Bạn đang xem bài viết Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Môn Tiếng Việt (Giai Đoạn Vần) được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: – Môn Tiếng Việt là môn có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học, có đọc thông, viết thạo, hiểu được nội dung văn bản thì mới nắm được thông tin, giải quyết những vấn đề mà văn bản nêu ra. Nghĩa là, học tốt môn Tiếng Việt thì mới có thể học tốt môn học khác. – Yêu cầu các em khi học xong lớp Một là phải đọc thông, viết thạo được hết các âm, vần, tiếng, từ, câu mà các em đã học (ở môn Tiếng Việt). Do đó, giai đoạn học âm và vần là nền tảng quan trọng trong việc học tập và tiếp thu những kiến thức cơ bản về sau. Nếu giai đoạn học vần các em chưa nắm vững thì sẽ dẫn đến sự tiếp thu khó khăn ở giai đoạn tập đọc. – Dạy tiếng Việt cho học sinh lớp Một không thể nào không chú trọng đến giai đoạn vần, có nắm được hết vần thì các em mới đọc được tiếng nếu mất căn bản từ giai đoạn này các em sẽ không ghép vần được, không đọc được tiếng hoặc ghép rất chậm, dẫn đến khó khăn cho việc học tập môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung . Chính vì thế chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt (giai đoạn vần)” ở khối 1, trường Tiểu học Nguyễn Viết Xuân năm học 2010 – 2011. II- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: – Ý thức học tập của học sinh khối 1 đối với môn Tiếng Việt. – Ý thức của giáo viên về tầm quan trọng của môn Tiếng Việt. – Sự quan tâm của phụ huynh học sinh đối với việc học của con em mình. – Sự giúp đỡ của ban giám hiệu đối với môn Tiếng Việt. – Cơ sở vật chất: + Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học trong nhà trường. + Đồ dùng học tập của học sinh. – Biện pháp nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt (giai đoạn vần). III- PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: Về không gian: Biện pháp nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt (giai đoạn vần) ở khối 1, trường Tiểu học Nguyễn Viết Xuân. 2. Về thời gian: – Trong năm học 2010 – 2011, chúng tôi chia quá trình nghiên cứu ra làm 3 giai đoạn. + Từ đầu năm – giữa học kì I: điều tra, khảo sát thực trạng của học sinh. + Từ giữa học kì I – cuối học kì I: lập đề cương, đưa ra giải pháp, vận dụng thực tế, chỉnh sửa bản nháp. + Từ cuối học kì I – giữa học kì II: thống kê, so sánh, đối chiếu kết quả, hoàn chỉnh đề tài. + Từ giữa học kì II – cuối học kì II: tiếp tục vận dụng đề tài. IV- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : Khi đi sâu vào nghiên cứu chúng tôi lựa chọn, vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp, nhiều hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. 1-Phương pháp đọc tài liệu: – Phương pháp dạy Tiếng Việt ở Tiểu học (PTS Lê Phương Nga- Đỗ Xuân Thảo- Lê Hữu Tĩnh). – Để có một giờ dạy học nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, chất lượng hơn và hiệu quả hơn (Nguyễn Hữu Du- Sở GD&ĐT Vũng Tàu). – Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới (TS Nguyễn Trí). – Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp Một chương trình Tiểu học mới (Đặng Huỳnh Mai). – Các tài liệu bồi dưỡng của dự án PEDC, hướng dẫn giáo viên về tăng cường Tiếng Việt. – Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường học phổ thông giai đoạn 2008- 2013. – Thông tư 32/TT- BGD&ĐT về việc hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh Tiểu học. – Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học lớp 1. – Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học. – Phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. – Tài liệu dạy học hòa nhập lấy HS làm trung tâm. – Tài liệu một số kĩ năng dạy học đặc thù trong lớp học hòa nhập. – Chuyên đề GDTH tập 42, 43, 44. – Tạp chí giáo dục Tiểu học của Bộ GD&ĐT. – Tài liệu về trò chơi học tập môn Tiếng Việt. – Tài liệu hướng dẫn tự làm đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt. * Qua các tài liệu trên chúng tôi tham khảo và vận dụng vào việc làm đề tài. 2-Phương pháp điều tra 2.1-Phương pháp đàm thoại: + Với phụ huynh học sinh mỗi giai đoạn 1 lần: 5 lần/ năm (đầu năm, giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II, cuối học kì II.) + Họp tổ chuyên môn: 2lần/ tháng. + Ban giám hiệu 1 tháng/ 1 lần. + Với học sinh trong các tiết dạy và trong các tiết hoạt động tập thể. 2.2-Phương pháp dự giờ, thăm lớp : + Dự giờ minh họa chuyên đề. + Dự giờ đồng nghiệp: 2 tiết / 1 tháng. + Thao giảng: 1 tiết/ tháng. + Giáo án điện tử 1 tiết / HK. + Khối trưởng chịu trách nhiệm tổ chức hội thảo các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra việc thực hiện của giáo viên trong tổ để có sự điều chỉnh kịp thời. 2.3- So sánh, đối chiếu kết quả: + Giáo viên điều tra kết quả đầu năm, phân loại học sinh để có biện pháp dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh. + So sánh kết quả qua từng giai đoạn: đầu năm, giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II, cuối học kỳ II (5 lần/ 1 năm). 3- Các phương pháp khác: – Những phương pháp đặc biệt chú ý khi giảng dạy Tiếng Việt Một: miêu tả, hỏi đáp, quan sát, sử dụng đồ dùng trực quan, rèn luyện theo mẫu thực hành giao tiếp, trò chơi, nêu vấn đề. Tất cả các phương pháp trên sẽ giúp chúng tôi có một giải pháp mới, có một cái nhìn mới trong việc giảng dạy môn Tiếng Việt (giai đoạn vần) ở lớp Một. B-NỘI DUNG: I- CƠ SỞ LÝ LUẬN: – Đối với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp Một nói riêng, các kĩ năng “nghe, nói, đọc, viết” là những kĩ năng quan trọng hàng đầu. Như chúng ta đã biết: Đọc, viết là một dạng ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó. – Đọc, viết trở thành một yêu cầu cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Trước tiên, trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. – Đọc, viết là công cụ để học các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học, nó là kĩ năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh. Nếu đọc yếu (đọc sai chữ, tốc độ chậm) sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh. – Dạy tiếng Việt tức là dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh mà tiếng mẹ đẻ có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người, đó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Lớp Một là lớp đầu cấp, mà giai đoạn học âm và vần lại là giai đoạn đầu tiên học sinh được làm quen ở môn Tiếng Việt, ở giai đoạn học vần học sinh được tiếp xúc một cách tỉ mỉ với từng con chữ để biết đọc, biết viết tiếng mẹ đẻ giúp các em học tốt môn Tiếng Việt. Vì thế, trẻ học tiếng Việt chính là học kĩ năng nghe – nói – đọc – viết tiếng mẹ đẻ, từ những lý luận nêu trên có thể khẳng định rằng giai đoạn học vần là giai đoạn quan trọng trong suốt quá trình học tiếng Việt của học sinh sau này. II- CƠ SỞ THỰC TIỄN: – Học sinh nắm được cấu tạo vần dẫn đến các em học tốt ở giai đoạn tập đọc. – Ở lớp Một rất quan trọng trong việc hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh trong từng tiết học. – Năm học 2010 – 2011 chúng tôi được giao nhiệm vụ dạy lớp 1 (2 buổi/ngày) với tổng số học sinh là: 203/ 101 nữ, trong đó: Mẫu giáo chính quy: 154/79 Chưa qua mẫu giáo: 42/ 20 Lưu ban: 7/ 2 Hầu hết các em là con em gia đình làm nông, làm thuê nên phụ huynh ít có thời gian quan tâm đến việc học của con em mình. Thông qua việc giảng dạy và kiểm tra thường xuyên với từng học sinh từ đầu năm (sau 2 tuần thực dạy) chúng tôi đã nắm được thực trạng chung về chất lượng của các em như sau: TSHS Giỏi Khá Trung bình Yếu 203 SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 40 19,7 58 28,6 65 32,0 40 19,7 Kết quả trên cho thấy là lớp 2 buổi/ngày mà tỉ lệ học sinh yếu còn nhiều. Nếu thực trạng này kéo dài sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng không những cho môn Tiếng Việt mà còn ảnh hưởng đến các môn học khác. Kết quả đó là một sự khó khăn và trăn trở cho chúng tôi. Vì thế, chúng tôi đã tìm ra một số nguyên nhân của thực trạng đó là: 1.Về học sinh: – Do các em đã quen với môi trường ở lớp mẫu giáo chơi nhiều hơn học và hôm nay đã sang với môi trường mới (lớp Một) học nhiều hơn chơi cho nên các em còn quá bỡ ngỡ khi đến lớp, đến trường. – Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đồng đều, việc lĩnh hội kiến thức thiếu vững chắc. – Sự tập trung chú ý chưa cao, tư duy chưa phát triển. – Đa số học sinh còn thụ động, nhút nhát, khó nhớ, mau quên. – Chưa nắm được quy tắc đánh vần, một số em đánh vần chưa đúng quy tắc do phụ huynh dạy trước ở nhà. – Nhận thức học tập của các em còn nhiều hạn chế. – Phần đông gia đình học sinh là dân ở nhiều nơi tập trung về sinh sống, do đó, cách phát âm ở các em có nhiều sai sót, lẫn lộn như: phát âm chưa rõ, thói quen nói theo tiếng địa phương. – Học sinh thường phát âm sai các vần dễ lẫn lộn. Ví dụ: ưi/ ươi, ai/ ay, ao/ au, ăc/ ăt, ui/ iu, ăn/ ăng, an/ anh, ơi/ ưi – Bên cạnh đó, một số em chưa có ý thức học tập, không tập trung trong giờ học dẫn đến không nắm chắc hết các vần sau khi kết thúc giai đoạn vần. 2. Về giáo viên: – Chưa có trách nhiệm đối với việc rèn nền nếp học cho học sinh. – Chưa đi sâu vào cách tổ chức lớp học như thế nào cho sinh động để gây hứng thú và tính tích cực trong học tập của học sinh. – Chưa phát hiện kịp thời học sinh yếu để kèm cặp. – Dạy theo lối áp đặt và chạy theo thời gian, không dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. 3. Về phụ huynh: – Do địa bàn ở đây là biên giới, dân cư số đông là Việt kiều Campuchia về, mặt bằng dân trí không đồng đều, đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn, nhận thức còn hạn chế, có nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn giao phó cho giáo viên vì cho rằng “việc học ở trường là đủ” không cần phải bận tâm kể cả những buổi nghỉ thứ bảy, chủ nhật, hoặc có quan tâm thì dạy con chưa đúng quy tắc đánh vần. Từ những ý thức sai lầm ấy đã dẫn đến chất lượng học tập của con em mình chưa cao. 4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học: III- NỘI DUNG VẤN ĐỀ: * Phân công thành viên trong tổ: – Mỗi giáo viên chủ nhiệm chịu trách nh … – Phân loại đối tượng HS từ đó có phương pháp phù hợp với từng đối tượng HS. – Vận dụng các phương pháp / kĩ thuật dạy học vào tiết học một cách hiệu quả. – Xây dựng nề nếp học tập, sử dụng hiệu quả 15 phút truy bài đầu giờ. + Kẻ bảng con, kẻ bảng lớp, khăn ẩm. + Sắp xếp ngăn nắp đồ dùng học tập. + Thực hiện các kí hiệu lấy đồ dùng dạy học. + Xây dựng góc ngôn ngữ. + Xây dựng đôi bạn cùng tiến; sắp xếp chỗ ngồi hợp lí. – Mỗi tháng hợp 2 lần gv đưa ra các giải pháp mới để rút kinh nghiệm triển khai toàn khối thực hiện các giải pháp, phương pháp rút kinh nghiệm kịp thời. – Tăng cường làm đồ dùng dạy học. – Tham mưu với BGH để có sự chỉ đạo kịp thời. 1. Với giáo viên: – Khi dạy lớp Một người giáo viên cần chú ý coi trọng quan điểm dạy học, phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh, làm cho học sinh được đọc nhiều, viết nhiều. – Nội dung, phương pháp giảng dạy của giáo viên phải phù hợp với từng đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu. – Mặt khác giáo viên cần tăng cường những lời khen để động viên, khuyến khích các em nhằm tạo hứng thú học tập tốt cho các em. – Giáo viên phải chịu khó quan tâm đến từng cá nhân học sinh đặc biệt là học sinh yếu kém, đọc mẫu, viết mẫu đúng hướng dẫn. – Khi lên lớp giáo viên phải cố gắng khắc phục khó khăn để có đồ dùng trực quan, tranh ảnh, vật thật phục vụ cho bài dạy. Ví dụ: Những đồ dùng trực quan đơn giản: + Cái chổi dạy vần ôi. + Ngôi sao dạy vần ao. + Quả cam dạy vần am. + Cái bàn dạy vần an. + Cuộn len dạy vần en. + Cái bảng dạy vần ang. + Quả chanh dạy vần anh. + Cuốn sách dạy vần ach. + Thước kẻ dạy vần ươc. + Hộp sữa dạy vần ôp. + Tờ lịch dạy vần ich. – Trong giờ học, giáo viên phải đặc biệt chú ý cho học sinh sử dụng thật nhiều bộ chữ cái ghép tiếng Việt, giáo viên cần nghiên cứu, suy nghĩ để có thể phát huy tác dụng của bộ chữ ghép. Cần hướng dẫn tốt cho học sinh thực hành, luyện tập cá nhân ghép vần, ghép tiếng, hoặc tổ chức trò chơi, để học sinh được “học mà chơi, chơi mà học”. Ví dụ: Cho học sinh tìm vật có tên chứa vần vừa học trong số những vật mà giáo viên đã chuẩn bị để trên bàn, điều này góp phần không nhỏ trong việc gây hứng thú cho học sinh. – Ở mỗi tiết dạy Tiếng Việt (học vần) giáo viên cần nắm được những vần mà học sinh chưa nhớ, giáo viên ghi những vần đó vào bảng phụ để rèn học sinh vào 15 phút đầu giờ và các tiết buổi chiều để thuận lợi cho giáo viên kiểm tra học sinh yếu hằng ngày. – Việc tổ chức lớp học, tổ chức luyện tập, củng cố có thể thực hiện linh hoạt bằng nhiều hình thức khác nhau, cá nhân, nhóm đôi, nhóm bốn, tổ, cả lớp – Vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp, nhiều hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là: miêu tả, giảng giải, hỏi đáp, sử dụng đồ dùng trực quan, rèn luyện theo mẫu, trò chơi. – Trong tiết dạy, khi giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, giáo viên phải là người phát âm chuẩn xác. Ví dụ: ở bài học vần ong + Giáo viên phải đọc mẫu thật chuẩn. + Khi dạy, giáo viên cho học sinh ghép vần mới ở bộ chữ o ghép với n và g được vần ong. + Cho học sinh phân tích: o-ng-ong, đánh vần o ngờ ong. + Khi ghép tiếng mới học sinh chỉ thay phụ âm đầu để ghép, vần giữ nguyên, lúc này giáo viên đến giúp đỡ học sinh yếu, có thể gợi ý cho học sinh lấy âm đầu đã học để ghép với vần mới và nhẩm đánh vần thành tiếng mới. + Gọi học sinh đọc cá nhân. – Như vậy, giáo viên phải rèn cho học sinh yếu nắm được tất cả các âm, vần, trong lúc học giáo viên có thể ôn cho học sinh nhớ lại các âm, vần đã học. – Khi dạy vần mới, dạy theo nội dung sách giáo khoa, dạy đánh vần vần mới, hướng dẫn ghép âm, vần thành tiếng mới. – Hướng dẫn học sinh đọc từ ngữ, câu ứng dụng làm quen với cách đọc từ, cụm từ,câu ngắn, hướng dẫn học sinh viết vần mới vào bảng con. Cho học sinh luyện tập bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. – Ở giai đoạn âm giáo viên dạy cho học sinh nắm chắc tất cả các âm đã học (đọc được, viết được, ghép được tiếng). – Ở giai đoạn vần, đặc biệt là trong tiết học mới, giáo viên cần dạy cho học sinh cơ chế đánh vần đúng và chuẩn xác. Nếu học sinh chưa phát âm chuẩn ta so sánh để học sinh đọc đúng hơn. Vì vậy, giáo viên cần tìm tòi suy nghĩ dạy cho học sinh cách phát âm chuẩn để các em phát âm đúng và viết đúng chính tả ở môn Tiếng Việt và các môn học khác. Trao đổi kĩ với phụ huynh cơ chế đánh vần, tiếng. Ví dụ: đánh vần “ôi”: ô-i-ôi. Đánh vần tiếng “chổi”: chờ-ôi-chôi-hỏi-chổi. Giáo viên thường xuyên kiểm tra trong từng tiết dạy và truy bài 15 phút đầu giờ, học sinh đọc nhiều, viết nhiều, giáo viên đặt ra những câu văn ngắn có các vần dễ lẫn lộn để học sinh luyện đọc nhiều. – Giai đoạn vần giáo viên dạy cho học sinh nắm chắc tất cả các vần đã học (đọc được, viết được, ghép được tiếng). 2. Với học sinh: Phân loại học sinh để có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo cụ thể: Đối với học sinh khá giỏi: – Nâng cao hơn khi học sinh đã có được khả năng căn bản về nghe, nói, đọc, viết, tìm nhiều tiếng, từ có chứa vần vừa học. Ví dụ: bài vần im Tím, kim, mỉm, nhím, thím, phim Màu tím, kim chỉ, con nhím, mỉm cười, chú thím, bộ phim – Đối với phát triển lời nói tự nhiên thì giáo viên có thể hỏi để học sinh trả lời câu dài hơn và đảm bảo tròn câu, đủ ý, nói lưu loát hoặc khi viết không chỉ viết đúng mà phải đẹp sắc sảo từng nét viết, động viên khuyến khích học sinh có ý thức tự giác học ở mọi lúc, mọi nơi. Đối với học sinh khá: – Theo dõi sự chú ý của học sinh, kiểm tra kịp thời sự tiếp thu bài phân tích sai lầm và hướng dẫn sửa chữa. – Tìm cách nâng dần những kĩ năng, kiến thức đã đạt được, hoàn thiện hơn vốn tiếng Việt cho học sinh. Đối với học sinh trung bình-yếu: – Học sinh yếu phải được sắp xếp ngồi ở đầu bàn hai dãy để giáo viên lên xuống, tiện việc quan tâm và uốn nắn các em. Đồng thời, mỗi học sinh yếu sẽ ngồi với một học sinh khá giỏi, bởi vì có câu: “học thầy không tày học bạn” sẽ giúp các em thực hiện tốt phong trào “đôi bạn cùng tiến”. – Ngoài ra trong giờ học, mỗi học sinh có một tấm bìa cứng màu trắng kích thước 15 x 20cm dùng để kê tay trong khi viết và cũng là phương tiện học vần rất tốt: Giáo viên dạy bài nào thì khi phân tích vần xong học sinh sẽ tự tay mình viết vần đó vào tấm bìa theo thứ tự. Ví dụ: Hôm nay học vần “ui, ưi” thì tấm bìa của các em đã ghi: ia, ua, ưa, oi, ai, ôi, ơi, học sinh sẽ ghi tiếp vần ui, ưi vào sau vần “ơi” để các em khắc sâu, nhớ lâu hơn và một lần nữa tự khẳng định lại kiến thức mình vừa học. – Mỗi học sinh có một bộ chữ cái tiếng Việt để học sinh ghép tiếng sau khi giáo viên giới thiệu từ khóa. – Mặt khác, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho học sinh thói quen tự học vần, tiếng, từ qua hình ảnh các con vật, truyện, sách, báo được trưng bày ở “Góc ngôn ngữ” vào các giờ chơi, các tiết hoạt động ngoài giờ để các em khắc sâu và ghi nhớ các vần đã học. – Bên cạnh đó giáo viên thường xuyên tổ chức cho các em tham gia vào các trò chơi như: hái quả tìm vần, bốc thăm tên các con vật có chứa vần đã học, chọn đồ vật được chuẩn bị sẵn ở “Góc ngôn ngữ” đọc tên và nói tên vần; tổ chức cho học sinh đọc truyện theo nhóm đôi để các em được tiếp xúc với mặt chữ nhiều và gây sự hứng thú trong học tập. 3. Với phụ huynh: – Tăng cường các cuộc họp phụ huynh sau các giai đoạn (giữa học kì I- cuối học kì I- giữa học kì II- cuối học kì II) để báo cáo kết quả học tập của các em đồng thời vận động cha mẹ học sinh phối hợp chặt chẽ hơn trong việc giáo dục học sinh làm cho mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường ngày càng tốt đẹp. – Bên cạnh đó giáo viên có thể trao đổi với phụ huynh về cơ chế đánh vần, tiếng, để phụ huynh có thể kèm thêm con em mình ở nhà. Ví dụ: đánh vần “ôi”: ô-i-ôi. Đánh vần tiếng: “chổi” chờ-ôi-chôi-hỏi-chổi. Đồng thời tự chọn những biện pháp mới giúp dạy và học có hiệu quả hơn. IV- KẾT QUẢ: Qua từng bước thực hiện những biện pháp mới vào thực tiễn khối 1, kết quả môn Tiếng Việt đạt được ở các giai đoạn như sau: Các giai đoạn Lớp Tổng số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % GHKI 1A 70 34,5 60 29,6 53 26,1 20 9,8 1B 74 34,5 58 28,6 54 26,6 17 8,3 1C 1D 1E 1G TC 203 CHKI 1A 1B 1C 1D 1E 1G TC 203 GHKII 1A 1B 1C 1D 1E 1G TC 203 Bên cạnh những ưu điểm, đề tài vẫn còn những mặt hạn chế: một số học sinh còn thụ động, chưa hăng say trong học tập, vẫn còn học sinh yếu. Vì vậy, từ đây đến cuối năm chúng tôi sẽ nghiên cứu thêm và bổ sung những biện pháp mới để tạo sự hứng thú học tập nhằm hạn chế số học sinh yếu. C- KẾT LUẬN: I-BÀI HỌC KINH NGHIỆM : Khi vận dụng đề tài vào thực tiễn, chúng tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt (giai đoạn vần) cho học sinh cần phải: + Vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp, nhiều hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là những ưu điểm lớn nhất của phương pháp dạy học Tiếng Việt Một (giai đoạn vần) do đó, giáo viên cần thực hiện tốt việc rèn học sinh yếu trong từng tiết dạy. + Sắp xếp một cách khoa học về chỗ ngồi của từng đối tượng học sinh, đồng thời có tính thực tế trong việc sử dụng phương pháp dạy học, vận dụng triệt để bộ chữ cái mà học sinh ghép vần và tiếng trong mỗi tiết dạy để học sinh nắm vững về vần hơn. + Tổ chức lớp học sinh động với vai trò: “thầy chủ đạo, trò chủ động” nhằm phát huy tính tích cực khả năng độc lập của học sinh. + Áp dụng đổi mới phương pháp dạy và học nâng cao năng lực của học sinh mà vẫn đảm bảo tiết học nhẹ nhàng, thoải mái, để học sinh“học mà chơi, chơi mà học”. + Giáo viên cần phải có sự chuẩn mực trong cách đọc: đọc đúng, phát âm chính xác, to, rõ ràng. + Giáo viên phải có sự kiên trì, nhẫn nại và dịu dàng khi rèn đọc, viết cho học sinh. + Phải có sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để hướng dẫn các em rèn luyện thêm khi ở nhà. III- HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP: Từ kết quả đã đạt được khi vận dụng những biện pháp nâng cao chất lượng giai đoạn vần, hướng nghiên cứu tiếp của chúng tôi là: “Biện pháp nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt (giai đoạn tập đọc)” vào năm học tới 2010 – 2011. —— ****** ——
Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Môn Tiếng Anh.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG ANH.
Thứ năm – 24/01/2019 20:20
I. THỰC TRẠNG CỦA BỘ MÔN TIẾNG ANH. 1. Các mặt tích cực. -Từ khi triển khai dạy học bộ môn này cho đến nay trường thu được nhiều kết quả và tiến bộ rõ rệt: – Về phía giáo viên: Chất lượng dạy và học Tiếng Anh đã có sự tiến bộ. Chất lượng và số lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn này cơ bản đáp ứng được yêu cầu nội dung chương trình giảng dạy. Đội ngũ giáo viên trẻ, yêu nghề, nhiệt tình trong công tác, luôn cố gắng đổi mới phương pháp giảng dạy để phù hợp hơn với các đối tượng học sinh. – Về cơ sở vật chất: đã có phòng học Tiếng Anh. 2. Các mặt hạn chế. Bên cạnh những kết quả đạt được, tuy nhiên trong thực tế hiện nay chất lượng, hiệu quả việc dạy học Tiếng Anh vẫn còn là một vấn đề cần phải tiếp tục đầu tư tìm giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học đối với bộ môn này. Tôi xin đưa ra một vài nguyên nhân để tham khảo, trao đổi: - Trước hết về phía giáo viên: Giáo viên tuy có nhiều cố gắng trong việc vận dụng phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh, nhưng giáo viên chỉ có thể áp dụng được đối với một số bài, một số tiết và một số bộ phận học sinh. Nguyên nhân một phần là do sĩ số học sinh đông trong một lớp, một phần do một số giáo viên tuổi nghề còn ít nên chưa có kinh nghiệm giảng dạy nên chất lượng, hiệu quả dạy học của bộ môn này chưa thật sự như mong muốn. - Về phía học sinh: Bên cạnh những học sinh yêu thích học ngoại ngữ vẫn còn không ít học sinh cảm thấy không thích học hoặc cảm thấy khó khăn trong việc học bộ môn này. Đối với học sinh lớp 3 bắt đầu học Tiếng Anh theo chương trình thí điểm 10 năm thì hơi khó vì các em giờ mới làm quen. Đa phần học sinh ở nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với sách tham khảo, các phần mềm học tiếng Anh hay Internet để học Tiếng Anh tốt hơn. – Chất lượng đại trà còn thấp so với các trường trong huyện, chưa có nhiều HS đạt giải cao trong các kì thi Học sinh giỏi Tiếng Anh hay cuộc thi qua mạng - Ngoài ra: Chương trình, sách giáo khoa còn nặng, có nhiều bài quá sức học sinh, nhất là đối với các khối 4,5 trở lên. Vì vậy, để truyền tải hết nội dung sách giáo khoa theo phân phối chương trình, giáo viên không thể đi sâu giảng kỹ. Thêm nữa, do môi trường ở nông thôn nên việc vận dụng ngoại ngữ còn rất hạn chế, vì vậy học sinh không có điều kiện để rèn luyện các kỹ năng. Vì thế tôi đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh như sau: II. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG ANH: Trên các cơ sở đã trình bày, tôi xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng dạy – học Tiếng Anh như sau: -Về phía giáo viên: Cần phải yêu cầu giáo viên năng động, tích cực đổi mới phương pháp hơn để tìm ra các cách dạy hay, sáng tạo để làm cho các tiết học sinh động, HS tiếp thu một cách tích cực vì đặc trưng của bộ môn này ở TH là HS học thông qua hoạt động chơi, thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ dạy học của mình. Giáo viên cần tích cực dự giờ thăm lớp, học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp của môn TA và các môn học khác. GV phải sử dụng công nghệ thông tin thành thạo để soạn powerpoint or phần mềm sách tiếng anh dạy vì dạy pp này hs sẽ thích học hơn. Mỗi bài học gv phải cho hs luyện nói nhiều để hs tự tin hơn trong giao tiếp và yêu cầu hs viết thuộc từ mới mẫu câu và chuẩn bị bài mới trước khi lên lớp. Gv tham khảo sách báo và các phần mềm học tiếng anh để dạy và hướng dẫn hs học. Đặc biệt hơn là gv cần tăng cường việc tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nắm chắc kiến thức để đáp ứng yêu cầu giảng dạy theo Đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 cũng như chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiếng Anh Tiểu học. Cụ thể: đối với giáo viên dạy Tiểu học phải có trình độ năng lực Tiếng Anh tương đương B1 và (B2) của Khung Tham chiếu năng lực ngoại ngữ châu Âu. – Đối với hs. – Thứ nhất các em phải học thuộc từ mới mẫu câu và làm bài tập đầy đủ. – Khuyến khích hs học qua các phần mềm tiếng anh qua mạng như học tiếng anh 123. Monkey Junier… – Yêu cầu hs lập nhiều nick để hs luyện thi ioe ở nhà hoặc ở trường mỗi tuần tuyên dương hs nhiều nick điểm cao dưới cờ. – Khuyến khích các em tham gia CLB Tiếng Anh. - Đối với các nhà trường: Cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng môn TA cũng như đội ngũ GV.
Nguồn tin: Giáo viên: Nguyễn Thị Thủy
Để Nâng Cao Chất Lượng Đầu Tư Công Trong Giai Đoạn 2022
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Một là, hoàn thiện khung khổ pháp lý về quản lý đầu tư công
Luật Đầu tư công năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật với nhiều quy định mới giúp quản lý chặt chẽ toàn bộ quá trình đầu tư công, từ chủ trương đầu tư, thẩm định nguồn vốn đối với các chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch đầu tư; thực hiện kế hoạch, theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch đầu tư công.
Có thể nói, việc thể chế hóa quy trình quyết định chủ trương đầu tư đã ngăn ngừa sự tùy tiện, chủ quan, duy ý chí trong việc quyết định chủ trương đầu tư, nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định chủ trương đầu tư.
Những quy định đổi mới về công tác thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn trước khi quyết định chủ trương đầu tư đã khắc phục được tình trạng phê duyệt dự án, nhưng không đảm bảo được nguồn vốn, phê duyệt quá nhiều dự án, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả của chương trình, dự án đầu tư công, bảo đảm bố trí vốn một cách tập trung cho các mục tiêu, dự án ưu tiên cần thiết phải đầu tư.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 đã phát sinh những khó khăn, vướng mắc. Để khắc phục, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư công năm 2019 nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về đầu tư công, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong quản lý đầu tư, ngân sách nhà nước, theo đó phân cấp triệt để hơn nữa việc thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, vừa bảo đảm thẩm quyền của các cơ quan, vừa tăng tính chủ động, phù hợp điều kiện thực tế của từng bộ, cơ quan trung ương, địa phương, tăng cường trách nhiệm của người quyết định đầu tư, chủ đầu tư trong việc quyết định, tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả đầu tư.
Hai là, đã xử lý dứt điểm được tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản
Kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020 đã bố trí đủ vốn ngân sách trung ương cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương để thanh toán toàn bộ số nợ đọng xây dựng cơ bản nguồn ngân sách trung ương đến hết ngày 31/12/2014 của các dự án được giao kế hoạch đầu tư công trung hạn là 8.547,3 tỷ đồng (trong đó thanh toán cho các dự án thuộc các ngành, lĩnh vực, chương trình mục tiêu là 7.481,3 tỷ đồng; các dự án thuộc 02 Chương trình mục tiêu quốc gia 1.066,024 tỷ đồng) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020).
Việc ứng trước vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm việc ứng trước kế hoạch vốn phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công, Luật NSNN. Từ năm 2017, sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 26/2016/QH14 và Luật NSNN năm 2015 có hiệu lực thi hành, tổng số ứng trước vốn ngân sách trung ương hằng năm trong giai đoạn 2017-2020 là 1.843,101 tỷ đồng và đã thu hồi toàn bộ số vốn này theo quy định.
Ba là, hiệu quả đầu tư công đã từng bước cải thiện, đầu tư tập trung, số dự án khởi công mới từng năm trong giai đoạn 2016-2020 giảm dần
Cùng với hiệu quả đầu tư được cải thiện, cơ cấu đầu tư cũng có những chuyển biến theo hướng tích cực. Xét về cơ cấu, nguồn chi tiêu công từ ngân sách trung ương có xu hướng giảm xuống dần từ giai đoạn 2003-2019; ngược lại, nguồn chi tiêu công do địa phương quản lý có chiều hướng tăng dần, đỉnh điểm cao nhất là 59,5% năm (2019) (Hình). Lý do là Chính phủ đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư công. Trước năm 2003, tất cả các dự án đầu tư công đều do cấp trung ương phê duyệt. Từ năm 2004, phân cấp quản lý đầu tư công mạnh hơn, quyền lực và tính chủ động của địa phương đối với việc huy động, phân bổ và sử dụng vốn ngân sách dự án đầu tư tăng lên. Do đó, từ năm 2006 đến nay, phần lớn dự án được phân cấp cho ngành và địa phương.
Hình: Phân nguồn vốn đầu tư công theo cấp độ quản lý
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả
Bốn là, đầu tư công đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững.
Trong những năm đầu giai đoạn 2016-2020, đã đưa một số công trình, dự án giao thông quan trọng vào sử dụng, như: các dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, các dự án đường cao tốc hướng tâm có tác động lớn trong việc nâng cao năng lực vận tải. Nhiều công trình, dự án quan trọng, quy mô lớn được tập trung đầu tư hoàn thành trong giai đoạn 2016-2020, Như: các đường bộ cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, Hoà Lạc – Hoà Bình, Hạ Long – cầu Bạch Đằng; các tuyến quốc lộ: Tân Vũ – Lạch Huyện, Quốc lộ 3 đoạn Hà Nội – Thái Nguyên, Lộ Tẻ – Rạch Sỏi, Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội – Bắc Giang, Pháp Vân – Cầu Giẽ (giai đoạn 2); các hầm: Đèo Cả, Cù Mông; cảng Lạch Huyện, luồng sông Hậu. Đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng thông qua phương thức đối tác công – tư, một số dự án quan trọng đã hoàn thành, như: Cảng hàng không Vân Đồn, cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Hạ Long – Vân Đồn…. Khởi công nhiều đoạn của cao tốc Bắc – Nam. Đến nay, đã hoàn thành đầu tư xây dựng 880 km đường bộ cao tốc, mạng lưới quốc lộ đạt 24.598 km, đáp ứng nhu cầu vận tải của nền kinh tế. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị với tốc độ đô thị hóa tăng từ 35,7% năm 2015 lên khoảng 39,3% năm 2020.
Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch… được tiếp tục củng cố và phát triển, đặc biệt là ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo sinh kế cho người nghèo.
SONG, VẪN CÒN NHIỀU HẠN CHẾ
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, Kế hoạch đầu tư công trong giai đoạn 2016-2020 chưa đạt được hiệu quả như mong đợi.
(i) Về chính sách: Vẫn còn sự chậm trễ trong việc ban hành chính sách tái cơ cấu đầu tư công và từ phía các cơ quan tổ chức thực thi các chính sách tái cơ cầu đầu tư công. Thực tế cho thấy, sự chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư công mới bắt đầu thay đổi từ năm 2014.
Mặt khác, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ vừa qua kém hiệu quả, cụ thể là 12 đại dự án kém hiệu quả, thua lỗ, thất thoát lớn của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Do vậy, tỷ trọng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước trong tổng vốn đầu tư công đáng ra cần cắt giảm, tuy nhiên, trong thời kỳ qua, tỷ trọng này chưa có xu hướng giảm. Điều này cho thấy, quá trình tái cơ cấu đầu tư công diễn ra rất chậm
(ii) Về cơ cấu đầu tư công: Cơ cấu lại đầu tư chưa gắn với cơ cấu lại tài chính ngân sách, vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương chưa được phát huy. Chi đầu tư trung ương thấp hơn chi đầu tư địa phương ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn; mới bố trí được 53% nhu cầu vốn ngân sách trung ương cho các dự án thuộc 21 chương trình mục tiêu, chưa bố trí được nguồn để thu hồi toàn bộ số vốn ứng trước, nhiều nhiệm vụ chi chưa cân đối được nguồn vốn để giải quyết dứt điểm trong giai đoạn 2016-2020.
Cơ cấu đầu tư chậm thay đổi, thu hút nguồn lực từ khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào khu vực công đã có chuyển biến tích cực nhưng chưa đạt được yêu cầu đề ra. Chất lượng quy định quản lý đầu tư công còn bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt ở khâu lựa chọn, đánh giá hiệu quả dự án.
(iii) Về phân cấp đầu tư công: Mặc dù được chuyển dịch với kỳ vọng địa phương ngày càng trở thành động lực tăng trưởng mạnh mẽ, nhưng việc tỷ trọng chi đầu tư của Trung ương giảm cũng đã ảnh hưởng đến việc tập trung nguồn lực để thực hiện các dự án, mục tiêu quan trọng của quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh sự phối hợp vùng còn hạn chế. Bên cạnh đó, tỷ trọng đầu tư cao được quyết định bởi cấp địa phương ở Việt Nam dẫn đến rủi ro đầu tư dàn trải và giảm hiệu suất đầu tư, trừ khi có sự phối hợp tốt giữa các dự án hạ tầng lớn, bao gồm cả các dự án hạ tầng giữa các địa phương. Để thay đổi cơ bản tình trạng này, về lâu dài cần xem xét lại phân cấp kinh tế – xã hội nhằm tăng cường hiệu quả tổng thể.
(iv) Giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công mặc dù đã chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn chậm so với yêu cầu. Tiến độ của một số dự án trọng điểm, dự án quan trọng quốc gia chậm. Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên. Tình trạng lãng phí, thất thoát, chất lượng công trình thấp trong đầu tư và xây dựng chưa được xử lý triệt để.
(v) Nguồn thu NSNN đang sụt giảm dẫn đến nguồn vốn dành cho đầu tư công khó được đảm bảo. Đại dịch Covid-19 trong năm 2020 đã tác động lớn đến nền kinh tế nói chung và đến thu NSNN nói riêng. Để giảm thiểu tác động của đại dịch, chúng ta đã triển khai các giải pháp giãn, hoãn, giảm thuế suất hỗ trợ doanh nghiệp, tác động đến nguồn thu, nên khó khăn trong việc dự báo, xác định khả năng cân đối chi NSNN cho chi đầu tư phát triển trong giai đoạn 2021-2025. Từ tình hình thực tiễn nêu trên, Chính phủ đã trình Quốc hội cho phép kéo dài thời kỳ ổn định NSNN giai đoạn 2017-2020 sang năm 2021 và được Quốc hội quyết nghị tại Nghị quyết số 122/2020/QH14, ngày 19/6/2020. Đến giữa tháng 9 năm 2020, Chính phủ mới xác định được dự kiến khả năng cân đối NSNN cho chi đầu tư trong giai đoạn 2021-2025 là 2,75 triệu tỷ đồng.
Nguyên nhân của các hạn chế trên theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư là do:
– Lúng túng trong những năm đầu của kỳ trung hạn giai đoạn 2016-2020 trong việc triển khai Luật Đầu tư công và văn bản hướng dẫn, đặc biệt lúng túng trong quá trình chuẩn bị và hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án.
– Chất lượng chuẩn bị dự án chưa tốt, một số bộ, cơ quan và trung ương và địa phương phê duyệt dự án chưa bảo đảm đầy đủ các quy định hiện hành. Trong công tác lập dự án, vẫn còn tình trạng một số dự án chuẩn bị đầu tư và phê duyệt dự án mang tính hình thức để có điều kiện ghi vốn.
– Chất lượng quy hoạch còn thấp, tính dự báo còn hạn chế, thiếu tính liên kết, đồng bộ gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư đặc biệt là các dự án hạ tầng. Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, mất nhiều thời gian, làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án.
– Kỷ luật đầu tư công không nghiêm, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương không chấp hành nghiêm các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư công, dẫn đến phải điều chỉnh phương án phân bổ nhiều lần, ảnh hưởng tiến độ giao kế hoạch của cả nước, lập kế hoạch đầu tư công không sát với khả năng thực hiện dẫn đến phải điều chỉnh kế hoạch trong quá trình thực hiện.
– Chất lượng cán bộ, trách nhiệm người đứng đầu, năng lực quản lý của một số chủ đầu tư ở một số nơi còn hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến việc hoàn thiện thủ tục đầu tư, thi công triển khai thực hiện dự án. Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra chưa được quan tâm đúng mức…
– Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều trở ngại, vướng mắc, mất nhiều thời gian nên làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án. Nhiều dự án phải điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư do chi phí giải phóng mặt bằng tăng cao, gây khó khăn trong việc cân đối vốn và hoàn thành dự án theo đúng tiến độ.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TRONG GIAI ĐOẠN 2021-2025
Để nâng cao hiệu quả đầu tư công, trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, phải nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công; nghiêm túc triển khai thực hiện các quy định pháp luật về đầu tư công; khẩn trương rà soát, sửa đổi, những quy định của pháp luật về đầu tư công còn vướng mắc trong quá trình thực hiện tại Luật Đầu tư công và các nghị định hướng dẫn thi hành.
Đồng thời, tăng cường quản lý đầu tư công, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác chuẩn bị đầu tư; tăng cường công tác rà soát để bảo đảm các chương trình, dự án bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm phải có đầy đủ các thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công; quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn dự phòng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn. Khoản vốn dự phòng chỉ được sử dụng cho các mục tiêu thật sự cần thiết, cấp bách theo quy định của Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công, không được sử dụng vốn dự phòng cho các dự án không đúng quy định.
Thứ hai, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư công và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư cụ thể. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công định kỳ hoặc đột xuất theo chế độ báo cáo quy định; trong đó, phải đánh giá kết quả thực hiện, những tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến nghị các cấp có thẩm quyền giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Theo dõi, đôn đốc (chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, nhà thầu) đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân dự án. Kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong triển khai kế hoạch đầu tư công, thực hiện dự án. Chủ động báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư trung hạn, hằng năm để thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Đặc biệt, cần nâng cao trách nhiệm minh bạch và giải trình công khai. Các thông tin về dự án đầu tư công phải được công bố công khai, đầy đủ, kịp thời, và chính xác, gồm trách nhiệm của các bên thực hiện dự án, các tài liệu về tài chính và quản trị dự án… Phải đảm bảo tiếng nói của người dân phải được lắng nghe và phản hồi. Cần có cơ chế hiệu lực để người dân truyền đạt ý nguyện và các ưu tiên tới chính quyền; người dân phải có quyền giám sát, phản ánh, đòi hỏi…
Thứ ba, tiếp tục thực hiện tốt, có hiệu quả quá trình tái cơ cấu đầu tư công. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Trong đó, vốn đầu tư công sẽ chỉ tập trung đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu và dự án trọng điểm, có ý nghĩa lớn, lan tỏa đến phát triển kinh tế – xã hội của cả nước và liên vùng, liên địa phương. Đối với các nguồn vốn vay để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội (ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước…): Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện đại; phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức.
Đồng thời, tạo đột phá thu hút vốn đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (PPP); đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với các dịch vụ công cộng, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân ở nông thôn; huy động nguồn lực đất đai và tài nguyên cho đầu tư phát triển.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước; đặc biệt là cơ chế quản lý vốn, tách bạch tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước./.
1. Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 63/QĐ-TTg, ngày 12/1/2018 phê duyệt Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2020
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Về tình hình thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, dự kiến Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Tài liệu báo cáo Đoàn công tác của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, ngày 29/9/2020
3. Tổng cục Thống kê (1996-2020). Niên giám Thống kê các năm, từ 1995 đến 2019
4. Nguyễn Thị Kim Chung (2020). Đầu tư công, lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1995-2019: Thực trạng và khuyến nghị, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 25, tháng 9/2020
Chuyên Đề Nâng Cao Chất Lượng Giảng Dạy Môn Tiếng Anh
Thật khó tin khi mà trong thời đại hội nhập toàn cầu, vẫn còn những học sinh coi môn tiếng Anh là “môn phụ” và học theo kiểu uể oải, đối phó. Chỉ đến khi lên đến đại học, ra làm việc, họ mới biết nhìn ra vấn đề, nhưng nhiều khi đã muộn.
Đã đến lúc cần gióng lên một hồi chuông cảnh báo về chất lượng dạy và học môn tiếng Anh trong trường phổ thông .Hiện nay, môn tiếng Anh đã được đưa vào dạy ở bậc phổ thông, từ THCS đến THPT, một số nơi đã đưa vào chương trình bậc Tiểu học. Môn Ngoại ngữ là một môn thi tốt nghiệp bắt buộc hàng năm. Một số trường đại học sau khi tuyển sinh đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Ngoại ngữ, nếu học sinh nào không đạt yêu cầu sẽ không được tiếp nhận vào học. Tuy nhiên, một thực tế là chất lượng dạy học môn Ngoại ngữ trong trường phổ thông trong t æ nh noùi chung vaø ôû tröôøng THPT Nguyeãn Thoâng noùi rieâng coøn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ hội nhập.
V aäy ñaâu laø nguyeân nhaân cuûa thöïc traïng treân ?
– CT-SGK môn TA được xây dựng theo quan điểm giao tiếp với các định hướng cơ bản là hình thành kĩ năng giao tiếp là mục tiêu cuối cùng quá trình dạy học và thể hiện tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong rèn luyện và vận dụng kĩ năng giao tiếp bằng TA.
– Nội dung chủ điểm gần gủi với cuộc sống, hoạt động thường ngàycủa HS, giúp cho HS có sự hiểu biết tương đối khái quát về đất nước, con người và nến văn hoá của một số nước sử dụng TA.
– Tuy nhiên, nội dung CT mới, lượng kiến thức nhiều, dàn trãi và nặng đối với đối tượng HS trung bình yếu, và HS vùng nông thôn nhö tröôøng chuùng ta . Nội dung kiến thức trong 1 tiết ( 45 phút ) tương đối nhiều, GV thường phải chạy đua với thời gian để hoàn thành các phần trong tiết dạy và do đó không có thời gian để rèn luyện, củng cố và khắc sâu kiến thức cho HS; Thậm chí có tiết GV phại chạy theo CT, tạo áp lực cho HS, không gây được hứng thú học tập bộ môn cho HS.
– Bài tập rèn luyện trong SGK phần nhiều được thiết kế theo hình thức tự luận ( TL ) nhưng phần lớn kiểm tra 1 tiết và học kỳ theo hình thức trắc nghiệm khách quan; Điều này thể hiện sự không đồng bộ và bất cập trong giảng dạy và kiểm tra.
– Một số nội dung chủ điểm còn xa lạ đối với HS vùng nông thôn ( các bài nói về nội dung chiến lược kinh tế trừu tượng trong SGK lớp 12-Economic Reforms sa mạc( Unit 9 – 12 các môn thể thao dưới nước – unit 12- 12 các tổ chức quốc tế, . . . . ) , ñoâi khi đó còn là vấn đề mới mẽ đối với GV, tạo ra một thử thách lớn đối với GV khi thực hiện CT-SGK mới.
* Đa số giáo viên còn trẻ , tận tâm với nghề , với học sinh .
* Có 100% giáo viên đạt chuẩn đào tạo và có 2 GV trên chuẩn .
* Đoàn kết nội bộ cao , nhất trí cao trong mọi công tác .
* Vận dụng và kết hợp đổi mới PPGD bộ môn , nhiệt tình trao đổi chuyên môn cùng đồng nghiệp để tìm phương hướng giảng dạy coù hiệu quả .
* Đa số GV nhiệt tình trong giảng dạy , song do chương trình mới nên còn gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong soạn giảng . Chưa truyền thụ hết kiến thức cho học sinh do chưa có kinh nghiệm dạy SGK mới
* 100 % Gv trong tổ là nữ , hầu hết đều có con nhỏ nên bận bịu với công việc gia đình , không có đủ thời gian học hỏi từ đồng nghiệp trong và ngoài trường dù có thiện chí.
*Dạy ngôn ngữ nhưng GV Anh văn chuùng toâi gần như bị tách rời giao tiếp, môi trường văn hóa tiếng Anh, chỉ loay hoay với công việc do áp lực thành tích, chỉ tiêu thi đua.
* Theo thạc sĩ Phạm Tấn, Phó Trưởng khoa Anh văn Trường Đại học Sư phạm chúng tôi trong giảng dạy tiếng Anh cần đảm bảo nguyên tắc 4 L: Học – Sống – Yêu – Cười (Learn – Live – Love – Laugh) thì việc học tiếng Anh mới đạt hiệu quả. Để làm được điều này, GV phải gia công rất nhiều cho bài học nhưng trước những áp lực với GV hiện nay, nguyên tắc 4 L bao giờ mới được áp dụng?.
* Một số GV chưa đầu tư thoả đáng cho chuyên môn , chưa thật sự chịu khó tự rèn , chưa tạo được sự say mê học tập bộ môn cho học sinh cũng như chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc truyền đạt kiến thức cho học sinh . Chưa chú trọng phân hoá đối tượng .
* Một số Gv còn quá dễ dãi trong việc quản lý , nhắc nhở kiểm tra học sinh , tạo cơ hội chểnh mảng trong học tập cho các em .
* Tổ trưởng chưa có kinh nghiệm quản lý CM , xử lý vấn đề đôi khi chưa khoa học . Chưa có kinh nghiệm trong công tác ôn thi TN .
* Trường nằm ở vùng ven thành phố Vl , học sinh đa phần xuất thân từ tầng lớp nông dân , chưa có môi trường và cơ hội thực hành tiếng , chưa vận dụng được nội dung đã học vào thực tế cuộc sông .
* Chất lượng đầu vào hàng năm của trường thường quá thấp .
* Nội dung đề kiểm tra một tiết và học kỳ THCS thừờng quá dễ , học sinh đầu cấp chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm tra ở đầu năm học khi chuyển từ THCS sang THPT , từ đó tạo ra sự bất mãn , chán và sợ học tiêng Anh , thụ động học tập để đối phó với GV qua những lần KT .
+ Cấu trúc đề KT THCS ( KT 45 phút và thi học kỳ 60 phút , cấu trúc đề , số lượng câu hỏi như nhau .)
* Chưa thấy được tầm quan trọng của tiếng Anh trong phát triển nghề nghiệp sau này .
* Đa phần mất kiến thức căn bản từ cấp dưới , ý thức học tập chưa cao , thiếu động cơ , mục đích học tập, chưa tự giaùc học tập , còn trông chờ vào gv và lệ thuộc vào sách học tốt quá nhiều .
* Học sinh ban KHXH & NV không có , đa số học sinh chọn các môn Toán , lý hoá để thi ĐH nên còn xem nhẹ môn tiếng Anh , chủ trương học sao cho không bị điểm quá thấp khi thi TN là đủ .
* Kỹ năng làm bài kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan còn yếu . Kỹ năng phân tích đề và nhận dạng cấu trúc chưa cao . Thái độ làm bài kiểm tra chưa nghiem túc , thể hiện qua việc chọn ngẫu nhiên , không đọc kỹ đề để lựa chọn phương án đúng .
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG ANH NĂM HỌC 2009- 2010
1. Giáo dục học sinh nhận thức vị trí và tầm quan trong của việc học tập bộ môn tiếng Anh trên lớp và trong tương lai.
2. Giáo dục học sinh về ý thức và thái độ học tập bộ môn đúng đắn, nhất là thái độ làm bài thi nghiêm túc và cố gắng hết mình để đạt kết quả khả quan hơn. Thường xuyên rèn luyện kỹ năng làm bài trắc nghiệm,kỹ năng phân tích đề thông qua các bài kiểm tra.
3. Phân hoá đối tượng học sinh để tổ chức nâng kém hiệu quả hơn, thường xuyên kiểm tra bài các học sinh yếu và lười bằng những biện pháp hữu hiệu, tạo hứng thứ học tập bằng những hình thức khen thưởng, khích lệ các em học chăm hơn. Động viên các em yếu, kém học chăm chỉ và tích cực hơn trong các hoạt động trên lớp.
4 .Cho các dạng bài tập trắc nghiệm vừa sức học sinh, rèn luyện các dạng bài tập cơ bản lặp đi lặp lại để khắc sâu kiến thức và đảm bảo cho học sinh đạt điểm 5 trở lên. Tranh thủ quỹ thời gian ở nhà của các em giao bài tập về nhà cho các em tự luyện tập thêm.
5. Tăng cường củng cố kiến thức cho học sinh yếu kém, trao đổi cùng đồng nghiệp những nội dung cô đñong , dễ hiểu và tìm ra PP giúp các em khắc sâu bài học hơn.
6. Khuyến khích và tổ chức nhóm học tập trên lớp và ở nhà. Rèn luyện nề nếp tự học và tự đánh giá mức độ tiếp thu bài học của mình. Xây dựng môi trường học tập bộ môn tự nhiên và không gây áp lực cho các em.
7. Kết hợp cả hai chương trình chuẩn và nâng cao để rút ra kiến thức chuẩn truyền đạt cho học sinh ngay từ lớp 10. Giáo viên giảng dạy lớp 12 cần cung cấp và rền luyện cho học sinh kiến thức toàn cấp học để có thể đáp ứng đề kiểm tra trên lớp và học kỳ.
9. Giáo viên luôn tự rèn luyện, học hỏi thêm về chuyên môn, đầu tư nhiều trong soạn giảng, vận dụng PPDH hiệu quả, tạo sự hứng thú học tập và tích cực hoạt động của học sinh. Học hỏi kinh nghiệm từ các trường có chất lượng cao để từng bước đưa chất lượng của trường đi lên. Giao lưu trao đổi tài liệu, sách tham khảo về bộ môn giữa các trường.
Duy trì việc thông bài nhóm , chú ý đến những tiết khó trong CT .
Tiếp tục thao giảng , dự giờ , chân tình góp ý , rút kinh nghiệm lẫn nhau để cùng nhau nâng cao chất lượng BM .
Hướng dẫn một số GV trong tổ sử dung Internet có hiệu quả để truy cập thông tin phục vụ cho công tác giảng dạy .Giới thiệu những trang WEB học tiếng Anh trực tuyến các kỹ năng , giúp Gv trao dồi trình độ chuyên môn , và có thể tải các bài tập có chất lương phục vụ cho tiết dạy trên lớp – Thực hiện trong những lần họp nhóm CM .
Tổ chức ngoại khoá nâng cao chất lượng cho học sinh 10, 11 vào tuần thứ 2 tháng 12( chuẩn bị kiến thức , rèn kỹ năng làm bài trắc nhghiệm – kế hoạch đính kèm ) – Nhóm trưởng phụ trách
Tổ chức ngoại khóa nâng cao chất lượng cho học sinh khối 12 trong tuần thứ 3 của tháng 2 , và tuần thứ 2 trong tháng 5 . ?( hệ thống hoá chuẩn kiến thức thi TN , rèn kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm ) TT và các GV 12 .
Tổ chức CLB Tiếng Anh , sinh hoạt lần 1 trong tháng 12 – sau khi thi HKI – và 2 lần trong học kỳ II .
Cập nhật thông tin chi tiết về Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Môn Tiếng Việt (Giai Đoạn Vần) trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!