Bạn đang xem bài viết Các Công Cụ Hỗ Trợ Hoạch Định được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Kết quả
Các công cụ hỗ trợ hoạch định:
Dự báo vừa là nghệ thuật và là khoa học tiên đoán các sự việc xảy ra trong tương lai. Nghệ thuật dự báo được thể hiện ở cả chiều rộng, cả chiều sâu của tư duy, kinh nghiệm về kinh doanh, cũng như khả năng vận dụng linh hoạt các phương pháp ước đoán theo từng tình thế cụ thể của sự việc xảy ra trong thời gian tới.
Các kỹ thuật dự báo cơ bản thường được sử dụng trong hoạch định là dự báo theo kịch bản; kỹ thuật Delphi; phương pháp mô hình phỏng. Mặc dù các phương pháp trên có thể chồng lấn lên nhau nhưng không loại trừ nhau. Tất cả đều nhằm làm rõ và định hướng về tương lai. Mặc dù kết quả dự báo là không chắc chắn, nhưng chúng rất cần thiết bởi vì chúng là cơ sở để các nhà quản trị hoạch định trong tương lai.
Trong doanh nghiệp, để xây dựng các kế hoạch sản xuất kỹ thuật, tài chính, người ta sử dụng ba loại dự báo chủ yếu sau:
– Dự báo kinh tế;
– Dự báo công nghệ;
Dự báo là hoạt động cần thiết và không thể thiếu được của bất kỳ một doanh nghiệp nào.
Bởi vì dự báo, đặc biệt là dự báo về nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp có những vai trò chủ yếu sau:
– Nhờ dự báo, mới có thể có những căn cứ khoa học cho việc định hướng phát triển doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định.
– Nhờ dự báo mới có thể lường trước được những khó khăn, thuận lợi sẽ đến với doanh nghiệp như thị trường, uy tín, các đối thủ cạnh tranh hoặc sẽ cạnh tranh với doanh nghiệp v.v…
– Kết quả của dự báo là căn cứ cho việc quyết định mở rộng hay thu hẹp thị trường, việc lựa chọn quy mô cần phát triển của doanh nghiệp.
– Nó là căn cứ để doanh nghiệp xây dựng các chiến lược kinh doanh, các kế hoạch tác chiến khác, như kế hoạch tài chính, kế hoạch cung cấp vật tư – kỹ thuật, kế hoạch nhân sự v.v…
– Kết quả của dự báo cho phép ước tính được giá bán sản phẩm hàng hoá dịch vụ và kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Dự báo theo kịch bản là sự mô tả bằng văn bản một tương lai có thể xảy ra. Kỹ thuật dự báo này do Herman Kalrn và Anthony Weiner đề xướng vào năm 1967. Các nhà lập kế hoạch sử dụng các kịch bản nhằm vạch ra những câu hỏi như:
– Môi trường hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai sẽ biến đổi như thế nào?
– Những trạng thái tiềm năng (giả thiết) có thể xảy ra đối với doanh nghiệp trong tương lai như thế nào?
– Doanh nghiệp có thể áp dụng những chiến lược nào để ngăn ngừa, định hướng thúc đẩy hay giải quyết những trạng thái tương lai đó?
Kỹ thuật dự báo Delphi (phương pháp chuyên gia) là một công cụ hỗ trự dự báo trên cơ sở nhất trí của tập thể các chuyên gia. Phương pháp dự báo này được thực hiện bằng cách đề nghị các chuyên gia đưa ra ý kiến của họ và qua nhiều lần lấy ý kiến cho tới khi họ đạt được sự nhất trí. Ngày nay, kỹ thuật Delphi đã được công nhận như một công cụ quan trọng hỗ trợ cho hoạch định chiến lược. Các bước cơ bản của kỹ thuật Delphi:
Bước 1: Chuẩn bị bảng câu hỏi để gửi tới các chuyên gia. Bảng câu hỏi yêu cầu họ cho điểm đánh giá về một công nghệ cụ thể nào đó hoặc những khả năng có thể xảy ra đối với thị trường. Bước này, đòi hỏi đưa ra những kỳ hạn dự kiến và phân bố xác suất đối với mỗi cơ hội thị trường.
Bước 2: Tập hợp ý kiến của các chuyên gia thành báo cáo tóm tắt. Bản báo cáo trình bày số điểm trung bình, mức độ khác biệt giữa các câu trả lời. Cùng với bảng câu hỏi, bản báo cáo này được gửi tới các chuyên gia tham gia lần thứ nhất. Lần thứ hai, các chuyên gia được yêu cầu điều chỉnh, bổ sung hay giữ nguyên ý kiến ban đầu.
Bước 3: Tổng hợp các ý kiến đánh giá lần thứ hai. Bảng tổng hợp này thường cho thấy mức độ nhất trí tăng lên. Phương pháp này thường chỉ tiến hành tới vòng thứ ba.
Dự báo mô phỏng tình huống là một sự minh họa về một hệ thống thực tế dưới hình thức định lượng hoặc định tính. Trong phương pháp mô phỏng thường có một số biến số như lợi nhuận, thị phần hay phẩm cấp chất lượng mà chúng thường thay đổi tùy theo sự thay đổi của một số biến số khác như tỷ lệ lạm phát, sự thay đổi giá bán của đối thủ cạnh tranh hay tỷ lệ thất nghiệp. Phương pháp mô phỏng thường được sử dụng bằng máy tính, trên cơ sở những câu hỏi và biến số điển hình.
Dự báo định lượng là việc dùng các loại mô hình toán học trong việc sử dụng các dữ liệu đã qua và các biến số nhân quả để tính kết quả dự báo về nhu cầu. Có nhiều phương pháp dự báo định lượng như: Bình quân đơn giản, bình quân di động, san bằng số mũ, định hướng theo xu hướng. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính, gọi là mối liên hệ giữa các biến số hoặc các yếu tố nào mà có thể ảnh hưởng đến khối lượng được dự báo vào trong một mô hình.
Quản trị theo mục tiêu (MBO – Mangement by Objectives) là một triết lý và phương pháp tiếp cận quản trị nhằm chỉ đạo quá trình hoạch định bằng cách giúp các nhà quản trị kết hợp giữa các kế hoạch chiến lược và chiến thuật. Đặc biệt, MBO cung cấp những phương tiện để biến các mục tiêu và chiến lược của tổ chức thành những kế hoạch và hoạt động chiến thuật. MBO thể hiện một triết lý tích cực về con người và phong cách quản trị. MBO có những thuộc tính sau:
– Giải quyết những vấn đề chung giữa các cá nhân và nhóm tại tất cả các cấp của tổ chức.
– Truyền thông mở và sự tin cậy. Chú trọng đến các mối quan hệ dựa vào lòng tin, trên tất cả các phương diện thông qua sự hợp tác.
– Khen thưởng và thăng chức trực tiếp dựa trên cơ sở những thành tựu và thành tích của nhóm và của cá nhân trong công việc.
– Sử dụng tối thiểu những áp lực, tiểu xảo trong quản trị. Thiết lập một cơ cấu quản trị năng động, hiệu quả và thúc đẩy nền văn hoá của doanh nghiệp.
Hình sau phác thảo những nét đại cương về quá trình của quản trị theo mục tiêu gồm có bảy pha gắn liền nhau.
Tiến trình tiến hành MBO điển hình
Đặc trưng đáng chú ý của MBO là việc thiết lập và liên kết các mục tiêu đối với toàn công ty, các khối và các SBU của công ty, các bộ phận, các tổ – nhóm và công việc của các cá nhân. Những mục tiêu này chỉ rõ chất lượng và số lượng những kết quả kỳ vọng trong một khoảng thời gian nào đó. Từ pha 1 đến pha 3 của tiến trình nhằm trả lời hai câu hỏi cơ bản “Tại sao chúng ta ở đây?” và “Nếu vậy thì chúng ta nên thực hiện công việc gì?”. Những pha này đòi hỏi có sự tham gia của các nhà quản trị, các đội – nhóm và các nhân viên thuộc tất cả các cấp của tổ chức.
Trong pha 1, sứ mệnh và các mục tiêu chung của tổ chức được thiết lập. Công việc này thường do các quản trị gia cao cấp và Hội đồng quản trị đảm nhiệm. Các nhân tố này chỉ rõ bản chất của tổ chức và những mục đích mà tổ chức cần đạt đến. Pha này tương ứng với phần hoạch định chiến lược đã đề cập trong Chương 4.
Trong pha 2, các nhà quản trị phát triển những mục tiêu chiến lược cụ thể. Những mục tiêu này thường mang tính định lượng hơn các mục tiêu chiến lược chung và được ghi rõ thời gian hoàn thành chúng. Chẳng hạn, mục tiêu chiến lược của công ty A là gia tăng lợi nhuận 20% trong ba năm tiếp theo.
Trong pha 3, các quản trị gia cấp trung gian phát triển các mục tiêu chiến thuật cho các phòng ban, bộ phận và các nhóm. Những mục tiêu này phục vụ cho các mục tiêu chiến lược.
d) Mục đích và tiêu chuẩn để thiết lập mục tiêu
Tiến trình thiết lập các mục tiêu bao gồm việc nhận diện những phạm vi cụ thể của nhóm hay trách nhiệm thuộc công việc và tiêu chuẩn về thành tích.
3. Phương pháp sơ đồ mạng lưới
Hạt nhân của phương pháp sơ đồ mạng lưới được sử dụng rộng rãi trong hoạch định là sơ đồ PERT (Program Evalution and Review Technique). Nó là một kỹ thuật đặc biệt được trình bày bằng biểu đồ về sự phối hợp các hoạt động và sự cần thiết để đạt được mục tiêu chung của một dự án. PERT gồm bốn yếu tố:
– Mạng lưới PERT là một biểu đồ biểu diễn tính liên tục và các mối quan hệ của những công việc và sự kiện cần thiết để hoàn thanhf một dự án hay kế hoạch tổng thể.
– Đường găng của dự án là con đường có thời gian dài nhất để xác định độ dài thời gian của toàn dự án.
– Phân bố các nguồn lực. Để thực hiện những công việc cần thiết, các nhà quản trị cần đến nhiều nguồn lực khác nhau. Các nhà quản trị cần phải ước tính về chủng loại và khối lượng nguyên liệu, thiết bị, công cụ , cũng như nguồn nhân lực cần thiết càng chính xác càng tốt.
– Chí phí và thời gian. Giá trị của phương pháp sơ đồ mạng lưới PERT đối với các nhà quản trị là khả năng nó có thể cho phép làm giảm chi phí và thời gian thực hiện các dự án.
Nguồn:TS. Hà Văn Hội (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)
Cần Thêm Các Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp
Nhiều đối tượng được gia hạn nộp thuế
Dự thảo Nghị định quy định việc gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất đối với các đối tượng cụ thể. Đó là các DN, tổ chức, cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình hoạt động sản xuất trong các ngành: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; Sản xuất, chế biến thực phẩm; Dệt; Sản xuất trang phục; Giày, dép; Sản phẩm từ cao su; Sản phẩm điện tử, máy vi tính; Lắp ráp ô tô (trừ sản xuất, lắp ráp ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống).
Số thu ngân sách không giảmTheo đại diện Bộ Tài chính, nếu áp dụng đối tượng và thời gian gia hạn theo Dự thảo thì số thuế và tiền thuê đất dự kiến gia hạn trên 30.000 tỷ đồng. Trong đó, thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT 5 tháng đối với số thuế GTGT thì số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) của các tháng đó giảm khoảng 22.600 tỷ đồng; Số thuế phát sinh phải nộp năm 2019 của nhóm cá nhân, hộ gia đình được gia hạn là khoảng 3.000 tỷ đồng; Số tiền thuê đất được gia hạn khoảng 4.500 tỷ đồng. Tuy nhiên, số thu NSNN của năm 2020 không giảm do DN phải thực hiện nộp vào NSNN trước ngày 31/12/2020; hộ, cá nhân kinh doanh phải thực hiện nộp vào NSNN trước ngày 15/12/2020.
Dự thảo quy định cụ thể việc gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất với các đối tượng theo quy định. Cụ thể, với GTGT, gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế GTGT phát sinh phải nộp của các tháng 3, tháng 4, tháng 5, tháng 6/2020 của các DN, tổ chức nêu trên đang thực hiện kê khai thuế GTGT phải nộp theo tháng. Thời gian gia hạn là 5 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế GTGT phát sinh phải nộp của quý I và quý II năm 2020 của các DN, tổ chức nêu trên đang thực hiện kê khai thuế GTGT phải nộp theo quý. Thời gian gia hạn là 5 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Các DN, tổ chức thuộc đối tượng được gia hạn thực hiện kê khai, nộp Tờ khai thuế GTGT tháng, quý theo quy định pháp luật hiện hành, nhưng chưa phải nộp số thuế GTGT phải nộp phát sinh trên Tờ khai thuế GTGT đã kê khai. Thời hạn nộp thuế GTGT tháng 3/2020 chậm nhất là ngày 20/9/2020. Thời hạn nộp thuế GTGT tháng 4/2020 chậm nhất là ngày 20/10/2020. Thời hạn nộp thuế GTGT tháng 5/2020 chậm nhất là ngày 20/11/2020. Thời hạn nộp thuế GTGT tháng 6/2020 chậm nhất là ngày 20/12/2020. Thời hạn nộp thuế GTGT quý 1/2020 chậm nhất là ngày 30/9/2020. Thời hạn nộp thuế GTGT quý 2/2020 chậm nhất là ngày 30/12/2020…
Đối với cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình kinh doanh, gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế thu nhập cá nhân đối với số tiền thuế phát sinh phải nộp năm 2020 của cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế thuộc đối tượng được gia hạn. Cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình kinh doanh thực hiện nộp số tiền thuế được gia hạn tại khoản này trước ngày 15/12/2020.
Đối với tiền thuê đất, gia hạn thời hạn nộp tiền thuê đất đối với số tiền thuê đất phải nộp kỳ đầu năm 2020 của DN, tổ chức, cá nhân đang được Nhà nước cho thuê đất thuộc lĩnh vực, ngành kinh tế được gia hạn, thời gian gia hạn là 5 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp tiền thuê đất theo quy định của pháp luật. Thời hạn nộp tiền thuê đất được gia hạn chậm nhất là ngày 31/10/2020.
Tìm Giải Pháp Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ
Theo đánh giá của Bộ Công thương, dù năng lực sản xuất các sản phẩm hỗ trợ trong nước trong những năm vừa qua đã dần được cải thiện, nhưng khả năng cung ứng thực tế vẫn còn nhiều bất cập, nhập siêu linh kiện, phụ tùng còn rất lớn, tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành công nghiệp rất thấp. Thí dụ, tỷ lệ này của các ngành dệt may mới đạt khoảng 40 đến 45%. Ngành vải may hiện đạt sản lượng 2,3 tỷ m2/năm, mới đáp ứng khoảng 25% nhu cầu trong nước. Ðiểm nghẽn chủ yếu của CNHT ngành dệt may là công nghệ nhuộm vải cũng như công tác xử lý môi trường cho công nghệ này chưa được quan tâm đúng mức, đã hạn chế các doanh nghiệp đầu tư sản xuất dệt vải.
Hay đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân dưới 9 chỗ mới đạt 7 đến 10%, trong khi mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005 và 60% vào năm 2010. Ðáng chú ý là ngành điện tử cũng đang phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành điện tử tin học, viễn thông chỉ đạt 15%; điện tử chuyên dụng hay công nghiệp công nghệ cao là 5%. Tuy nhiên, hầu hết các linh kiện nội địa hóa lại đều do các công ty FDI cung cấp, còn doanh nghiệp Việt Nam chỉ chủ yếu cung cấp vật tư tiêu hao, bao bì, in ấn,… với giá trị rất nhỏ so với nhu cầu của thị trường.
Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh cho rằng nguyên nhân của tình trạng này một phần là do nguồn lực đầu tư cũng như sự hỗ trợ của Nhà nước cho các ngành công nghiệp ưu tiên, CNHT còn khiêm tốn, chưa đủ mạnh và hiệu quả, chưa tương xứng với quy mô và vai trò vốn có. Các chính sách phát triển CNHT còn chậm ban hành và thiếu đồng bộ, nhất quán mặc dù quan điểm của Ðảng, Nhà nước đã xác định rất rõ vai trò của ngành này trong phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng nhận định năng lực tổ chức sản xuất và công nghệ kỹ thuật của phần lớn doanh nghiệp CNHT trong nước rất yếu. Ðến nay, các doanh nghiệp nội địa mới chỉ cung ứng khoảng 10% nhu cầu trong nước về sản phẩm CNHT. Việc phần lớn linh kiện và phụ tùng phải nhập khẩu đã làm cho giá trị gia tăng tạo ra do ngành công nghiệp chế biến – chế tạo của Việt Nam rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Mặc dù chiếm đến gần 90% doanh thu thuần sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, nhưng năm 2017, công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ đóng góp gần 15% GDP so với mức hơn 20% của phần lớn các quốc gia trong ASEAN và khu vực Ðông Á.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Báo cáo tại Hội nghị về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT Việt Nam cho thấy, từ năm 1949, Nhật Bản đã ban hành Luật về hợp tác với doanh nghiệp nhằm xúc tiến các hoạt động “thầu phụ”, cũng chính là hoạt động sản xuất CNHT. Trong những năm tiếp theo, Nhật Bản tiếp tục ban hành hàng loạt bộ luật cũng như danh sách những sản phẩm được ưu tiên hỗ trợ rất chi tiết và cụ thể, trong đó chú trọng đến CNHT. Ðến nay, nước này đã có hàng triệu doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chỉ có quy mô dưới 50 người, nhưng tham gia rất sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, thậm chí các ngành công nghệ cao như hàng không, vũ trụ.
Ma-lai-xi-a cũng bắt đầu áp dụng chính sách ưu đãi các ngành công nghiệp tiên phong từ năm 1958. Mặt khác, Ma-lai-xi-a rất nỗ lực trong việc phát triển và tăng cường kết nối công nghiệp giữa các doanh nghiệp lớn với các nhà cung cấp phụ kiện trong nước. Không những vậy, doanh nghiệp CNHT của nước này còn được hỗ trợ, ưu đãi thông qua các tổ chức, chương trình, dự án,… rất hiệu quả của Nhà nước. Nhờ đó, CNHT ở Ma-lai-xi-a đã phát triển mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực gia công, chế tạo linh kiện cơ khí và điện tử. Từ những thí dụ nêu trên, bài học kinh nghiệm mà Việt Nam cần rút ra là phải đánh giá đúng vai trò của CNHT trong phát triển kinh tế đất nước. Từ đó, có chính sách đồng bộ, kiên trì, dài hạn, đầu tư nguồn lực thích đáng nhằm gấp rút nâng cao năng lực của các doanh nghiệp CNHT thông qua các chương trình mục tiêu cụ thể.
Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, đã đến lúc cần xem xét, đánh giá khả năng xây dựng chính sách đặc thù để phát triển CNHT. Thêm nữa, do phần lớn các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, có trình độ hạn chế về nhiều mặt. Vì vậy, ngoài sự cố gắng của doanh nghiệp, cần sự hỗ trợ quyết liệt, đồng bộ và dài hạn của Nhà nước. Nhà nước phải đứng cạnh, đồng hành cùng doanh nghiệp để giúp họ nâng cao năng lực để đạt tới trình độ khu vực và toàn cầu trong quá trình phát triển.
Thực tế, trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng và dưới tác động cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nhiều hạn chế về chất lượng của nền kinh tế đang dần lộ diện. Vấn đề cấu trúc lại nền kinh tế, lựa chọn mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại các ngành công nghiệp,… đang trở nên cấp bách nhằm phát huy cao nhất lợi thế của Việt Nam, hướng tới phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực. Trong đó, vai trò của các ngành công nghiệp và nhất là CNHT được xác định là những trụ cột quan trọng nhất. Tuy nhiên, phát triển CNHT cần quá trình tích lũy kỹ năng quản lý và sản xuất lâu dài, không thể có bước nhảy vọt nếu không có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Nhà nước. Nhà nước cần có chủ trương nhất quán, dài hạn, phân bổ nguồn lực đủ lớn để hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến, chế tạo đạt tới trình độ khu vực và quốc tế.
Cùng với đó, về phía các doanh nghiệp, không thể chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước mà phải chủ động trong đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị và sản xuất để từng bước giành được chỗ đứng trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Ðây mới là những giải pháp căn cơ để bảo đảm sự phát triển ổn định của ngành CNHT, từ đó tạo nền tảng quan trọng giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững trong dài hạn…/.
Nhiều Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Ổn Định Sản Xuất, Kinh Doanh
Nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của năm 2020 có ý nghĩa quan trọng, vừa là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm 2016-2020, vừa là năm giữ vai trò tạo nền tảng cho phát triển kinh tế của cả giai đoạn 2021-2025. Tuy nhiên, trong bối cảnh chịu nhiều tác động từ dịch COVID-19, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2020 như kế hoạch tỉnh đã đặt ra là thách thức rất lớn… Vì vậy, tỉnh chỉ đạo các ngành, các địa phương tập trung thực hiện hiệu quả các giải pháp hỗ trợ theo chỉ đạo của Chính phủ để doanh nghiệp giảm bớt thiệt hại, nhanh chóng phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh, chung sức cùng địa phương đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
Đồng chí Trần Lê Đoài, TUV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh kiểm tra tình hình sản xuất của Công ty TNHH Hệ thống dây dẫn Sumi Việt Nam (KCN Bảo Minh).
Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng giảm sút, Sở Công Thương đã tập trung theo dõi sát diễn biến thị trường, để hướng dẫn các doanh nghiệp chủ động phương án ổn định, phát triển sản xuất, xây dựng kế hoạch cụ thể sau khi chấm dứt dịch bệnh, đặc biệt phải lường trước tình huống hàng hóa nước ngoài tồn đọng do dịch bệnh COVID-19 ồ ạt tràn vào với giá thấp. Sở Công Thương tập trung thực hiện các biện pháp mang tính cấp bách là thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa. Theo dõi sát nhu cầu tiêu dùng của người dân, kiểm soát giá cả các mặt hàng có thể mất cân đối cung cầu trong ngắn hạn, để kịp thời có giải pháp điều hành, bình ổn thị trường. Hỗ trợ các hiệp hội, tổ chức doanh nghiệp nâng cao năng lực, chất lượng liên kết từ sản xuất đến phân phối, tiêu thụ để có chiến lược, kế hoạch giải phóng kịp thời hàng hóa, đặc biệt là các sản phẩm hàng hóa có lượng tồn kho lớn, sản phẩm nông nghiệp chính vụ. Mới đây, Sở Công Thương đã phối hợp với Trung tâm phát triển thương mại điện tử, Cục Thương mại điện tử và kinh tế số (Bộ Công Thương) tổ chức hướng dẫn trực tuyến cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh sử dụng sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh thông qua phần mềm chúng tôi Sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh được kết nối với Sàn giao dịch điện tử của tất cả các tỉnh trong cả nước, do đó giúp người tiêu dùng cũng dễ dàng tìm hiểu thông tin về sản phẩm khi cần; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận cơ hội sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm không chỉ trong tỉnh, mà trong phạm vi cả nước một cách dễ dàng và thuận tiện hơn, nắm bắt cơ hội sản xuất, kinh doanh nhanh chóng, kịp thời, chính xác, khách quan, tiết kiệm chi phí quản lý và theo dõi thông tin được thuận tiện, không bị rào cản bởi thời gian và không gian…
Bên cạnh đó, Sở Công Thương tập trung nắm thông tin về thực tế ảnh hưởng của dịch bệnh và diễn biến tình hình nhập khẩu của các nước để hướng dẫn doanh nghiệp ổn định sản xuất, sẵn sàng đẩy mạnh xuất khẩu khi tình hình dịch bệnh ở các nước được kiểm soát tốt hơn. Khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh khai thác, phát triển các thị trường xuất khẩu mới để kịp thời thay thế, bổ sung các thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn bởi tác động của dịch bệnh COVID-19; tập trung vào các thị trường có sự kiểm soát tốt dịch bệnh. Đồng thời, hướng dẫn các doanh nghiệp cần tận dụng tốt cơ hội của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã và sắp thực thi như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu để gia tăng xuất khẩu, gia tăng thu hút vốn FDI, nhằm bù đắp thiệt hại do ảnh hưởng của dịch COVID-19./.
Bài và ảnh: Thanh Thúy
Cập nhật thông tin chi tiết về Các Công Cụ Hỗ Trợ Hoạch Định trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!