Xu Hướng 6/2023 # Biện Pháp Quản Lý, Bảo Vệ Biên Giới Quốc Gia # Top 9 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Biện Pháp Quản Lý, Bảo Vệ Biên Giới Quốc Gia # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Biện Pháp Quản Lý, Bảo Vệ Biên Giới Quốc Gia được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP Điện Biên tuyên truyền pháp luật cho nhân dân khu vực biên giới. Ảnh: Anh Dũng

“Điều 20. Biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia

1. Các biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia bao gồm:

a) Vận động quần chúng;

b) Pháp luật;

c) Ngoại giao;

d) Kinh tế;

đ) Khoa học – kỹ thuật;

e) Nghiệp vụ;

g) Vũ trang.

2. Nội dung, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và trách nhiệm áp dụng các biện pháp quy định tại khoản 1, Điều này do pháp luật quy định”.

Quy định biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong Luật Biên phòng Việt Nam có ý nghĩa chính trị, pháp lý và thực tiễn quan trọng. Cụ thể:

Thứ nhất, quy định biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong Luật Biên phòng Việt Nam đã góp phần thể chế hóa quan điểm của Đảng về xây dựng, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Việc chính thức xác định các biện pháp vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học – kỹ thuật, nghiệp vụ và vũ trang trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao đã trực tiếp khẳng định tầm quan trọng, tính chất toàn diện của công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là của chính quyền, nhân dân khu vực biên giới và các lực lượng vũ trang nhân dân trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới; vị trí, vai trò của lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; sự cần thiết phải quy định và sử dụng đồng bộ các biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Điều này thể hiện sự quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về xây dựng, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia như: Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, được xây dựng, quản lý và bảo vệ vững chắc cả thời bình và thời chiến; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp, thông lệ quốc tế; xây dựng BĐBP vững mạnh về chính trị, tư tưởng, giỏi về quân sự, am hiểu về pháp luật, tinh thông về nghiệp vụ, bảo đảm thực hiện tốt vai trò “nòng cốt, chuyên trách” quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới trong tình hình mới.

Trước khi có Luật Biên phòng Việt Nam, các biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia chưa được chính thức ghi nhận một cách tập trung, thống nhất trong văn bản luật; vì thế, với quy định này, Luật Biên phòng Việt Nam đã khẳng định bước phát triển mới về thể chế pháp lý quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Bên cạnh đó, quy định về biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia có mối quan hệ mật thiết với các quy định khác của Luật Biên phòng Việt Nam, đặc biệt là các quy định chung về chính sách Nhà nước về biên phòng (Điều 3), nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều 4), trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều 7). Đồng thời, quy định này củng cố bảo đảm pháp lý đồng bộ để BĐBP thực hiện nhiệm vụ của BĐBP nói riêng (Điều 14) và phát huy vai trò trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng nói chung (Điều 5). Đây cũng là một phần tất yếu trong quyền hạn của BĐBP quy định tại khoản 1, Điều 15.

Thứ ba, quy định biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong Luật Biên phòng Việt Nam là cơ sở pháp lý quan trọng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia của BĐBP, bảo đảm tính hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng và nhiệm vụ của lực lượng BĐBP.

Với vị trí là lực lượng vũ trang nhân dân, thành phần của QĐND, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới; có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước chính sách, pháp luật về biên phòng; thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật; quy định tại Điều 20, Luật Biên phòng Việt Nam là căn cứ pháp lý quan trọng thống nhất nhận thức, chỉ đạo, điều hành lực lượng BĐBP thực hiện nhiệm vụ trên thực tế. Việc luật hóa quy định này còn là biểu hiện của sự đúc kết kinh nghiệm công tác biên phòng qua các thời kỳ, giai đoạn khác nhau trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Thạc sĩ Nguyễn Văn Năm, Khoa Pháp luật, Học viện Biên phòng

Tăng Cường Quản Lý, Bảo Vệ Chủ Quyền Lãnh Thổ, An Ninh Biên Giới Quốc Gia

(QBĐT) – Quảng Bình có tuyến biên giới đất liền dài trên 222km với 61 cột mốc quốc giới, 1 cọc dấu; bờ biển dài trên 116km, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trong những năm qua, chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển của tỉnh luôn được giữ vững. Tuy nhiên, trước tình hình thế giới, khu vực và trong nước vẫn còn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Quảng Bình đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ các biện pháp công tác biên phòng (BP), tạo nên sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.

Quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển, đảo là nhiệm vụ thiêng liêng có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong 5 năm qua, BĐBP tỉnh Quảng Bình đã phát huy tốt vai trò của lực lượng chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, chủ trì bảo đảm an ninh trật tự trong khu vực biên giới (KVBG); tích cực tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP, Tỉnh ủy, UBND tỉnh triển khai thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ biên giới, xây dựng lực lượng BĐBP. BĐBP tỉnh đã chủ trì thực hiện, triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, biện pháp công tác BP; quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, vùng biển, hệ thống mốc quốc giới; kiểm soát chặt chẽ xuất nhập cảnh, giữ vững trật tự, an toàn xã hội KVBG, cửa khẩu, cảng biển, các cửa lạch; xây dựng nền BP toàn dân gắn với nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Nhận thức sâu sắc yêu cầu nhiệm vụ công tác BP trong tình hình mới, Đảng ủy, Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã tổ chức quán triệt nghiêm túc, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP, Tỉnh ủy, UBND tỉnh sát với tình hình, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt và đạt kết quả cao trên tất cả các lĩnh vực công tác. 

Công tác đối ngoại BP với các tỉnh có đường biên giới chung được duy trì nền nếp, thường xuyên, chất lượng và hiệu quả.

Trong đó, các đơn vị trong lực lượng đã tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tham mưu BP; hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia; duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) và nâng cao trình độ tác chiến, khả năng cơ động chiến đấu của bộ đội.

5 năm qua, các đơn vị BĐBP đã tổ chức hơn 2.660 đợt với hơn 13.700 lượt cán bộ, chiến sỹ (CBCS) tuần tra bảo vệ đường biên, mốc quốc giới, kiểm soát địa bàn biên giới, vùng biển; phát hiện 3.064 lượt tàu, thuyền nước ngoài xâm phạm vùng biển, xua đuổi 504 tàu cá Trung Quốc ra khỏi vùng biển Việt Nam; ngăn chặn, xử lý 151 người vượt biên trái phép sang Úc. Đặc biệt, trong thời gian xảy ra dịch bệnh Covid-19, BĐBP tỉnh là lực lượng xung kích, nòng cốt trong phòng, chống dịch trên biên giới, cửa khẩu; duy trì thường xuyên 30 tổ chốt/153 CBCS, 37 dân quân nhằm siết chặt quản lý biên giới, kiểm soát chặt chẽ xuất nhập cảnh, không để dịch bệnh lây lan qua biên giới.

Bên cạnh đó, BĐBP đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng tại cửa khẩu tiếp nhận, kiểm tra y tế, làm thủ tục nhập cảnh, bàn giao về các địa điểm cách ly 7.555 người Việt Nam nhập cảnh qua Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo, Cảng Hòn La, Cảng Gianh; tiếp nhận tổ chức cách ly tại cơ sở của BĐBP tỉnh 155 trường hợp, bảo đảm chu đáo, an toàn; ngăn chặn triệt để tình trạng vượt biên, xuất nhập cảnh trái phép và lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển thiết bị y tế qua biên giới để trục lợi.

Nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở KVBG, Bộ chỉ huy BĐBP Quảng Bình đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đột phá nâng cao hiệu quả công tác trinh sát BP, nắm chắc tình hình nội biên, ngoại biên, trên biển, nhất là hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm, vi phạm pháp luật để chủ động đấu tranh, ngăn chặn và xử lý linh hoạt, khôn khéo, dứt điểm các vụ việc phức tạp bảo đảm yêu cầu về chính trị, pháp luật và nghiệp vụ.

Trong nhiệm kỳ qua, BĐBP tỉnh đã chủ trì xác lập, đấu tranh thành công 29 chuyên án và 14 kế hoạch nghiệp vụ, bắt 52 đối tượng; thu giữ 716.962 viên ma túy tổng hợp (MTTH), 3,3kg MTTH dạng đá, 520,4g heroin, 762,2kg vật liệu nổ, 77 kíp nổ; phối hợp với An ninh tỉnh Khăm Muồn (Lào) đấu tranh 11 chuyên án, bắt giữ 28 đối tượng, thu 478.000 viên MTTH, 1kg MTTH dạng đá, và nhiều tang vật có giá trị khác.

Với quan điểm nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang làm nòng cốt, BĐBP là lực lượng chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia, BĐBP tỉnh luôn phối hợp chặt chẽ với Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, Công an tỉnh theo đúng nội dung Nghị định số 77/2010 và Nghị định 03/2019 của Chính phủ, đồng thời tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng, củng cố chính trị cơ sở KVBG vững mạnh.

Trong nhiệm kỳ, BĐBP đã tăng cường 10 cán bộ tham gia đại biểu HĐND các cấp (nhiệm kỳ 2015-2020); 6 cán bộ tăng cường phó bí thư đảng ủy các xã biên giới; 132 đảng viên tham gia sinh hoạt chi bộ bản và 369 đảng viên phụ trách 1.669 hộ gia đình ở KVBG; duy trì hiệu quả 4 mô hình giúp dân trồng lúa nước với tổng diện tích gần 20ha, 5 mô hình chăn nuôi; phát huy hiệu quả của các trạm xá quân-dân y, cuộc vận động “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, “Nâng bước em tới trường”, “Ánh sáng vùng biên”… nhờ đó, hệ thống chính trị cơ sở được củng cố vững chắc, làm thay đổi bộ mặt các thôn, bản trên biên giới, góp phần xây dựng thế trận BP vững chắc.

Trong quản lý, bảo vệ đoạn biên giới tiếp giáp với 2 tỉnh Khăm Muồn và Sa Vẳn Na Khệt (Lào), BĐBP tỉnh thường xuyên thực hiện linh hoạt, hiệu quả công tác đối ngoại BP; duy trì nền nếp, chất lượng các cuộc hội đàm thường niên, đột xuất với Quân sự và An ninh 2 tỉnh của nước bạn; tổ chức ký kết nghĩa giữa 4 đồn BP với các đại đội bảo vệ biên giới, đồn công an cửa khẩu đối diện; thăm, chúc mừng các đơn vị bạn nhân các dịp lễ, tết chu đáo. Thực hiện hiệp định về quy chế biên giới Việt Nam-Lào, nội dung các biên bản hội đàm, lực lượng bảo vệ biên giới hai bên đã phối hợp tổ chức 66 lần/862 lượt CBCS tham gia tuần tra song phương; đấu tranh thành công 11 chuyên án.

BĐBP tỉnh đã hỗ trợ lực lượng vũ trang 2 tỉnh Khăm Muồn và Sa Vẳn Na Khệt vật chất, trang thiết bị, tặng quà trị giá 465 triệu đồng; hỗ trợ thiết bị y tế phòng, chống dịch trị giá 440 triệu đồng; đỡ đầu 8 cháu học sinh Lào trong chương trình “Nâng bước em tới trường” với số tiền gần 140 triệu đồng; thăm, tặng quà, khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân bản Noọng Bua (Bua La Pha, Khăm Muồn) với số tiền 73 triệu đồng. Những hoạt động này đã góp phần củng cố quan hệ đặc biệt với lực lượng bảo vệ biên giới nước bạn, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Trong những năm tới, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh của tỉnh nói chung và địa bàn biên giới nói riêng cơ bản ổn định, phát triển. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực và trong nước còn nhiều yếu tố tiềm ẩn phức tạp, khó lường, đòi hỏi nhiệm vụ, công tác BP trong tình hình mới ngày càng kịp thời, toàn diện, hiệu quả cao. Để đáp ứng điều đó, các đơn vị trong toàn lực lượng tiếp tực tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, quán triệt, nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ quân sự-quốc phòng và BP; chủ động làm tốt công tác nắm, dự báo tình hình, kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP, Tỉnh ủy, UBND tỉnh các chủ trương, giải pháp xây dựng KVBG vững mạnh, xây dựng BĐBP tỉnh vững mạnh toàn diện; quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, vùng biển; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Hai là, tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ các biện pháp công tác BP; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giải quyết tốt các vấn đề xảy ra trên biên giới, vùng biển theo đúng chủ trương, đối sách; chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với các hoạt động phá hoại của địch và các loại đối tượng; kiên quyết bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự án toàn xã hội trong mọi tình huống.

Ba là, duy trì nghiêm túc, nền nếp chế độ SSCĐ; tổ chức huấn luyện, luyện tập thuần thục phương án tác chiến bảo vệ biên giới, vùng biển, chiến đấu tại chỗ bảo vệ đồn, trạm biên phòng; sẵn sàng lực lượng, phương tiện cơ động xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống không để bị động, bất ngờ.

Bốn là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả biện pháp công tác trinh sát BP; nắm, dự báo, tham mưu xử lý kịp thời, hiệu quả tình hình vụ việc, đấu tranh trấn áp hiệu quả với các loại tội phạm, vi phạm pháp luật xảy ra trên biên giới, vùng biển, địa bàn; đầu tư hiện đại hóa cho lực lượng trinh sát kỹ thuật, đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Năm là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát xuất nhập cảnh bảo đảm chặt chẽ, nhanh chóng, thông thoáng, phục vụ tốt cho nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế của tỉnh.

Sáu là, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại BP, xây dựng củng cố mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị đặc biệt giữa BĐBP tỉnh với Bộ chỉ huy Quân sự, Ty An ninh 2 tỉnh Khăm Muồn, Sa Vẳn Nạ Khệt; tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp tham mưu giải quyết tốt các vấn đề xảy ra trên biên giới, cửa khẩu; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, phát triển.

Bảy là, tích cực củng cố, xây dựng thế trận BP toàn dân vững chắc; tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế-xã hội, tiềm lực khu vực biên giới vững mạnh.

Tám là, xây dựng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh, các cơ quan, đơn vị đoàn kết, thống nhất, vững mạnh toàn diện, mẫu mực tiêu biểu; CBCS có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm cao, sức khỏe và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đại tá Trịnh Thanh Bình

Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh

Ban Hành Luật Biên Phòng Để Xây Dựng, Quản Lý, Bảo Vệ Biên Giới Quốc Gia Trong Tình Hình Mới

Cần thiết ban hành Luật Biên phòng Việt Nam

Trình bày tờ trình dự án Luật Biên phòng Việt Nam, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết: Việc ban hành Luật Biên phòng Việt Nam là cần thiết, xuất phát từ thực tiễn đất nước trong tình hình mới.

Theo Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, quan điểm, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia nhưng chưa được thể chế hóa thành pháp luât; trong đó, xác định nhiệm vụ biên phòng là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia,…; bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác; bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc gia; góp phần phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới và cả nước”.

Đồng thời xác định “Xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới quốc gia toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là chuyên trách”; Chiến lược chỉ rõ “Sớm ban hành Luật Biên phòng Việt Nam”.

Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của biên giới quốc gia, việc ban hành Luật Biên phòng Việt Nam là vấn đề chiến lược, lâu dài của Đảng, Nhà nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Bộ đội Biên phòng đáp ứng yêu cầu làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch cho biết, hiện nay, hoạt động trên biên giới, khu vực biên giới, cửa khẩu có nhiều lực lượng thuộc các bộ, ngành với nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, thực tế thực thi nhiệm vụ biên phòng còn những hạn chế, bất cập; công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương, lực lượng nòng cốt, chuyên trách với các lực lượng chức năng ở khu vực biên giới, cửa khẩu chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao.

Bên cạnh đó, việc đầu tư của nhà nước, địa phương vào một số chương trình, mục tiêu quốc gia tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vẫn còn dàn trải, chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng biên giới quốc gia, khu vực biên giới vững mạnh.

“Tổng kết 20 năm thi hành Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, các ban, bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có biên giới đều thống nhất kiến nghị, báo cáo Quốc hội xây dựng Luật Biên phòng Việt Nam”, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch nói.

Bên cạnh đó, thực tiễn hơn 60 năm qua, Bộ đội Biên phòng đã và đang áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp công tác biên phòng nhưng chưa được luật hóa; việc tổ chức xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia chưa được quy định cụ thể nên thiếu cơ sở pháp lý để các cơ quan, lực lượng chức năng và Bộ đội Biên phòng trong thực thi nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới.

Do vậy, để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia đang đặt ra cần thiết phải có hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ, thống nhất. Vì vậy, việc ban hành Luật Biên phòng Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần thiết; đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới trong tình hình mới.

Thể chế hoá đường lối, chính sách về biên giới quốc gia

Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch cũng cho biết, trên cơ sở kết quả tổng kết 20 năm thi hành Pháp lệnh BĐBP và yêu cầu của thực tiễn, Bộ Quốc phòng đã báo cáo Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép xây dựng Dự án Luật Biên phòng Việt Nam.

Đồng tình về sự cần thiết ban hành Luật Biên phòng Việt Nam, báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Quốc phòng – An ninh của Quốc hội nêu rõ, việc ban hành Luật sẽ thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về biên giới quốc gia, trong đó có Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia.

Trong nước – Khương Trung – Tuyết Chinh – 09:42 20/05/2020

(TN&MT) – Sáng 20/5, tại Nhà Quốc hội Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân chính thức tuyên bố khai mạc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.

Bàn Về Xây Dựng Chiến Lược Quản Lý, Bảo Vệ Chủ Quyền Biên Giới Quốc Gia Trong Tình Hình Mới

Thứ năm, 14 Tháng 11 2013 14:37

(LLCT) – Biên giới quốc gia trên đất liền, trên không, trên biển, đảo thuộc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Biên giới có vị trí địa chiến l­ược quan trọng, là “tuyến đầu”, “cửa ngõ”, là “phên dậu” của mỗi quốc gia. Chủ quyền, an ninh biên giới là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của đất nước và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Bởi vậy, xây dựng Chiến lược quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước và tạo động lực để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và cùng phát triển với các nước trong khu vực và thế giới.

Một quốc gia có biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và phát triển có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự vững mạnh của chế độ, của dân tộc. Lịch sử hàng nghìn năm tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, dựng nư­ớc phải đi đôi với giữ nư­ớc. Do đó, trong tâm thức của mỗi ngư­ời Việt Nam, biên giới, vùng trời, vùng biển, đảo của Tổ quốc, là chủ quyền lãnh thổ phải đư­ợc bảo vệ vững chắc. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các lực l­ượng vũ trang nhân dân, trong đó Bộ đội Biên phòng (BĐBP) giữ vai trò quan trọng, nòng cốt trong quản lývà bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới của Tổ quốc.

Đất nước ta đang tiến vào thời kỳ phát triển mới, bối cảnh thế giới và khu vực đang có những thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, thời cơ và thuận lợi đang mở ra, đồng thời cũng còn không ít khó khăn. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao… còn tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai dịch bệnh,… sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao,… giữa các nước ngày càng gay gắt”(1).

Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố mất ổn định; đặc biệt vấn đề biên giới, vùng trời và trên biển đảo tiếp tục xảy ra những tranh chấp, một số nước đẩy mạnh các hoạt động quân sự với quy mô, cường độ ngày càng tăng, phô trương sức mạnh, công khai yêu sách về chủ quyền biên giới, biển đảo, làm ảnh hưởng đến môi trường hoà bình, đe dọa chủ quyền, lợi ích quốc gia. Trước tình hình đó, nhiệm vụ quản lý‎và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, vùng trời, vùng biển, đảo của nước ta đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải ra sức phấn đấu, phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử của ông cha ta trước đây về quản l‎ý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, và trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, những định hướng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là: “Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”(2). Đảng ta nêu ra định hướng về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là rất cơ bản và toàn diện, bao gồm cả việc xác định phạm vi, đối tượng bảo vệ và xác định mức độ, tính chất bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD), gắn với thế trận an ninh nhân dân (ANND) và thế trận biên phòng toàn dân trên các địa bàn chiến lược biên giới, biển đảo, góp phần quan trọng vào quản lý bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới của Tổ quốc.

Quá trình xây dựng và BVTQ qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc đã chứng minh rất rõ vai trò của quần chúng nhân dân là cực kỳ quan trọng. Sức mạnh của dân tộc ta ở mọi thời đại đều từ sức mạnh của toàn dân. Khi dân chúng một lòng, đồng tâm, hiệp lực; khi lòng dân đã quyết, chí dân đã bền thì không khó khăn, trở ngại nào ngăn cản đ­ược. Thực tế là ở đâu có nền QPTD vững chắc, nhân dân đoàn kết, yên tâm, phấn khởi, tin t­ưởng ở lãnh đạo thì mọi việc ở đó đều thực hiện thành công. Ngược lại, nơi nào để cho dân bất bình, mất lòng tin ở lãnh đạo thì nơi ấy tình hình không ổn định, luôn có diễn biến phức tạp. Những nơi cơ sở chính trị yếu kém, vai trò lãnh đạo bị buông lỏng, không nắm được quần chúng, lòng dân không yên, mất niềm tin thì ở đó các thế lực thù địch sẽ lợi dụng lôi kéo, kích động, chia rẽ nhân dân, gây nên nhiều vụ việc phức tạp, làm mất ổn định chính trị. Chính vì vậy, việc tạo dựng cho đ­ược “thế trận lòng dân” vững chắc trong thế trận QPTD và thế trận ANND là một nội dung cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định của sức mạnh quốc phòng và thế trận QPTD vững chắc để quản lý bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới của Tổ quốc.

Nh­ư vậy, vấn đề cơ bản xây dựng chiến lược quản bảo vệ biên giới quốc gia trong thời kỳ mới, trước hết cần tăng c­ường xây dựng sức mạnh quốc phòng trên cơ sở nền QPTD, gắn với thế trận QPTD và thế trận ANND vững chắc.

Hai là, kết hợp phát triển kinh tế–xã hội với tăng cườngQP-AN để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên các địa bàn biên giới trọng điểm.

Kết hợp phát triển kinh tế – xã hộivới tăng cường QP-AN, xây dựng thế trận QP-AN để bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo là một nhiệm vụ lớn mang tính lâu dài đòi hỏi có sự kết hợp đan xen nhiều yếu tố: xây dựng lực lượng, xây dựng khu vực phòng thủ, kết hợpkinh tế với quốc phòng, tổ chức hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng hoạt động trên khu vực biên giới, biển, đảo; phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành theo kế hoạch thống nhất, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý có hiệu quả các tình huống không để bị động, bị bất ngờ…Do đó, mọi hoạt động kinh tế đều phải gắn liền với nhiệm vụ xây dựng thế trận và lực lượng QP-AN để quản lý bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới.

Phải tổ chức, bố trí các lực lượng kinh tế với tiềm lực, lực lượng QP-AN, gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội với củng cố QP-AN trên từng địa bàn, hướng chiến lược trong một chỉnh thể thống nhất. Những nội dung trên phải được tổ chức chặt chẽ, chuẩn bị chu đáo trong thời bình, trọng tâm là: Quy hoạch xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND và thế trận biên phòng toàn dân trên từng vùng phải nằm trong thế trận phòng thủ chung của cả nước; xây dựng chiến lược quản lý bảo vệ biên giới quốc gia phải gắn với thế trận QP-AN của các khu vực phòng thủ địa phương; kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật gắn với xây dựng công trình quốc phòng, căn cứ hậu cần – kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tác chiến trong mọi tình huống; quy hoạch các khu công nghiệp, khu kinh tế quốc phòng, các dự án kinh tế, bố trí điều chỉnh dân cư… phải gắn với yêu cầu quản lý bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia và gắn với yêu cầu tự bảo vệ; xây dựng các kế hoạch phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang, lực lượng vũ trang với các bộ, ngành trong xây dựng, phát triển kinh tế và trong xử lý các tình huống QP-AN trên các địa bàn chiến lược.

Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, toàn diện, có trọng điểm, gắn chặt với thế trận ANND và nền biên phòng toàn dân.

Đây là vấn đề chiến lược, bởi xây dựng thế trận QPTD là thế trận toàn dân giữ nước, khi xây dựng cần nắm vững yêu cầu: phải dựa vào dân; xây dựng thế trận QPTD, nền biên phòng toàn dân gắn với thế trận QPTD và thế trận ANND; thế bố trí của các ngành kinh tế, xã hội, ngoại giao và với chiến l­ược phát triển kinh tế… nhằm tạo thành “thế trận tổng hợp, đa năng, nhiều tầng, nhiều tuyến”.Thế trận QPTD gắn với thế trận ANND và biên phòng toàn dân nhằm mục tiêu đối phó thắng lợi với mọi tình huống, như­ng tr­ước hết là chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai, xung đột vũ trang trên tuyến biên giới, biển, đảo. Xây dựng thế trận QPTD, toàn diện, trên cả nước, từ xa, liên hoàn, vững chắc, linh hoạt và phải tập trung vào trọng điểm các khu vực biên giới, vùng biển, hải đảo biên cư­ơng của Tổ quốc, có khả năng chuyển hoá nhanh chóng,tạo được sự răn đe đối với thù trong và giặc ngoài.

Xây dựng thế trận QPTD và thế trận ANND toàn diện vững chắc, thực chất là quy hoạch và bố trí tiềm lực, lực l­ượng hoạt động của quân đội gắn với lực lư­ợng ANND theo ý định chiến l­ược. Bởi vậy, cần tập trung đẩy nhanh quy hoạch bố trí nâng chất lư­ợng tổ chức xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trọng điểm; hoàn thiện việc phân vùng khu vực biên phòng chiến l­ược; xác định và tổ chức xây dựng các đơn vị công an, đồn biên phòng trong điều kiện mới; hoàn chỉnh thế bố trí lực l­ượng chuyên trách thời bình, thời chiến; hoàn thành cơ bản bố trí các khu kinh tế -quốc phòng trên đất liền và trên biển đảo kết hợp quốc phòng với kinh tế. Chăm lo cải thiện nâng cao đời sống nhân dân, quy hoạch bố trí lại các vùng dân c­ư trên một số tuyến biên giới, biển đảo trọng điểm, kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với xây dựng thế trận QPTD trên các địa bàn chiến lược.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các văn bản pháp luật về biên giới quốc gia đã trở thành nhiệm vụ chiến lược đặc biệt quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, nó được thể hiện trong các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp luật của Đảng và Nhà nước. Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được nhiều văn bản, pháp lệnh, nghị định và thu thập được những chứng cứ pháp lý có giá trị về chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc, đồng thời ta cũng đã xây dựng được lực lượng quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Nhà nước cũng đã tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi tăng cường đàm phán ký‎ kết, tham gia các điều ước quốc tế về biên giới, biển đảo của Tổ quốc. Tuy đã có nhiều cố gắng và đạt được một số kết quả quan trọng, song nhìn chung hệ thống pháp luật về quản lý bảo vệ biên giới quốc gia còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa toàn diện, còn nhiều văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, nhất là các văn bản pháp luật về biển, đảo và quản lý biên giới, biển đảo. Do vậy, để bảo đảm xây dựng “Chiến lược quản lý bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia”, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về biên giới quốc gia cần tập trung nghiên cứu, sớm bổ sung hoàn thiện kịp thời đầy đủ.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2012

Thiếu tướng Phạm Huy Tập

Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng

Cập nhật thông tin chi tiết về Biện Pháp Quản Lý, Bảo Vệ Biên Giới Quốc Gia trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!