Bạn đang xem bài viết Bình Bài Thơ “Tình Ca Ban Mai” Của Chế Lan Viên được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bình bài thơ “TÌNH CA BAN MAI” CỦA CHẾ LAN VIÊN Chế Lan Viên không làm nhiều thơ tình nên Tình ca ban mai là trường hợp đặc biệt hiếm hoi. Đúng theo cái bản chất coi trọng chất lượng chứ không coi trọng số lượng. Đây là một bài thơ tình đặc sắc, không chỉ so với chính các sáng tác của ông mà còn so với các sáng tác về tình yêu của các nhà thơ khác. Bài thơ hay vì nhiều yếu tố như: cấu tứ, mạch cảm xúc, hệ thống tín hiệu “Em đi như chiều đi Gọi chim vườn bay hết. Em về tựa mai về Rừng non xanh lộc biếc Em ở trời trưa ở Nắng sáng màu xanh tre Tình em như sao khuya Rãi hạt vàng chi chít Sợ gì chim bay đi Mang bóng chiều đi hết Tình ta như lộc biếc Gọi ban mai lại về. Dù nắng trưa không ở Ta vẫn còn sao khuya Hạnh phúc trên đầu ta Mọc sao vàng chi chít mai, hoa em lại về”. Xét về mặt cấu trúc, bài thơ như chuỗi hạt ngọc với lối ghép đôi và những khoảng giãn cách đăng đối. Điều này khiến cho hình thức của bài thơ trở nên hài hòa và dễ thương như một tặng vật của tình yêu. Nó dễ dàng thể hiện được cái cảm xúc của bài thơ là đề cao tới mức gần như tuyệt đối vai trò của người con gái trong đời sống tinh thần của nhân vật trữ tình. Em là có tất cả và em đi rồi, tất cả hư vô “Em đi như chiều đi Gọi chim vườn bay hết”. “Em đi” là cái cụ thể. “Chiều đi” là cái trừu tượng. Lấy cái trừu tượng để diễn tả cái cụ thể là một tín hiệu ngược. Thường thì người ta nói “chiều đi” như “em đi”. Buổi chiều đi, tức là sang đêm, mang theo bầy chim trong vườn bay hết. Vậy trong vườn còn lại gì? Chỉ còn lại đêm tối. Không còn âm thanh (tiếng chim), không có màu sắc. Cuộc sống như vậy thì tẻ ngắt, u tối. Đó là vì “em đi”. Hai câu thơ đầu gợi âm điệu như một nguồn ánh sáng vụt tắt. Cặp hình ảnh ghép đôi, cũng là tín hiệu tình yêu đầu tiên hiện lên bất ngờ, đẹp lung linh nhưng chính nó tạo ra một vấn đề lớn cho tư duy. Hình ảnh so sánh “Em đi như chiều đi” và “Gọi chim vườn bay hết” gắn bó chặt chẽ với nhau như “anh và em sẽ chết nếu quanh mình là khoảng trống hư vô” lại được dùng để diễn tả chính sự cô đơn, thiếu hụt, sự vô nghĩa của cuộc đời anh khi không có em giống như cách mà Nguyễn Tuân dùng nước để tả lửa và dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Được giãn cách bằng một khoảng trắng như để ngừng nghỉ sau một chặng tư duy và lấy lại phương hướng để tiếp tục cuộc hành trình đến ngọn nguồn của tình yêu, hai câu tiếp ánh sáng bừng lên khi ban “mai về”: “Em về tựa mai về Rừng non xanh lộc biếc” Em ra đi, tất cả chỉ còn lại đêm tối, cô đơn và lạnh lẽo như chìm trong địa ngục thì ngược em về, bình minh kỳ diệu cũng theo về. “Rừng non xanh” thảng thốt giật mình sau cơn dị mộng chia ly bỗng bừng lên sức sống bằng triệu triệu “lộc biếc”. Tình yêu như một vị linh dược có khả năng hồi sinh tất cả, hồi sinh cả những thứ tưởng như đã chết Mỗi cặp câu như hai mảnh ván ghép thành một nhịp cầu đến với yêu thương, đi qua nhịp cầu ấy cũng lắm gian nan và biết bao thử thách còn ở phía trước. Em ra đi, em quay về và biết em có ở lại mãi hay không? “Hỏi thế gian tình là gì” mà có thể mang đến cho người ta bao điều kỳ diệu và cũng gây cho người ta bao đau đớn, lo âu? “Em ở, trời trưa ở Nắng sáng màu xanh che” Tình em như sao khuya Rãi hạt vàng chi chít Sợ gì chim bay đi Mang bóng chiều đi hết” Bài thơ, có cấu tứ đều đặn nhưng lại diễn tả mạch cảm xúc liên tục tăng tiến. Em ở bên anh thì cuộc đời anh sẽ yên ổn, dịu mát như mỗi buổi trưa nắng được chở che bởi tán lá xanh. Có lá xanh che, nắng sẽ dịu, anh sẽ thấy mát. Ở trên, tác giả đã nói đến buổi chiều – buổi chiều phải sống trong sự vô nghĩa bởi “em đi” mang theo bầy chim, rồi nói buổi ban mai khi “em về” thì đời anh lại bừng lên, tràn sức sống. Chàng trai đề cao vai trò của cô gái trong đời sống tinh thần của mình đến nỗi miêu tả tình yêu của nàng đẹp ngoạn mục, huyền diệu như những ngôi sao khuya trên bầu trời, tựa hồ muôn hạt vàng được rắc xuống trần gian. Tình yêu đích thực bao giờ cũng lạc quan, tràn đầy niềm tin cho dù người trong cuộc có thể buồn, nhớ, giận hờn, thậm chí có lúc tưởng như bế tắc, tuyệt vọng do hiểu lầm nhau. Bởi vì bản chất của tình yêu là luôn hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất. Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên xây dựng tứ thơ tình gắn với thời gian buổi sáng, lúc ban mai. Và tên bài thơ là Tình ca ban mai, âm hưởng toàn bài toát lên vẻ sáng sủa, quang đãng, long lanh, rực rỡ của nắng, của màu xanh, của lộc biếc – toàn những hình ảnh chứa chan sức sống. Có lẽ mọi hy vọng tốt đẹp nhất của hai người trong cuộc được dồn vào hai câu thơ có thể coi như đỉnh điểm của toàn bài: “Tình ta như lộc biếc Gọi ban mai lại về” Và cuối cùng, tác giả kết bài bằng một câu buông lửng: “Mai, hoa em lại về” Cả bài chẳng hề nói gì đến hoa mà cuối cùng lại nhắn gửi như vậy có chút gì đó rất riêng tây, “bí mật” của nhà thơ chăng? Em tên là Mai, là Hoa – thật cụ thể – một cô gái nào đó ngoài đời bước vào thơ của thi sĩ chăng? Có thể lắm. Và cũng có thể không phải. Chỉ là một chút mập mờ, úp mở cho có vẻ hư hư, thực thực, gây sự chú ý cuối cùng cho người đọc lúc khép lại bài thơ. Tất cả những điều đó không quan trọng. Chỉ biết bài thơ mở ra rất nhiều hướng cảm nhận về tình yêu. PHH sưu tầm & chỉnh lí – 8 - 2023 NGUỒN: TÀI HOA TRẺCấu Trúc “Nhịp Cầu” Trong “Tình Ca Ban Mai” Của Chếlanviên
Bản chất của văn chương là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Chế Lan Viên là một trường hợp như thế, ông không làm nhiều thơ tình nên Tình ca ban mai là trường hợp đặc biệt hiếm hoi. Đúng theo cái bản chất coi trọng chất lượng chứ không coi trọng số lượng. Đây là một bài thơ tình đặc sắc, không chỉ so với chính các sáng tác của ông mà còn so với các sáng tác về tình yêu của các nhà thơ khác. Bài thơ hay vì nhiều yếu tố như: cấu tứ, mạch cảm xúc, hệ thống tín hiệu…
Xét về mặt cấu trúc, bài thơ như chuỗi hạt ngọc với lối ghép đôi và những khoảng giãn cách đăng đối. Điều này khiến cho hình thức của bài thơ trở nên hài hòa và dễ thương như một tặng vật của tình yêu. Nó dễ dàng thể hiện được cái cảm xúc của bài thơ là đề cao tới mức gần như tuyệt đối vai trò của người con gái trong đời sống tinh thần của nhân vật trữ tình. Em là có tất cả và em đi rồi, tất cả hư vô…
“Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết”.
“Em đi” là cái cụ thể. “Chiều đi” là cái trừu tượng. Lấy cái trừu tượng để diễn tả cái cụ thể là một tín hiệu ngược. Thường thì người ta nói “chiều đi” như “em đi”. Buổi chiều đi, tức là sang đêm, mang theo bầy chim trong vườn bay hết. Vậy trong vườn còn lại gì? Chỉ còn lại đêm tối. Không còn âm thanh (tiếng chim), không có màu sắc. Cuộc sống như vậy thì tẻ ngắt, u tối. Đó là vì “em đi”. Hai câu thơ đầu gợi âm điệu như một nguồn ánh sáng vụt tắt.
Cặp hình ảnh ghép đôi, cũng là tín hiệu tình yêu đầu tiên hiện lên bất ngờ, đẹp lung linh nhưng chính nó tạo ra một vấn đề lớn cho tư duy. Hình ảnh so sánh “Em đi như chiều đi” và “Gọi chim vườn bay hết” gắn bó chặt chẽ với nhau như “anh và em sẽ chết nếu quanh mình là khoảng trống hư vô” lại được dùng để diễn tả chính sự cô đơn, thiếu hụt, sự vô nghĩa của cuộc đời anh khi không có em giống như cách mà Nguyễn Tuân dùng nước để tả lửa và dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Được giãn cách bằng một khoảng trắng như để ngừng nghỉ sau một chặng tư duy và lấy lại phương hướng để tiếp tục cuộc hành trình đến ngọn nguồn của tình yêu, hai câu tiếp ánh sáng bừng lên khi ban “mai về”:
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc”
Em ra đi, tất cả chỉ còn lại đêm tối, cô đơn và lạnh lẽo như chìm trong địa ngục thì ngược em về, bình minh kỳ diệu cũng theo về. “Rừng non xanh” thảng thốt giật mình sau cơn dị mộng chia ly bỗng bừng lên sức sống bằng triệu triệu “lộc biếc”. Tình yêu như một vị linh dược có khả năng hồi sinh tất cả, hồi sinh cả những thứ tưởng như đã chết… Mỗi cặp câu như hai mảnh ván ghép thành một nhịp cầu đến với yêu thương, đi qua nhịp cầu ấy cũng lắm gian nan và biết bao thử thách còn ở phía trước. Em ra đi, em quay về và biết em có ở lại mãi hay không? “Hỏi thế gian tình là gì” mà có thể mang đến cho người ta bao điều kỳ diệu và cũng gây cho người ta bao đau đớn, lo âu?
Em ở, trời trưa ở
Nắng sáng màu xanh che”
Tình em như sao khuya
Rãi hạt vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi
Mang bóng chiều đi hết”
Bài thơ, có cấu tứ đều đặn nhưng lại diễn tả mạch cảm xúc liên tục tăng tiến. Em ở bên anh thì cuộc đời anh sẽ yên ổn, dịu mát như mỗi buổi trưa nắng được chở che bởi tán lá xanh. Có lá xanh che, nắng sẽ dịu, anh sẽ thấy mát. Ở trên, tác giả đã nói đến buổi chiều – buổi chiều phải sống trong sự vô nghĩa bởi “em đi” mang theo bầy chim, rồi nói buổi ban mai khi “em về” thì đời anh lại bừng lên, tràn sức sống. Chàng trai đề cao vai trò của cô gái trong đời sống tinh thần của mình đến nỗi miêu tả tình yêu của nàng đẹp ngoạn mục, huyền diệu như những ngôi sao khuya trên bầu trời, tựa hồ muôn hạt vàng được rắc xuống trần gian.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng lạc quan, tràn đầy niềm tin cho dù người trong cuộc có thể buồn, nhớ, giận hờn, thậm chí có lúc tưởng như bế tắc, tuyệt vọng do hiểu lầm nhau. Bởi vì bản chất của tình yêu là luôn hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất. Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên xây dựng tứ thơ tình gắn với thời gian buổi sáng, lúc ban mai. Và tên bài thơ là Tình ca ban mai, âm hưởng toàn bài toát lên vẻ sáng sủa, quang đãng, long lanh, rực rỡ của nắng, của màu xanh, của lộc biếc – toàn những hình ảnh chứa chan sức sống. Có lẽ mọi hy vọng tốt đẹp nhất của hai người trong cuộc được dồn vào hai câu thơ có thể coi như đỉnh điểm của toàn bài:
“Tình ta như lộc biếc
Gọi ban mai lại về”
Và cuối cùng, tác giả kết bài bằng một câu buông lửng: “Mai, hoa em lại về”… Cả bài chẳng hề nói gì đến hoa mà cuối cùng lại nhắn gửi như vậy có chút gì đó rất riêng tây, “bí mật” của nhà thơ chăng? Em tên là Mai, là Hoa – thật cụ thể – một cô gái nào đó ngoài đời bước vào thơ của thi sĩ chăng? Có thể lắm. Và cũng có thể không phải. Chỉ là một chút mập mờ, úp mở cho có vẻ hư hư, thực thực, gây sự chú ý cuối cùng cho người đọc lúc khép lại bài thơ. Tất cả những điều đó không quan trọng. Chỉ biết bài thơ mở ra rất nhiều hướng cảm nhận về tình yêu.
Tác giả bài viết: Nguyễn Thanh Tuấn
Nguồn tin: Tài hoa Trẻ
Cấu Trúc “Nhịp Cầu” Trong “Tình Ca Ban Mai” Của Chế Lan Viên
Bản chất của văn chương là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Chế Lan Viên là một trường hợp như thế, ông không làm nhiều thơ tình nên Tình ca ban mai là trường hợp đặc biệt hiếm hoi. Đúng theo cái bản chất coi trọng chất lượng chứ không coi trọng số lượng. Đây là một bài thơ tình đặc sắc, không chỉ so với chính các sáng tác của ông mà còn so với các sáng tác về tình yêu của các nhà thơ khác. Bài thơ hay vì nhiều yếu tố như: cấu tứ, mạch cảm xúc, hệ thống tín hiệu…
“Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết.
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc
Em ở trời trưa ở
Nắng sáng màu xanh che
Tình em như sao khuya
Rãi hạt vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi
Mang bóng chiều đi hết
Tình ta như lộc biếc
Gọi ban mai lại về.
Dù nắng trưa không ở
Ta vẫn còn sao khuya
Hạnh phúc trên đầu ta
Mọc sao vàng chi chít
mai, hoa em lại về”.
Xét về mặt cấu trúc, bài thơ như chuỗi hạt ngọc với lối ghép đôi và những khoảng giãn cách đăng đối. Điều này khiến cho hình thức của bài thơ trở nên hài hòa và dễ thương như một tặng vật của tình yêu. Nó dễ dàng thể hiện được cái cảm xúc của bài thơ là đề cao tới mức gần như tuyệt đối vai trò của người con gái trong đời sống tinh thần của nhân vật trữ tình. Em là có tất cả và em đi rồi, tất cả hư vô…
“Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết”.
“Em đi” là cái cụ thể. “Chiều đi” là cái trừu tượng. Lấy cái trừu tượng để diễn tả cái cụ thể là một tín hiệu ngược. Thường thì người ta nói “chiều đi” như “em đi”. Buổi chiều đi, tức là sang đêm, mang theo bầy chim trong vườn bay hết. Vậy trong vườn còn lại gì? Chỉ còn lại đêm tối. Không còn âm thanh (tiếng chim), không có màu sắc. Cuộc sống như vậy thì tẻ ngắt, u tối. Đó là vì “em đi”. Hai câu thơ đầu gợi âm điệu như một nguồn ánh sáng vụt tắt.
Cặp hình ảnh ghép đôi, cũng là tín hiệu tình yêu đầu tiên hiện lên bất ngờ, đẹp lung linh nhưng chính nó tạo ra một vấn đề lớn cho tư duy. Hình ảnh so sánh “Em đi như chiều đi” và “Gọi chim vườn bay hết” gắn bó chặt chẽ với nhau như “anh và em sẽ chết nếu quanh mình là khoảng trống hư vô” lại được dùng để diễn tả chính sự cô đơn, thiếu hụt, sự vô nghĩa của cuộc đời anh khi không có em giống như cách mà Nguyễn Tuân dùng nước để tả lửa và dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Được giãn cách bằng một khoảng trắng như để ngừng nghỉ sau một chặng tư duy và lấy lại phương hướng để tiếp tục cuộc hành trình đến ngọn nguồn của tình yêu, hai câu tiếp ánh sáng bừng lên khi ban “mai về”:
“Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc”
Em ra đi, tất cả chỉ còn lại đêm tối, cô đơn và lạnh lẽo như chìm trong địa ngục thì ngược em về, bình minh kỳ diệu cũng theo về. “Rừng non xanh” thảng thốt giật mình sau cơn dị mộng chia ly bỗng bừng lên sức sống bằng triệu triệu “lộc biếc”. Tình yêu như một vị linh dược có khả năng hồi sinh tất cả, hồi sinh cả những thứ tưởng như đã chết… Mỗi cặp câu như hai mảnh ván ghép thành một nhịp cầu đến với yêu thương, đi qua nhịp cầu ấy cũng lắm gian nan và biết bao thử thách còn ở phía trước. Em ra đi, em quay về và biết em có ở lại mãi hay không? “Hỏi thế gian tình là gì” mà có thể mang đến cho người ta bao điều kỳ diệu và cũng gây cho người ta bao đau đớn, lo âu?
“Em ở, trời trưa ở
Nắng sáng màu xanh che
Tình em như sao khuya
Rãi hạt vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi
Mang bóng chiều đi hết”
Bài thơ, có cấu tứ đều đặn nhưng lại diễn tả mạch cảm xúc liên tục tăng tiến. Em ở bên anh thì cuộc đời anh sẽ yên ổn, dịu mát như mỗi buổi trưa nắng được chở che bởi tán lá xanh. Có lá xanh che, nắng sẽ dịu, anh sẽ thấy mát. Ở trên, tác giả đã nói đến buổi chiều – buổi chiều phải sống trong sự vô nghĩa bởi “em đi” mang theo bầy chim, rồi nói buổi ban mai khi “em về” thì đời anh lại bừng lên, tràn sức sống. Chàng trai đề cao vai trò của cô gái trong đời sống tinh thần của mình đến nỗi miêu tả tình yêu của nàng đẹp ngoạn mục, huyền diệu như những ngôi sao khuya trên bầu trời, tựa hồ muôn hạt vàng được rắc xuống trần gian.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng lạc quan, tràn đầy niềm tin cho dù người trong cuộc có thể buồn, nhớ, giận hờn, thậm chí có lúc tưởng như bế tắc, tuyệt vọng do hiểu lầm nhau. Bởi vì bản chất của tình yêu là luôn hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất. Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên xây dựng tứ thơ tình gắn với thời gian buổi sáng, lúc ban mai. Và tên bài thơ là Tình ca ban mai, âm hưởng toàn bài toát lên vẻ sáng sủa, quang đãng, long lanh, rực rỡ của nắng, của màu xanh, của lộc biếc – toàn những hình ảnh chứa chan sức sống. Có lẽ mọi hy vọng tốt đẹp nhất của hai người trong cuộc được dồn vào hai câu thơ có thể coi như đỉnh điểm của toàn bài:
“Tình ta như lộc biếc
Gọi ban mai lại về”
Và cuối cùng, tác giả kết bài bằng một câu buông lửng: “Mai, hoa em lại về”… Cả bài chẳng hề nói gì đến hoa mà cuối cùng lại nhắn gửi như vậy có chút gì đó rất riêng tây, “bí mật” của nhà thơ chăng? Em tên là Mai, là Hoa – thật cụ thể – một cô gái nào đó ngoài đời bước vào thơ của thi sĩ chăng? Có thể lắm. Và cũng có thể không phải. Chỉ là một chút mập mờ, úp mở cho có vẻ hư hư, thực thực, gây sự chú ý cuối cùng cho người đọc lúc khép lại bài thơ. Tất cả những điều đó không quan trọng. Chỉ biết bài thơ mở ra rất nhiều hướng cảm nhận về tình yêu.
Nguồn: Tài hoa Trẻ
Cấu Trúc “Nhịp Cầu” Trong Tình Ca Ban Mai Của Chế Lan Viên
Cấu trúc “Nhịp cầu” trong
tình ca ban mai của Chế Lan Viên
Bản chất của văn chương là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Chế Lan Viên là một trường hợp như thế, ông không làm nhiều thơ tình nên Tình ca ban mai là trường hợp đặc biệt hiếm hoi. Đúng theo cái bản chất coi trọng chất lượng chứ không coi trọng số lượng. Đây là một bài thơ tình đặc sắc, không chỉ so với chính các sáng tác của ông mà còn so với các sáng tác về tình yêu của các nhà thơ khác. Bài thơ hay vì nhiều yếu tố như: cấu tứ, mạch cảm xúc, hệ thống tín hiệu…
Gọi chim vườn bay hết.
Xét về mặt cấu trúc, bài thơ như chuỗi hạt ngọc với lối ghép đôi và những khoảng giãn cách đăng đối. Điều này khiến cho hình thức của bài thơ trở nên hài hòa và dễ thương như một tặng vật của tình yêu. Nó dễ dàng thể hiện được cái cảm xúc của bài thơ là đề cao tới mức gần như tuyệt đối vai trò của người con gái trong đời sống tinh thần của nhân vật trữ tình. Em là có tất cả và em đi rồi, tất cả hư vô…
“Em đi” là cái cụ thể. “Chiều đi” là cái trừu tượng. Lấy cái trừu tượng để diễn tả cái cụ thể là một tín hiệu ngược. Thường thì người ta nói “chiều đi” như “em đi”. Buổi chiều đi, tức là sang đêm, mang theo bầy chim trong vườn bay hết. Vậy trong vườn còn lại gì? Chỉ còn lại đêm tối. Không còn âm thanh (tiếng chim), không có màu sắc. Cuộc sống như vậy thì tẻ ngắt, u tối. Đó là vì “em đi”. Hai câu thơ đầu gợi âm điệu như một nguồn ánh sáng vụt tắt.
Cặp hình ảnh ghép đôi, cũng là tín hiệu tình yêu đầu tiên hiện lên bất ngờ, đẹp lung linh nhưng chính nó tạo ra một vấn đề lớn cho tư duy. Hình ảnh so sánh “Em đi như chiều đi” và “Gọi chim vườn bay hết” gắn bó chặt chẽ với nhau như ” anh và em sẽ chết nếu quanh mình là khoảng trống hư vô” lại được dùng để diễn tả chính sự cô đơn, thiếu hụt, sự vô nghĩa của cuộc đời anh khi không có em giống như cách mà Nguyễn Tuân dùng nước để tả lửa và dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Được giãn cách bằng một khoảng trắng như để ngừng nghỉ sau một chặng tư duy và lấy lại phương hướng để tiếp tục cuộc hành trình đến ngọn nguồn của tình yêu, hai câu tiếp ánh sáng bừng lên khi ban “mai về”:
Em ra đi, tất cả chỉ còn lại đêm tối, cô đơn và lạnh lẽo như chìm trong địa ngục thì ngược em về, bình minh kỳ diệu cũng theo về. ” Rừng non xanh” thảng thốt giật mình sau cơn dị mộng chia ly bỗng bừng lên sức sống bằng triệu triệu “lộc biếc”. Tình yêu như một vị linh dược có khả năng hồi sinh tất cả, hồi sinh cả những thứ tưởng như đã chết… Mỗi cặp câu như hai mảnh ván ghép thành một nhịp cầu đến với yêu thương, đi qua nhịp cầu ấy cũng lắm gian nan và biết bao thử thách còn ở phía trước. Em ra đi, em quay về và biết em có ở lại mãi hay không? ” Hỏi thế gian tình là gì ” mà có thể mang đến cho người ta bao điều kỳ diệu và cũng gây cho người ta bao đau đớn, lo âu?
“Em ở, trời trưa ở
Bài thơ, có cấu tứ đều đặn nhưng lại diễn tả mạch cảm xúc liên tục tăng tiến. Em ở bên anh thì cuộc đời anh sẽ yên ổn, dịu mát như mỗi buổi trưa nắng được chở che bởi tán lá xanh. Có lá xanh che, nắng sẽ dịu, anh sẽ thấy mát. Ở trên, tác giả đã nói đến buổi chiều – buổi chiều phải sống trong sự vô nghĩa bởi ” em đi” mang theo bầy chim, rồi nói buổi ban mai khi ” em về ” thì đời anh lại bừng lên, tràn sức sống. Chàng trai đề cao vai trò của cô gái trong đời sống tinh thần của mình đến nỗi miêu tả tình yêu của nàng đẹp ngoạn mục, huyền diệu như những ngôi sao khuya trên bầu trời, tựa hồ muôn hạt vàng được rắc xuống trần gian.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng lạc quan, tràn đầy niềm tin cho dù người trong cuộc có thể buồn, nhớ, giận hờn, thậm chí có lúc tưởng như bế tắc, tuyệt vọng do hiểu lầm nhau. Bởi vì bản chất của tình yêu là luôn hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất. Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên xây dựng tứ thơ tình gắn với thời gian buổi sáng, lúc ban mai. Và tên bài thơ là Tình ca ban mai, âm hưởng toàn bài toát lên vẻ sáng sủa, quang đãng, long lanh, rực rỡ của nắng, của màu xanh, của lộc biếc – toàn những hình ảnh chứa chan sức sống. Có lẽ mọi hy vọng tốt đẹp nhất của hai người trong cuộc được dồn vào hai câu thơ có thể coi như đỉnh điểm của toàn bài:
Và cuối cùng, tác giả kết bài bằng một câu buông lửng: “Mai, hoa em lại về”… Cả bài chẳng hề nói gì đến hoa mà cuối cùng lại nhắn gửi như vậy có chút gì đó rất riêng tây, “bí mật” của nhà thơ chăng? Em tên là Mai, là Hoa – thật cụ thể – một cô gái nào đó ngoài đời bước vào thơ của thi sĩ chăng? Có thể lắm. Và cũng có thể không phải. Chỉ là một chút mập mờ, úp mở cho có vẻ hư hư, thực thực, gây sự chú ý cuối cùng cho người đọc lúc khép lại bài thơ. Tất cả những điều đó không quan trọng. Chỉ biết bài thơ mở ra rất nhiều hướng cảm nhận về tình yêu.
Thơ Tình Chế Lan Viên
VHSG- Lâu nay, khi nói hay viết về Chế Lan Viên, người ta thường chỉ biết Chế Lan Viên, một nhà thơ chính luận, thiên về triết lý, triết luận. Điều đó đúng, song, chưa đủ.
Chính vì thế, một lần, khi trả lời phỏng vấn của giáo sư văn học Đức, Gunter Giezenfild, Chế Lan Viên nói:
“Khi đã làm thơ thì không phải chỉ làm thơ chính trị (poème revolutionnaire) mà cả thơ tình (poème d’amour). Tiếp đến, ông còn nhấn mạnh: “Thơ tình, thơ về hoa, về cuộc đời bình thường rất cần thiết. Cần núi cao (haute montagne) của chủ nghĩa anh hùng (heroisme) nhưng cần các đồng bằng (plaine) của đời sống hằng ngày (quotidienne)”.
Chế Lan Viên ý thức về mảng thơ đời thường. Trong bài “Thơ bình phương-Đời lập phương”, nhà thơ viết: “Thơ ra đời ở thung lũng tình yêu, ở vịnh biệt ly, ở đỉnh suy tư, khúc eo tưởng nhớ”. Hóa ra, thơ đi ra từ những những vịnh, những eo, những thung lũng, những đỉnh như vậy
Thơ tình Chế Lan Viên không giống thơ tình của Xuân Diệu. Tình yêu ở đây không có hò hẹn, không có “ngó trên tay điếu thuốc cháy lụi dần” của Hồ Dzếnh, không có kiểu “gặp em thơ thẩn bên vườn hạnh / hỏi mãi mà em chẳng trả lời” của Thái Can, lại càng không có kiểu yêu đương như các nhà thơ trẻ hiện đại. Thơ tình Chế Lan Viên có chút gì đó vừa của ca dao, của Nguyễn Trãi, vừa của Trần Tế Xương, của Tản Đà,… Thơ tình Chế Lan Viên làm nên một thế giới nghệ thuật riêng, trong đó thời gian và không gian được cá thể hóa, vĩnh cửu hóa, gắn với chủ thể trữ tình trong từng bài thơ.
Tình ca ban mai, bài thơ nằm trong tập Ánh sáng và phù sa, có 14 câu, viết theo thể thơ 5 chữ, lấy các thời khắc của một ngày để nói nỗi thương nhớ của mình, lấy cái cụ thể (em) để nêu lên cái trừu tượng (thời gian), rồi phả lên đó những cung bậc của tình yêu. Nhà thơ so sánh em với chiều (Em đi, như chiều đi), với mai (Em về, tựa mai về), với trưa (Em ở, trời trưa ở), với khuya (Tình em như sao khuya). Nghĩa là, có em là có tất cả, thiếu em là thiếu tất cả. Bài thơ trong trẻo, có ánh sáng của ban mai, có màu xanh của lộc nỏn, có màu vàng của nắng trưa, có hạt vàng của trăng khuya. Bài thơ kết thúc bằng một hình tượng được nhân cách hóa : Mai, hoa em lại về. Cả bài thơ không nói gì đến hoa, chỉ đến cuối bài mới nói đến. Lại một kiểu tư duy của Đường thi “nhân diện đào hoa tương ánh hồng”. Tình yêu đã mang lại sự huyền diệu, tựa hồ như hạt vàng rải xuống thế gian : Tình em như sao khuya/ Rải hạt vàng chi chít , để rồi Tình ta như lộc biếc/ Gọi ban mai lại về. Bài thơ có tên “Tình ca ban mai” là như vậy.
Trong thơ Chế Lan Viên, có một hình ảnh thường xuyên xuất hiện, đó là “bể”. Cũng có thể nói, “bể” trở thành một không gian nghệ thuật riêng biệt, chỉ thấy ở Chế Lan Viên. Hình tượng này đa nghĩa. Đó là:
Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu qua còn để tâm hồn nằm đọng lại Sóng như hàng nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi không trở lại làm trời Nếu núi là con trai, thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương đã biến thành con gái Bể đổi thay như lòng ta thay mùa, thay cảm xúc Lật từng trang mây nước lạ lòng ta
(Cành phong lan bể)
Bể nghìn đời mà mãi mãi thanh tân…
(Bể và Người)
Những người xa quê hương Sao phải nằm cạnh bể.
(Nghe sóng)
Những năm đầu 1960 là thời điểm của sự phục hưng nơi tâm hồn Chế Lan Viên. Nhà thơ viết nhiều bài thơ về tình yêu như Nhớ, Trời đã lạnh rồi, Nhớ em nơi huyện nhỏ, Hoa những ngày thường, Quả vải vào mùa, Cây dẫn về em, trong đó có Chùm nhỏ thơ yêu. Tác giả gọi là chùm nhưng chỉ có 8 câu, viết vào tháng 8-1962:
Anh cách em như đất liền xa cách bể Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em Em thân thuộc sao thành xa lạ thế Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm
Anh không ngủ. Phải vì em đang nhớ Một trời sao rực cháy giữa đôi ta Em nhắm mắt cho lòng anh lặng gió Cho sao trời yên rụng một đêm hoa.
“Bể” và “đất liền” hai thực thể xa nhau, hai không gian cách vời, xa thẳm. Giữa hai không gian đó, có “anh”, “em” và nỗi nhớ. Hai phương trời xa lăng lắc, có một người “không ngủ” và một người “đang nhớ”, khiến “cho sao trời yên rụng một đêm hoa”.
Nhớ là bài thơ viết theo thể lục bát, xinh gọn. Sự chờ đợi bao giờ cũng dài, cũng đầy khát khao và ước vọng. Chỉ còn đêm nay thôi, sáng ra, là gặp nhau mà sao như một năm dài dằng dặc:
Sáng ra đã gặp em rồi
Còn đêm nay nữa sao dài bằng năm
Ước bay đến chỗ em nằm
Cùng chung đợi sáng, tay cầm trong tay.
Cách so sánh tựa hồ như Nguyễn Du đã từng nói, “ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Trong nhiều bài thơ lục bát của Chế Lan Viên, có bài Hoa tháng ba, nằm trong tập Đối thoại mới, nói được thật nhiều cảm xúc của tình yêu:
Tháng ba nở trắng hoa xoan
Sáng ra mặt đất lan tràn mùi hương
Không em, anh chẳng qua vườn
Sợ mùi hương… sợ mùi hương… nhắc mình.
Mùa xuân gắn liền với sự ra hoa của cây xoan. Xoan nở trắng cành, đầy hương. Hai câu đầu là thời – gian – hoa. Thời gian của tháng ba, thời gian của buổi sáng gắn liền với hương và hoa xoan. Hai câu sau gắn với không – gian – nỗi nhớ. Bài thơ có ba chủ thể : Hoa-Em-Anh. Giữa ba chủ thể là nỗi nhớ. Nỗi nhớ lại gắn với mùi hương. Chú ý cách sử dụng dấu ba chấm (…), nhịp lẻ 3/3/2, mới thấy tâm trạng của tác giả. Có chút gì đấy vừa bâng khuâng, thương nhớ, vừa ngọt ngào xa vắng, thoáng những ngùi thương, đánh đắm cảm xúc. Các câu thơ thật bình dị, sâu lắng. Bài thơ dịu dàng và tinh tế, được viết ra từ một trái tim tha thiết và nồng nàn trong tình yêu.
Chế Lan Viên có bài tứ tuyệt vào loại hay nhất trong thơ Việt hiện đại, bài Lòng anh làm bến thu:
Buổi sáng em xa chi Cho chiều, mùa thu đến Để lòng anh hóa bến Nghe thuyền em ra đi!
Nhiều tuyển tập thơ tình đã tuyển bài thơ này. Bài thơ cũng được chọn và đưa vào trong Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam (NXB Văn học, HN, 2000) của Nguyễn Vũ Tiềm. Đây là một trong những bài thơ ngũ ngôn đặc sắc, thường được nhắc đến của Chế Lan Viên. Tứ tuyệt Chế Lan Viên vừa mang hơi thở truyền thống vừa toát lên nét đẹp hiện đại, bát ngát cảm xúc và dồi dào suy tưởng, cái đẹp của đời thường quyện trong chiều sâu của triết học, câu chữ chân thật lại âm vang dằng dặc. Tác giả hóa thân thành một bến thu, nằm nghe chiếc thuyền – em, chầm chậm, rời bến. Thuyền đã đi. Bến ở lại. Ở lại với một mùa thu trống trải, cách vời nhung nhớ. Thời gian vật lý chỉ từ sáng sang chiều nhưng kéo theo sau nó là thời gian tâm trạng.
Bến và thuyền vốn là những hình ảnh quen thuộc trong ca dao cổ: Thuyền ơi, có nhớ bến chăng / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. Ở đây, mô típ thuyền – bến được vận dụng tài tình, sáng tạo bằng chiều sâu cảm nghĩ. Chế Lan Viên đã đổi mới ngôn ngữ, thổi vào đó những cung bậc tình yêu, đằm thắm, tinh tế. Cũng mô típ này, Nguyễn Bính từng có bốn câu thơ xuất sắc, có điều, chỉ khác về chủ thể của tình yêu:
Hôm qua dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu…cánh buồm nâu… cánh buồm.
Xưa nay vẫn thế. Tình yêu không thể tách khỏi thời gian và không gian. Tâm lý, tình cảm của con người tồn tại và đan xen trong hai thực thể đó. Chế Lan Viên cũng vậy. Có điều là, thời gian và không gian trong thơ tình Chế Lan Viên thường lấy cái khoảnh khắc để vĩnh cửu hóa tâm trạng. Từ một cơn gió mùa từ phương bắc thổi về, se lạnh đất trời khiến nhà thơ nghĩ về tình yêu đôi lứa. Từ vựng chỉ về số (hai lần/ lần trước/ lần sau) và sự lặp từ (gió mùa đông bắc/ gió mùa/ gió mùa đông) được sử dụng trong bài thơ đã vượt lên tính cụ thể, trở thành biểu tượng của nhớ thương:
Từ lúc em ra đi, hai lần gió mùa đông bắc thổi qua phòng
Lần trước lạnh vừa, lần sau lạnh gắt
Ở đất nước đánh giặc này, ta chỉ sợ gió mùa, không sợ giặc
Chỉ sợ lòng mình, ai sợ gió mùa đông
(Gió mùa đông bắc)
Một cảm nhận độc đáo, một so sánh tài tình giữa cơn gió mùa với sự chung thủy trong tình yêu: Không sợ gió mùa. Không sợ giặc. Chỉ sợ lòng mình.
Ở một bài thơ khác, bài Trận đánh, nhà thơ đã mô tả tâm hồn mình như chiến trận. Một cuộc chiến tâm tình không ngang sức. Cũng là lối so sánh đầy cá tính. Chỉ bốn câu:
Em ra đi, anh dọn lòng anh lại
Một mình anh, trận đánh chẳng cân bằng
Một mình anh chống với cả mùa mưa lũ
Với cả màu mây trắng, chỉ mình anh.
Nỗi cô đơn trong bài thơ như dài rộng, trăm mối. Một mình chống lại đất trời, lòng người. Một trận – đánh – tâm – hồn, chẳng cân bằng. Đúng như ai đó từng nói, “thiếu một là thiếu tất cả”. Ở một bài thơ khác, bài Mây của em:
Màu trắng là màu mây của em
Em đi muôn dặm thư về chậm
Chỉ lấy màu mây trắng nhắn tin.
Màu trắng của đám mây, trôi ngang qua khung trời nhung nhớ, đan xen những hình ảnh: mây trắng – em – nỗi nhớ, lồng vào nhau, gợi mãi không thôi. Hai phương trời chỉ một phong thư: mây trắng nhắn tin.
Trong tập Hái theo mùa, có một bài thơ tình xinh xắn, bài Tập qua hàng. Bài thơ pha trộn và đi giữa ngôn ngữ và tình yêu. Tình yêu khiến cho nhà thơ như bâng khuâng, ngập ngừng, khó nói trọn lời. Hãy xem diễn đạt của tác giả thì rõ. Một bài thơ bảy chữ, viết theo kiểu qua hàng của lối thơ vắt dòng, đúng âm vận và luật nhưng cũng có thể hiểu theo kiểu thơ tự do, thơ văn xuôi. Nỗi chờ đợi như kéo dài ra, khiến thời gian cũng nhuốm cả tâm tình tác giả. Khách thể hóa tâm trạng bằng những hình ảnh: nắng, cây, ngõ, bướm và choàng lên đó các cung bậc của mong, nhớ, chờ, làm cho toàn bộ bài thơ thành một không gian tâm tưởng của cô đơn, khắc tạc vào một ngày và chỉ một ngày nữa thôi:
Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ
trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây
cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm
cũng thêm màu trên cánh đang bay.
*
Thơ tình Chế Lan Viên đa dạng trong việc chọn thể loại và diễn đạt. Câu thơ có lúc thật ngắn, có lúc thật dài. Bài thơ có khi là lục bát, có khi là tứ tuyệt. Đặc biệt và tài hoa là khi sử dụng hình ảnh. Hình ảnh đa nghĩa, giàu suy tưởng. Thơ tình làm nên nét riêng trong thế giới nghệ thuật của Chế Lan Viên.
TS. HUỲNH VĂN HOA
Hình Ảnh Con Mẹ Trong Bài Thơ “Con Cò” (Chế Lan Viên) Và Bài Thơ “Mẹ Và Quả” (Trần Đăng Khoa)
Hình ảnh con mẹ trong bài thơ “Con cò” (Chế lan Viên) và bài thơ “Mẹ và quả” (Trần Đăng Khoa)
Nêu vấn đề: tình mẫu tử thiêng liêng là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Giới thiệu hai tác phẩm và tác giả: trích dẫn hai đoạn thơ.
Hoàn cảnh sáng tác, thể thơ, nội dung hai khổ thơ.
Thể thơ tự do
Nội dung của hai khổ thơ tập trung nói về công lao to lớn của mẹ.
Bằng tiếng nói cất lên từ trái tim mình, các tác giả thể hiện được tình cảm của người mẹ dành cho con vô cùng thiết tha, sâu nặng. Trong khúc hát ru hiện đại Con cò, Chế Lan Viên đã mở ra một không gian yên bình – mẹ đang ngồi hát ru con bằng lời ru có hình ảnh những cánh cò trắng. Đen cuối bài thơ, hình ảnh con cò mang dáng hình của người mẹ lại tiếp tục hiện ra rõ nét:
Điệp ngữ “dù ở” kết hợp với tính từ tương phản “gần”/ “xa”, và thành ngữ “lên rừng xuống biển”, nhà thơ đã khéo léo gợi trong người đọc bao suy tưởng. Cánh cò – tình mẹ dành cho con thách thức thời gian, không gian. Mai này, những đứa con trưởng thành, xa vòng tay mẹ, tung cánh muôn phương và lúc đó mẹ không thể giữ được con bên cạnh để hát ru như thời thơ bé. Nhưng, có một điều muôn đời không thay đổi, lòng mẹ vẫn dõi theo con. Các cụm từ “cò sẽ”, “cò mãi”, “tìm con”, “yêu con” khiến cho lời thơ mang ý nghĩa khẳng định mạnh mẽ – tình mẹ thiêng liêng, bất biến.
Bài thơ vừa mang phong vị dân gian vừa đậm dấu ấn phong cách của Chế Lan Viên – tính triết lý, suy tưởng, giàu trí tuệ. Từ hình ảnh con cò trong ca dao đi vào lời ru của mẹ, Chế Lan Viên nâng lên thành triết lý về tình mẹ :
“Con dù lớn vẫn là con của mẹĐi hết đời lòng mẹ vẫn theo con
Hai câu thơ 8 tiếng (khác với những câu thơ ngắn ở trên) như cảm xúc của nhà thơ vỡ oà. Quan hệ từ “dù…vẫn…” có ý nghĩa khẳng định mạnh mẽ quy luật tất yếu của tình mẫu tử: Mẹ muôn đời là thế, theo con suốt cuộc đời này. Dù con là anh hùng, triết gia, hay là người thất bại, lỡ lầm, thì con vẫn là con của mẹ. Mẹ không thể “lên rừng xuống biển” với con, nhưng lòng mẹ như cánh cò không ngơi nghỉ, tìm đến với con để sẻ chia. Triết lý giản dị nhưng có những người con dẫu có đi hết cuộc đời vẫn chưa nhận ra. Hai câu thơ là lời tri ân chân thành sâu sắc mà nhà thơ Chế Lan Viên gửi mẹ mình và tất cả bà mẹ trên thế gian.
– Mở đầu bài thơ, tác giả đưa người đọc đến mảnh vườn của mẹ, nơi đó hoa trái nối nhau, mọc theo mùa: khi thì vàng rực chói chang sắc quả “như mặt trời”, khi thì trắng dịu một màu hoa “như mặt trăng”.
Những mùa quả mẹ tôi hái đượcMẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồngNhững mùa quả lặn rồi lại mọcNhư mặt trời, khi như mặt trăng
Từ chuyện trồng cây của mẹ ở khổ thơ đầu, tác giả dẫn dắt cảm xúc người đọc đến với chuyện “trồng người” của đấng sinh thành:
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lênCòn những bí bầu thì lớn xuốngChúng mang dáng giọt mồ hôi mặnRỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Phép đối lập, so sánh, có chút hóm hỉnh: ca ngợi công đức biển trời của mẹ.
Hình ảnh “bí bầu” tiếp tục được ví von như những giọt mồ hôi thầm lặng của mẹ hiền trong việc trồng cây và trong cả việc nuôi dạy con thơ:
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặnRỏ xuống lòng thầm lặng mẹ
Khác với việc trồng cây mỗi năm thu về một mùa quả chín, trồng người lao nhọc đến bạc đầu mà mẹ vẫn còn phải mỏi lòng mong chờ được gặt hái thành quả của mình:
Và chúng tôi, một thứ quả trên đờiBảy mươi ngày mẹ mong chờ được hái.
Các con là thứ quả mà mẹ chắt chiu suốt một đời chỉ để nhìn thấy con thành đạt, nên người. Hai câu cuối thể hiện cảm xúc chân thành tha thiết của con:
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏiMình chỉ còn là một thứ quả non xanh.
Vẫn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ “bàn tay mẹ mỏi”, “thứ quả non xanh”, nhà thơ giật mình ý thức trách nhiệm làm con, sợ rằng khi mẹ đã già mà mình vẫn chưa thành trái chín. Một thoáng ái ngại đó dễ làm người đọc nao lòng, bởi ai cũng có một người mẹ tảo tần thương con như thế.
Với hình ảnh độc đáo, cảm xúc chân thực sâu sắc và cô đúc, hai khổ thơ đem đến cho người đọc những cảm xúc thiêng liêng về mẹ.
+ Nét chung:
Hình ảnh trong hai đoạn thơ rất giản dị, gợi nhiều cảm xúc. Tình cảm những người con trong hai bài thơ đều chân thành, tha thiết, tri ân mẹ bằng những vần thơ đẹp, bằng thái độ thành kính.
Đoạn thơ Con cò vừa mang chất trữ tình dân gian lại vừa có tính triết lí sâu sắc về tình mẹ.
Đoạn thơ Mẹ và quả cho thấy hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm mang hồn làng quê, vườn tược, sum xuê cây trái, từ đó hình ảnh bà mẹ quê chân chất giản dị hiện ra trong dáng vẻ cần mẫn hiền hòa, yêu thương.
Tóm lại, các tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ … để thể hiện cảm xúc thiết tha sâu lắng về tình mẫu tử.
Khẳng định ý nghĩa của hai đoạn thơ đối với tâm hồn bạn đọc hôm nay; khơi dậy và bồi đắp trong chúng ta tinh cảm gia đình, tình mẫu tử thiêng liêng.
Cập nhật thông tin chi tiết về Bình Bài Thơ “Tình Ca Ban Mai” Của Chế Lan Viên trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!