh dưỡng, nhà đông con, trình độ học vấn của bố mẹ thấp, không khí trong nhà ô nhiễm, thiếu sữa mẹ, không được chủng ngừa vắc xin đầy đủ, có bệnh mạn tính kết hợp, số lần nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) trước đây hay tiền sử tiếp xúc với người NKHHCT trong nhà [4],[6],[10],[11],[14]… Việc xác định các yếu tố nguy cơ này góp phần tiên lượng và đưa ra biện pháp dự phòng thích hợp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 221 bệnh nhi bị viêm phổi vào điều trị tại Trung tâm Nhi khoa Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 4/2015 đến 5/2016
Tiêu chuẩn chọn bệnh: trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi được chẩn đoán viêm phổi, viêm phổi nặng theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới [13].
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang, chọn mẫu thuận tiện
Tất cả bệnh nhi nghiên cứu được hỏi tiền sử, bệnh sử, thăm khám lâm sàng, làm các xét nghiệm cận lâm sàng.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0
Suy dinh dưỡng là một trong những yếu tố thuận lợi cho vi trùng gây bệnh nặng trong tất cả các trường hợp nói chung và viêm phổi nói riêng. Theo nghiên cứu của chúng tôi, nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ bị suy dinh dưỡng cao gấp 5,143 lần so với trẻ không suy dinh dưỡng. Nhiều nghiên cứu khác cũng ghi nhận kết quả tương tự: Nguyễn Thành Nhôm và CS (2015), Phan Xuân Mai (2001), Onyango và CS (2012) [1], [2], [9].
Nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ hít khói thuốc lá cao gấp 2,714 lần so với trẻ không hít khói thuốc lá. Nhiều nghiên cứu khác cũng đưa ra hít khói thuốc lá là một yếu tố nguy cơ của viêm phổi nặng: Azab và CS (2014), Jroundi và CS (2014), Hassan và CS (2011) [5], [7], [8].
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ sống ở nông thôn cao gấp 3,870 lần trẻ sống ở thành thị. Điều này có thể giải thích là do điều kiện kinh tế ở nông thôn thấp hơn thành thị, hệ thống y tế ở nông thôn chưa phát triển, đội ngũ cán bộ y tế thiếu về số lượng lẫn chất lượng nên trẻ thường được đưa đi khám khi bệnh đã nặng buộc phải nhập viện. Mặc khác, nhận thức và chất lượng đời sống cao nên người dân thành thị thường đưa trẻ đến các phòng mạch tư khám và chữa bệnh sớm ngay từ đầu. Ngày nay hệ thống phòng mạch tư nhân ở thành phố phát triển, bên cạnh đó nhiều loại thuốc kháng sinh có hiệu quả bằng đường uống ra đời nên các trường hợp viêm phổi nhẹ ở thành phố có thể được điều trị tại nhà mà không cần nhập viện. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Phan Xuân Mai (2001) [1].
Nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ khởi bệnh từ 3 ngày trở lên cao gấp 3,214 lần so với trẻ khởi bệnh dưới 3 ngày. Một số nghiên cứu cũng cho kết quả tương tự: Onyango và CS (2012), Phan Xuân Mai (2001) [1], [9]. Diễn tiến viêm phổi ở trẻ em rất nhanh chóng. Sự chậm trễ đưa trẻ đi khám và điều trị làm tăng mức độ nặng của viêm phổi, thậm chí có thể tử vong.
3. Bùi Bỉnh Bảo Sơn (2012), “Viêm phổi do vi khuẩn mắc phải tại cộng đồng ở trẻ em“, Nhà xuất bản Đại học Huế, tr. 290-332.
4. Trần Quỵ (2006), “Đặc điểm giải phẫu sinh lý bộ phận hô hấp trẻ em“, Bài giảng Nhi khoa, tập 1, Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr. 274-279.
5. Azab SF., Sherief LM., Saleh SH. et al (2014), “Impact of the socioeconomic status on the severity and outcome of community-acquired pneumonia among Egyptian children: a cohort study”, Infect Dis Poverty, 3, pp. 3-14.
6. Djelantik IG., Gessner BD., Sutanto A. et al (2003), “Case fatality proportionsand predictive factors for mortality among children hospitalized with severe pneumonia in a rural developing country setting”, J Trop Pediatr, 49(6), pp. 327-332.
7. Hassan MK., Al-Sadoon I. (2001), “Risk factors for severe pneumonia in children in Basrah”, Trop Doctor, 31(3), pp. 139-141.
8. Jroundi I., Mahraoui C., Benmessaoud R. et al (2014), “Risk factors for a poor outcome among children admitted with clinically severe pneumonia to a university hospital in Rabat, Morocco”, Int J Infect Dis, 28, pp. 164-170.
9. Onyango D., Kikuvi G., Amukoye E. et al (2012), “Risk factors of severe pneumonia among children aged 2-59 months in Western Kenya”, Pan African Medical Journal, 13(45), pp. 1733.
10. Rudan I., Boschi-Pinto C., Biloglav Z. et al (2008), “Epidermiology and etiology of childhood pneumonia”, Bulletin of the World Health Organization, 86(5), pp. 408-416.
11. Tiewsoh K., Lodha R., Pandey RM. et al (2009), “Factors determining the outcome of children hospitalized with severe pneumonia”, BMC Pediatrics, 9(15), pp. 1471-2431.
12. Walker CL., Rudan I., Liu L. et al (2013), “Global burden of childhood pneumonia and diarrhoea”, The Lancet, 381(9875), pp. 1405-1416.
13. WHO (2013), “Pocket book of hospital care for children“, Guidelines for the management of common childhood illness, second edition, pp. 80-87.
14. Wonodi CB., Deloria-Knoll M., Feikin DR. et al (2012), “Evaluation of Risk Factors for Severe Pneumonia in Children: The Pneumonia Etiology Research for Child Health Study”, Clinical Infectious Diseases, 54(2), pp. 124-131.
Nguyễn Thị Thanh Phương* Bùi Bỉnh Bảo Sơn**
Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chức Năng Của Nhà Nước Đương Đại (Phần 2)
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯƠNG ĐẠI (Phần 2)
Nguyễn Thị Thu Na
Bản chất nhà nước quy định chức năng nhà nước, nhưng thức tế còn có những yếu tố khác tác động đến chức năng nhà nước. Những yếu tố làm cho chức năng của nhà nước đương đại trở nên đa dạng, phức tạp tạo ra những sắc thái riêng của mội nhà nước cụ thể là những yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan, yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại, yếu tố nội sinh, yếu tố ngoại sinh,..nhưng có những yếu tố diển hình tác động trực tiếp đến chức năng, để lại dấu ấn đậm nét trong các lĩnh vực hoạt động của các nhà nước.
2.1. Các yếu tố bên trong:
2.1.1 Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kinh tế trong xã hội – Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là công cụ lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế là những nhân tố ảnh không nhỏ đến chức năng nhà nước. Mỗi bước phát triển của đời sống kinh tế lại đặt ra yêu cầu mới có tính xác định cụ thể với bộ máy nhà nước. Từ đó, chức năng nhà nước cũng có sự biến đổi, đòi hỏi cần phải có nhận thức mới đầy đủ hơn về nó.
Ví dụ, ở Việt Nam, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ lao động ngày càng tăng, dẫn đến số lượng sản phẩm càng nhiều, nền kinh tế đi lên để phù hợp với lực lượng sản xuất, đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách, chủ trương, cơ chế mới để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng với giai đoạn hiện tại.
Chức năng kinh tế là một trong những chức năng quan trọng nhất của nhà nước và được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong tổ chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu vật chất của người dân, nhà nước và của toàn xã hội.
Tổ chức, điều tiết, quản lý kinh tế là nhiệm vụ xuyên suốt của nhà nước trong mọi thời kỳ phát triển của lịch sử. Dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau, như: bản chất nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, trình độ nhận thức… các hình thức, phương thức thực hiện, mục đích thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước có thể khác nhau. Nhưng, ngay từ khi ra đời cho đến nay, sự tham gia của nhà nước vào các hoạt động kinh tế luôn có tính tất yếu, khách quan. Không thể có một nhà nước tồn tại tách biệt khỏi điều kiện cơ sở vật chất của xã hội. Cũng không thể có một xã hội có sự quản lý của nhà nước mà nền kinh tế lại đặt ra ngoài hoạt động của nhà nước. Ngay từ những bộ cổ luật đầu tiên của thế giới nhân loại đã biết đến các hình thức hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất, những quy định về thừa kế, quyền sở hữu nô lệ, quyền sở hữu ruộng đất của chủ nô cũng như của các giai cấp thống trị trong việc bảo vệ tư liệu sản xuất, tài sản của mình. Còn ở các nhà nước hiện đại, không thể thiếu những quy định của pháp luật về thị trường tài chính, về tổ chức và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, về hoạt động thương mại, về đăng ký, thành lập doanh nghiệp…
Trong lịch sử cũng đã tồn tại quan điểm cho rằng, sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế là không cần thiết. Theo thuyết “Bàn tay vô hình”, sẽ tốt hơn nếu thị trường tự quyết định, tự điều chỉnh theo chính nhu cầu vốn có của nó mà không cần có sự can thiệp của nhà nước. Nhưng, thực tế lịch sử cho thấy, thiếu sự điều tiết của nhà nước nền kinh tế dễ bị tổn thương như thế nào. Nhưng ngay cả khi áp dụng lý thuyết này, nhà nước vẫn không đứng ngoài cuộc. Vai trò điều tiết của nhà nước lúc này là thông qua những quy định pháp lý về sự tự do hóa nền kinh tế, mở cửa thị trường, những quy định về các loại hình công ty, thương hội
2.1.2. Cơ cấu – phân tầng xã hội, mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội
Yếu tố này xuất phát từ sự ảnh hưởng của bản chất Nhà nước (tính xã hội) đến chức năng nhà nước và ảnh hưởng lớn đến chức năng Nhà nước. Cơ cấu phân tầng của xã hội càng phức tạp, tức xã hội càng nhiều giai cấp, thì nhà nước càng cần phát triển các chức năng để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội về kinh tế chính trị, xã hội…là cơ sở để nhà nước phát triển các chức năng của mình nhằm đảm bảo tính giai cấp và tính xã hội của Nhà nước.
Khi nghiên cứu nguồn gốc Nhà nước ta thấy rằng nhà nước xuất hiện do 2 nguyên nhân: nguyên nhân kinh tế (sự xuất hiện chế độ tư hữu) và nguyên nhân xã hội (sự xuất hiện của giai cấp và mâu thuẫn giai cấp). Căn cứ vào đó có thể thấy bản chất nhà nước được thể hiện ở hai mặt, đó là tính giai cấp của nhà nước và vai trò xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác đều thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và quyền lực tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, là cơ sở để bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế co ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả năng có thể bắt những người bị bóc lột phải phụ thuộc về mặt kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. VÌ vậy, cần phải có nhà nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Tuy nhiên, với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực công cộng nhằm duy trì trật tự và sự ổn định của xã hội, nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội của nó. Trong bất kỳ nhà nước nào, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước cũng phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải quyết những vấn đề mà đời sống xã hội đặt ra. Chẳng hạn: bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng và thực hiện hệ thống an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, chống thiên tai, dịch bệnh…
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
So với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp, nhà nước có một số đặc điểm riêng sau đây:
+ Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt không hòa nhập với dân cư
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng.
Khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực này, nhà nước hình thành một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục vụ ý chí của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực công cộng đặc biệt này đã tách khỏi xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc và chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Công cuộc đổi mới đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tạo ra những tiền đề và đòi hỏi đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Ví dụ, nhà nước chủ nô tồn tại hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ với mâu thuẫn giai cấp hết sức gay gắt nên một trong các chức năng nhà nước là duy trì sự thống của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ. Đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn sự bóc lột giữa các giai cấp. Chức năng nhà nước là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, thực hiện công bằng xã hội, giải quyết hài hòa các lợi ích giữa nhà nước, cá nhân và cộng đồng.
2.1.3. Trình độ và trách nhiệm của các nhà chính trị, bộ máy nhà nước
Trình độ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phán đoán và phương pháp giải quyết công việc. Trách nhiệm ảnh hưởng đến tính thần, ý thức làm việc,…của chủ thể. Trình độ và trách nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có trình độ giúp các nhà chính trị nhận thức và hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình. Ngược lại trách nhiệm giúp nâng cao tinh thần tự giác học tập, rèn luyện để phát triển trìnhđộ, qua đó thực hiện công việc đặt ra nhanh chóng và đạt hiệu quả cao hơn. Hiện nay trong bộ máy nước Việt Nam còn tồn tại một bộ phận cán bộ nhà nước có trình độ hiểu biết kém, vô trách nhiệm…đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, khả năng thực hiện chức năng của nhà nước.
Hoạt động của bộ máy công chức có ý nghĩa quyết định đến kết quả bộ máy nhà nước. Trong thời gian tiếp theo, cần tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với từng loại công chức giúp công chức có khả năng nắm vững các kiến thức chính trị, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, kiến thức hành chính, pháp luật, ngoại ngữ, tin học…đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
2.1.4. Lịch sử phát triển toàn dân tộc, truyền thống – văn hóa- tư tưởng
Mỗi nhà nước có một lịch sử ra đời và phát triển riêng dẫn đến việc có những chức năng khác nhau, phù hợp với nó. Ví dụ, ở kiểu Nhà nước chủ nô, đểbảo vệ quyền lợi về tư liệu sản xuất cũng như địa vị của chủ nô, ngăn cản sự nổi dậy của nô lệ …Nhà nước phải có chức năng trấn áp sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động bằng quân sự. Đến kiểu Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa ra đời, do thực hiện mục tiêu tất cả quyền lực thuộc về tay nhân dân, chức năng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và con người ra đời và được thể hiện trong Hiến pháp. Các yếu tố truyền thống – văn hóa – tư tưởng là nguồn gốc của một số chức năng nhà nước nhất định.
Ví dụ, ở Trung Quốc vua là thiên tử, có trách nhiệm “thế thiên hành đạo”, dân chúng luôn hết lòng phục vụ vua, coi vua là trung tâm. Điều này rất phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, dẫn đến việc duy trì sự thống trị về tư tưởng đối với quần chúng trở thành một chức năng của kiểu Nhà nước phong kiến, giúp Nhà nước quản lý và điều khiển quần chúng rất hiệu quả.
2.2. Yếu tố bên ngoài
Quyền con người, dân chủ hóa và toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhiều chức năng nhà nước.
Dựa trên việc thừa nhận quyền con người và xem xét nó trên mọi phương diện, các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế để đảm bảo cho người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất. Quá trình dân chủ hóa quốc gia diễn ra đòi hỏi các quốc gia phải có những chính sách, quy định đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa những người dân,phát huy quyền làm chủ của người dân… Trong thời đại ngày nay, khi toàn cầu hóa đã trở thành xu thế, sự hợp tác giữa các nước được thúc đẩy, các quá trình trao đổi, hợp tác kinh tế,tài chính,thương mại… giữa các quốc gia trở nên tích cực hơn,các nước chủ động và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền con người, dân chủ hóa và toàn cầu hóa góp phần đẩy mạnh sự thực hiện và phát triển toàn diện của các chức năng Nhà nước như: chính trị, kinh tế, đối ngoại…
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay, nước nào đứng ngoài xu thế này sẽ khó có thể phát triển được. Đối với những nước đang phát triển, nghèo nàn, lạc hậu thì hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một cơ hội tốt để thu hút nguồn vốn đầu tư, tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi trình độ quản lý hiện đại,… nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, Đảng ta chủ trương chủ động tham gia vào quá trình này.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay là hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn tới nhiều thành phần xã hội, tức cơ cấu giai tầng trong kinh tế thị trường sẽ đa dạng và phong phú hơn. Đa dạng về thành phần xã hội tất sẽ đa dạng về lợi ích và nhu cầu. Đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng và đa dạng của các thành phần trong xã hội thuộc về chức năng xã hội của nhà nước.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã nảy sinh những vấn đề xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải cấp bách giải quyết như: nạn thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho người sản xuất kinh doanh chân chính; các tệ nạn xã hội, tội phạm mang tính quốc tế gia tăng, ảnh hưởng môi trường xã hội; do điều kiện địa lý, các vùng sâu, vùng xa có nguy cơ tụt hậu vì không thu hút được đầu tư; do lợi nhuận chi phối nên những nhóm ngành nghề rất cần cho xã hội nhưng lợi nhuận thấp dễ bị bỏ rơi,v.v.. Những vấn đề đó đang đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội.
5 Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chiến Lược Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
1. Sự cạnh tranh giữa các đối thủ
Tính chất và mức độ cạnh tranh được quyết định phần lớn là bởi đối thủ cạnh tranh trong ngành của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có sản phẩm, dịch vụ tốt hơn chắc chắn sẽ giành giật được lợi thế cao hơn, đồng thời phát triển thị phần hiện có với mức lợi nhuận cao nhất.
Một số những hình thức hay công cụ cạnh tranh phổ biến mà các đối thủ trong ngành hay sử dụng như: cạnh tranh giá cả, chất lượng sản phẩm. Thực tế cũng chỉ ra rằng, các đối thủ trong cùng một ngành luôn sử dụng những công cụ cạnh tranh tổng hợp, đó là sự kết hợp giữa cạnh tranh về giá cả, ưu điểm riêng khác biệt của sản phẩm, chiến lược bán hàng và tiếp cận khách hàng…
2. Nguy cơ đe doạ nhập ngành từ đối thủ
Hiểu rõ những đối thủ của mình đang làm gì, có điểm mạnh như thế nào luôn mang một ý nghĩa quan trọng cho chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với những đối thủ mạnh hơn, có khả năng chiếm lĩnh thị phần và mở rộng sản xuất. Những đối thủ lớn này chính là nguyên nhân lớn cho doanh nghiệp phải vạch ra những kế hoạch sẵn sàng ứng phó với thị trường cạnh tranh luôn trong tình trạng khốc liệt và thường xuyên thay đổi.
Để chiến lược cạnh tranh không rơi vào “bế tắc”, giúp doanh nghiệp hạn chế dduwwojc sự đe dọa của các đối thủ, doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến nhiệm vụ nâng cao các hàng rào bảo vệ hợp pháp, tập trung đặc biệt vào phát triển công nghệ phục vụ cho haotj động sản xuất, kinh doanh.
Xu hướng hội nhật kinh tế thế giới hiện nay, nhiều doanh nghiệp xuyên quốc gia, doanh nghiệp nước ngoài với tiềm lực kinh tế và công nghệ lớn mạnh đang trở thành đối thủ cực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước, nhất là những doanh nghiệp có khả năng tài chính hạn hẹp và ít có cơ hội cạnh tranh.
3. Khả năng thương lượng hay ép giá của người mua
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chỉ thực sự có ý nghĩa khi sản phẩm, dịch được khách hàng tiêu thụ và có lãi. Do đó, sự hài lòng, niềm tin của khách hàng khi sử dụng sản phẩm là điều vô cùng giá trị với doanh nghiệp. Và để có được sự tín nhiệm từ khách hàng, doanh nghiệp cần làm thật tốt quy trình nghiên cứu đối tượng khách hàng, thỏa mãn được nhu cầu và thói quen của họ khi tiêu dùng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Một thực tế khách quan chỉ ra rằng, người mua luôn có xu hướng muốn trả giá thấp hơn so với giá mà doanh nghiệp đưa ra, nhiều khi dẫn tới tình trạng ép giá, gây áp lực lớn đối với doanh nghiệp. Nếu vừa đảm bảo hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt, giá thành rẻ thì ít nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế cho nên, để hạn chế bớt sức ép về giá cả, thương lượng của khách hàng, doanh nghiệp nên phân loại khách hàng của mình tùy theo mức độ nhu cầu và thị hiếu của họ. Đây cũng là cơ sở nhằm định hướng cho các chiến lược kinh doanh, marketing, chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp trong các giai đoạn tiếp theo.
4. Khả năng thương lượng hay ép giá của người cung ứng
Nhà cung cấp hay những người cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản phẩm, dịch vụ luôn muốn thu về nhiều lợi nhuận cho mình, điều này kéo theo việc họ có thể quyết định tăng giá hay giảm chất lượng nguyên liệu mà doanh nghiệp đặt mua và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Mặt khác, doanh nghiệp luôn phải sẵn sàng ứng phó với sự cạnh tranh từ ngay trong chính nội bộ của mình: từ lực lượng lao động, những nhân sự có năng lực và trình độ cao luôn mong muốn được nhận nhiều quyền lợi trong tổ chức. Thách thức cho doanh nghiệp đó chính là chính sách nào giúp thu hút và giữa chân những nhân sự giỏi, những người là tiền đề quan trọng cho sự phát triển, thành công của doanh nghiệp.
5. Sự đe dọa từ các sản phẩm thay thế
Để sản phẩm, dịch vụ luôn được tối ưu về chất lượng, đem tới cho khách hàng những trải nghiệm tốt nhất có thể khi sử dụng,…doanh nghiệp cần có những sự đổi mới và tải tiến. Điều này có thể giúp cho doanh nghiệp chiếm ưu thế về chất lượng trên thị trường, tuy nhiên vẫn có những sự đe dọa nhất định từ các sản phẩm thay thế đó là giá thành phải cao hơn. Vì vậy, biện pháp để hạn chế điều này đó là doanh nghiệp cần cân nhắc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để giảm thiểu giá thành và đồng thời tăng cường những đặc tính nổi trội, chất lượng sản phẩm để thu hút khách hàng quan tâm.
Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chức Năng Của Nhà Nước Đương Đại
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯƠNG ĐẠI – PHẦN 1
CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯƠNG ĐẠI (Phần 1) ThS. Nguyễn Thị Thu Na 1.1. Khái niệm và phân loại chức năng nhà nước đương đại
Chức năng của nhà nước đương đại được xác định từ bản chất, vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội. Và ngược lại, các chức năng nhà nước lại là sự biểu hiện cụ thể của bản chất và vai trò của nhà nước. Chức năng của nhà nước chịu ảnh hưởng lớn từ thực tế khách quan của tình hình chính trị, văn hoá, xã hội trong nước và quốc tế trong từng thời kì lịch sử cụ thể. Vì vậy, có thể hiểu: “Chức năng nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản, quan trọng nhất của nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội”. Chức năng nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất nhà nước do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp trong xã hội quyết định.
* Phân loại:
– Căn cứ vào phạm vi hoạt động của chức năng nhà nước thì nhà nước chia làm 2 nhóm: Đối nội, đối ngoại:
+ Đối nội: là chức năng được thực hiện trong phạm vị nội bộ 1 đất nước như đảm bảo chế độ kinh tế, giữ an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trấn áp những phần tử chống chế độ.
+ Đối ngoại: Thể hiện vai trò của nhà nước với các nhà nước khác, dân tộc khác: phòng thủ đất nước chống giặc ngoại xâm, thiết lập mối bang giao với các nước khác, dân tộc khác.
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện chức năng đối ngoại phải căn cứ vào tình hình thực hiện chức năng đối nội. Đồng thời kết quả của việc thực hiện chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội.
– Để thực các chức năng nhà nước phải dựa vào pháp luật thông qua 3 hình thức chính là:
+ Xây dựng pháp luật.
+ Tổ chức thực hiện pháp luật.
+ Bảo vệ pháp luật.
Các phương pháp hoạt động: tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước mà kết hợp việc sử dụng 2 phương pháp sau đây:
+ Phương pháp giáo dục: đây là phương pháp cơ bản dùng trong nhà nước còn phương pháp cưỡng chế đc sử dụng kết hợp thêm trên cơ sở giáo dục thuyết phục.
+ Phương pháp cưỡng chế: là phương pháp đc sử dụng rộng rãi trong các nhà nước bóc lột.
– Căn cứ vào yếu tố pháp lý, chức năng nhà nước được chia làm 3 loại: chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.
– Căn cứ vào vai trò của nhà nước phân thành chức năng giai cấp ( bảo vệ giai cấp thống trị), chức năng xã hội.
1.2. Các biểu hiện của chức năng nhà nước đương đại 1.2.1. Chức năng xã hội của nhà nước đương đại
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhà nước tiếp cận dưới góc độ triết học có hai chức năng là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng giai cấp là chức năng bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Chức năng xã hội là chức năng đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Là những nhà duy vật biện chứng nên trong khi nhấn mạnh chức năng giai cấp của nhà nước, Mác và Ăngghen không hề coi nhẹ chức năng xã hội của nhà nước.
Theo đó, xét từ cội nguồn quyền lực, nhà nước là một công quyền “nảy sinh từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp”,”có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”; là một bộ máy quản lý xã hội, có chức năng bảo đảm lợi ích chung của cả cộng đồng, xã hội. Những nhiệm vụ đó của nhà nước thuộc phạm vi chức năng xã hội – chức năng yêu cầu nhà nước phải thực hiện những nhiệm vụ vì sự tồn tại của cả xã hội.
Chức năng xã hội của nhà nước là tất yếu, khách quan, mức độ thực hiện chức năng này phụ thuộc vào tính tiến bộ hay phản động của giai cấp cầm quyền. “Các giai cấp thống trị ở thời điểm phát triển đi lên của mình, đã thực hiện chức năng xã hội hoàn toàn xác định và chính nhờ điều đó họ mới trở thành giai cấp thống trị” . Ngược lại, các giai cấp cầm quyền khi trở nên lỗi thời, phản động thì thường quá coi trọng chức năng giai cấp, coi nhẹ chức năng xã hội, không quan tâm đến đời sống của người dân, đẩy người dân đến cảnh khốn cùng, đó là thời điểm báo hiệu địa vị thống trị bị lung lay và sắp sụp đổ, bởi “Sự thống trị giai cấp chỉ có thể tồn tại với điều kiện là nó đảm bảo cho được những người bị áp bức không bị nghèo túng đến cùng cực”. Khi “những người bị áp bức nghèo túng đến cùng cực” thì họ sẽ nổi dậy đấu tranh nhằm lật đổ nhà nước hiện tồn, thiết lập một nhà nước mới, có thể thực hiện chức năng xã hội tốt hơn.
Từ đó có thể thấy, thực hiện tốt chức năng xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong việc củng cố địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền, của lực lượng cầm quyền. Chính chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện và phương thức thực hiện chức năng giai cấp như C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”.
Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện ở hai nhóm nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, nhà nước phải chăm lo những công việc chung của toàn xã hội, tất cả các giai cấp trong xã hội đều được hưởng lợi khi nhà nước thực hiện những công việc đó, ví dụ như: nhà nước bảo đảm trật tự an toàn xã hội; chống ô nhiễm môi trường, sinh thái; phòng chống lây lan dịch bệnh; xây dựng các công trình phúc lợi, công cộng…
Hai là, nhà nước phải thỏa mãn ở mức độ nào đó nhu cầu của các giai tầng khác trong xã hội, tức là phải thực hiện những chính sách đem lại lợi ích cho các giai tầng bị trị ở mức độ nhất định, dù cho những chính sách đó có thể ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt của giai cấp cầm quyền. Ví dụ như nhà nước phong kiến giảm tô, giảm thuế, mở kho lương cứu đói cho nông dân; nhà nước tư sản thực hiện chính sách “tăng lương giảm giờ làm” đối với giai cấp công nhân… Như vậy, chức năng xã hội là đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của tất cả các thành phần trong xã hội ở một mức độ nhất định nào đó.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác về chức năng xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc thực hiện chức năng xã hội. Người nêu rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân” và “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
1.2.2. Chức năng giai cấp của nhà nước đương đại
Nhà nước là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc xã hội, nó là sản phẩm của một chế độ kinh tế – xã hội nhất định. Sự phát triển của hạ long cơ sở quyết định sự phát triển của nhà nước. Tuy nhiên, những sự biến đổi của nhà nước không phải chỉ phụ thuộc vào những biến đổi trong cơ sở kinh tế của xã hội. Các điều kiện và yếu tố như đối sánh giai cấp mức độ gay gắt của những mâu thuẫn xã hội, các đảng phái chính trị, các trào lưu chính trị pháp lý… đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của nhà nước. Đồng thời, nhà nước luôn tác động mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế, đến những điều kiện và quá trình phát triển của sản xuất xã hội cũng như đến các hiện tượng xã hội khác.
Trong xã hội có giai cấp, để bảo vệ và thực hiện những lợi ích của mình, ngoài nhà nước ra, giai cấp thống trị còn thiết lập nhiều tổ chức chính trị xã hội khác nữa trong đó đáng chú ý nhất là các đảng phái chính trị. So với các tổ chức chính trị xã hội đó, nhà nước có một vai trò đặc biệt, nó nằm ở vị trí trung tâm giữa các tổ chức chính trị xã hội, bởi vì chỉ nhà nước mới có các cơ quan đặc biệt cùng với các phương tiện vật chất kèm theo như quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tu… cho nên nó có thể tác động một cách mạnh mẽ và toàn diện đến đời sống xã hội. Sự tác động của nhà nước đến quá trình phát triển của xã hội được thực hiện thông qua việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị của giai cấp cầm quyền.
Các chủ trương chính sách của nhà nước bao giờ cũng thể hiện một cách trực tiếp lợi ích kinh tế, chính trị của các giai cấp. Chẳng hạn, chính sách của nhà nước tư sản luôn luôn xuất phát từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh và bảo vệ các lợi ích chung của giai cấp tư sản; chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất luôn phản ánh và bảo vệ lợi ích chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp cho nên sự tham gia của nhà nước vào việc xác định nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, xác định phương hướng, hình thức và nội dung hoạt động của nhà nước là yếu tố quan trọng trong chính sách của nhà nước.
Cập nhật thông tin chi tiết về Các Yếu Tố Liên Quan Đến Mức Độ Nặng Của Viêm Phổi Ở Trẻ Em Từ 2 Tháng Đến 5 Tuổi trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!