Bạn đang xem bài viết Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Chính Sách, Pháp Luật Về Biến Đổi Khí Hậu Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tình trạng biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay không còn là vấn đề của một địa phương, hay một quốc gia đơn lẻ nào mà đã trở thành câu chuyện của toàn nhân loại. Nhận thức đúng đắn và khoa học về những tác hại của BĐKH để có những giải pháp và hành động thiết thực là yêu cầu cấp thiết. Bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung, ứng phó với BĐKH và bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKH nói riêng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong một môi trường trong lành. Bài viết giới thiệu một số nội dung trong chính sách và pháp luật về BĐKH ở Việt Nam trong mối tương quan với việc đảm bảo quyền con người.1. Cơ sở lý luận của việc đảm bảo quyền con người trong chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậuở Việt Nam
Quyền con người được sống trong một môi trường trong lành đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do các hoạt động tác động đến chính môi trường, làm cho môi trường bị ô nhiễm, suy thoái. Nói một cách khác, chính con người đang tự tước đoạt quyền được sống trong điều kiện môi trường trong lành.
Môi trường trong lành có thể được hiểu là môi trường vật chất mà chất lượng của nó cho phép cuộc sống được đảm bảo an toàn, hài hòa với tự nhiên. Quyền con người được sống trong một môi trường trong lành, dưới góc độ pháp lý, là chất lượng môi trường xung quanh đạt tiêu chuẩn cho phép. Điều này phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia cụ thể.
Tuyên bố của Liên hợp quốc về Môi trường con người năm 1972 (Tuyên bố Stockholm) đã đưa quyền con người được sống trong môi trường trong lành thành một nguyên tắc của quan hệ giữa các quốc gia. Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố Stockholm nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được sống trong một môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”[1]. Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố của Liên hợp quốc về Môi trường và phát triển bền vững năm 1992 (Tuyên bố Rio de Janeiro) cũng khẳng định:”Con người là trung tâm của các mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”[2]. Cộng đồng quốc tế thừa nhận đây là quyền quan trọng hàng đầu, là mục tiêu hoạt động BVMT và các quốc gia đều ghi nhận quyền này trong các văn bản pháp luật của mình. Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế đó, nhất là với tư cách quốc gia ký hai tuyên bố trên, có trách nhiệm biến quyền được sống trong môi trường trong lành thành nguyên tắc pháp lý và thực tế nó đã là nguyên tắc trong pháp luật môi trường Việt Nam. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận một cách tổng quát: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật”. Quyền này được thực hiện thông qua những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như quyền được bồi thường thiệt hại, quyền tự do tín ngưỡng, quyền khiếu nại tố cáo,…
Lời nói đầu của Luật BVMT năm 1993 đề cập: “Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc BVMT nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần BVMT khu vực và toàn cầu”. Nguyên tắc này cũng được đề cập một cách gián tiếp tại khoản 2, Điều 3 Luật BVMT năm 2005: “BVMT là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình cá nhân”. Đến Luật BVMT năm 2014, nguyên tắc này được quy định ở khoản 2 Điều 4: “BVMT gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với BĐKH để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành”. Đây không chỉ là nguyên tắc mà là mục đích của pháp luật về môi trường, tất cả những quy định của pháp luật về môi trường đều nhằm thể hiện nguyên tắc này.
2. Chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậuở Việt Nam
Quyền con người được sống trong một môi trường trong lành là quyền tự nhiên của con người, là quyền tạo hóa ban tặng cho con người. Nhà nước phải ghi nhận vì xuất phát từ hiện trạng môi trường đáng báo động hiện nay, tạo cơ sở pháp lý để người dân bảo vệ quyền được sống trong một môi trường trong lành (khi nó bị xâm phạm) thông qua các hoạt động như: biểu tình, mít-tinh, gây sức ép với Nhà nước, khiếu nại, yêu cầu bồi thường thiệt hại,… Đồng thời, Nhà nước có trách nhiệm thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo vệ, phục hồi môi trường, đảm bảo cho người dân được sống trong một môi trường trong lành. Có nghĩa là khi Nhà nước đã ghi nhận quyền này thì Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo quyền đó được thực hiện trên thực tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, có hai phương thức để công chúng tiếp cận thông tin về môi trường nói chung, thông tin về BĐKH nói riêng:
– Thứ hai, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với xây dựng quy hoạch BVMT.
Một là, các cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh… chủ động công khai thông tin theo quy định và mọi người dân đều có thể tiếp cận những thông tin này. Đây là phương thức chủ yếu ở Việt Nam hiện nay. Đối với phương thức này, pháp luật quy định rõ những thông tin buộc phải công khai, hình thức công khai, người có trách nhiệm phải công khai[7]. Ưu điểm của phương thức này là công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin mà không phải qua những thủ tục phức tạp, tốn kém nhưng nó cũng có hạn chế là nội dung và chất lượng thông tin lại tùy thuộc vào các cơ quan nhà nước, Nhà nước công bố cái gì, dân biết cái đó.
Hai là,người dân chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh cung cấp thông tin về môi trường như quyền yêu cầu cung cấp thông tin môi trường của tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, của đại diện cộng đồng dân cư[8]. Phương thức tiếp cận thông tin này hiện chưa phải là kênh tiếp cận thông tin quan trọng vì pháp luật Việt Nam giới hạn thông tin mà người dân được chủ động yêu cầu cung cấp, thủ tục yêu cầu cung cấp phức tạp (phải thông qua người đại diện cộng đồng dân cư hoặc những tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp)[9] …
– Thứ ba, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; các dự án đầu tư.
Trên thực tế, những quy định về quyền tiếp cận thông tin về môi trường chủ yếu ở góc độ xác định trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước, quyền tự do thông tin mang tính nguyên tắc, hơn là tính thực tiễn. Chất lượng thông tin cung cấp nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Do đó, theo chúng tôi, cần quy định rõ việc tiếp cận thông tin về môi trường là quyền của người dân, quy định rõ các loại thông tin về môi trường người dân được phép tiếp cận, cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về môi trường của người dân.
Quy hoạch BVMT giúp có một tầm nhìn dài hạn và tổng thể về BVMT, gắn kết thực sự giữa BVMT với phát triển kinh tế – xã hội; chủ động triển khai công tác BVMT, gắn BVMT với phát triển kinh tế, an sinh xã hội và là cơ sở điều chỉnh hoặc xây dựng các quy hoạch phát triển khác, đặc biệt là phát triển bền vững. Quy hoạch BVMT phải được xây dựng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội; chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; chiến lược BVMT quốc gia bảo đảm phát triển bền vững; quy hoạch sử dụng đất; bảo đảm nguyên tắc BVMT.
– Thứ tư, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với quản lý phát thải khí nhà kính, thu hồi năng lượng từ chất thải, trong sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường, trong phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thì báo cáo đánh giá môi trường chiến lược phải thể hiện các nội dung ứng phó với BĐKH (tương tự như thế đối với dự án đầu tư thuộc đối tượng phải đánh giá tác động môi trường). Việc tích hợp nội dung ứng phó với BĐKH trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, dự án đầu tư phải dựa trên cơ sở đánh giá tác động qua lại giữa các hoạt động của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch với môi trường, BĐKH và xây dựng hệ thống giải pháp BVMT, ứng phó với BĐKH.
Trên thực tế, việc tham vấn ý kiến trong các báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường còn được đánh giá là “hình thức”. Các ý kiến được tham vấn có giá trị tham khảo đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quyết định triển khai hay không thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực hay dự án đầu tư chứ không có tính chất quyết định, dẫn đến tranh chấp phát sinh. Do đó, theo chúng tôi, cần quy định rõ cách thức, đối tượng, thủ tục và giá trị của tham vấn trong thực hiện hoạt động đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường.
– Thứ năm, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với hoạt động khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Cho đến nay, chúng ta chưa biết hết nguyên nhân của BĐKH, nhưng một trong những nguyên nhân chính đã được thừa nhận rộng rãi là do con người phát thải quá nhiều khí nhà kính vào bầu khí quyển, vượt quá khả năng hấp thụ những khí này của trái đất, dẫn đến làm gia tăng lượng khí nhà kính trong bầu khí quyển so với tỷ lệ tự nhiên vốn có, làm gia tăng hiện tượng hiệu ứng nhà kính và làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên. Con người có quyền phát thải khí nhà kính nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của bản thân với quy mô nhỏ; nhưng đến mức nào đó, thì việc kiểm soát và quản lý phát thải khí nhà kính từ các hoạt động của con người là điều cần thiết. Việc quản lý phát thải khí nhà kính bao gồm xây dựng hệ thống quốc gia về kiểm kê khí nhà kính; thực hiện các hoạt động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các – bon rừng, bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái; kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; hình thành và phát triển thị trường tín chỉ các – bon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ các – bon thế giới; hợp tác quốc tế về giảm nhẹ khí nhà kính[14].
Để giảm lượng khí nhà kính phát thải vào bầu khí quyển, cần hạn chế sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên có nguồn gốc hóa thạch (tài nguyên không thể phục hồi như dầu lửa, than đá, khí đốt,…), phát triển năng lượng tái tạo (là năng lượng được khai thác từ nước, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh học và các nguồn tài nguyên năng lượng có khả năng tái tạo khác), khuyến khích sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường, thu hồi năng lượng từ chất thải, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ ứng phó với BĐKH. Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ về ứng phó với BĐKH được ưu tiên như: phát triển ngành và liên ngành khoa học về quản lý, đánh giá, giám sát và dự báo tác động của BĐKH đối với phát triển kinh tế – xã hội, môi trường, sức khỏe cộng đồng; hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ hiện đại trong giảm nhẹ khí nhà kính, thích ứng với BĐKH; tăng cường sức cạnh tranh của các ngành kinh tế, sản xuất trọng điểm, phát triển nền kinh tế các – bon thấp và tăng trưởng xanh. Cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thực hiện hoặc tham gia hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm ứng phó với BĐKH[15].
Do nguồn lực về kinh tế còn hạn chế nên nguồn lực cho hoạt động BVMT nói chung và nguồn tài chính hỗ trợ trong phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ để tìm ra những nguồn nguyên liệu sạch, công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam còn chưa tương thích. Giải quyết bài toán BĐKH phải bao gồm cả các biện pháp về chính trị, tuyên truyền giáo dục, kinh tế, khoa học công nghệ và cả pháp lý. Trên thực tế, ở Việt Nam, việc áp dụng biện pháp tuyên truyền giáo dục là phổ biến hơn các biện pháp khác. Do đó, theo chúng tôi, Nhà nước cần dành khoản chi thích hợp cho hoạt động phòng ngừa, ứng phó với BĐKH; có nhiều quy định ưu đãi về tài chính cho những chủ thể đầu tư tốt các giải pháp tiên tiến trong hoạt động phát thải.
Hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên một mặt tác động đến sự suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, mặt khác gây tác động xấu đến môi trường, gia tăng BĐKH. Tùy thuộc vào khả năng đáp ứng các nhu cầu của con người mà tài nguyên thiên nhiên được chia thành: tài nguyên vĩnh viễn (tài nguyên vô tận); tài nguyên có thể phục hồi (tài nguyên có khả năng tái tạo); tài nguyên không thể phục hồi (tài nguyên không có khả năng tái tạo)… Khai thác tài nguyên không thể phục hồi và sử dụng chúng trong các hoạt động sản xuất của con người làm gia tăng lượng khí nhà kính; khai thác tài nguyên rừng làm giảm hấp thụ khí nhà kính; trong khi khai thác tài nguyên vĩnh viễn đang là sự lựa chọn của các quốc gia trong tương lai. Do đó, khai thác bền vững các nguồn tài nguyên là hướng tiếp cận giảm thiểu BĐKH. Đối với tài nguyên vĩnh viễn, cần triệt để khai thác. Đối với tài nguyên có thể phục hồi, khai thác trong giới hạn sự phục hồi. Đối với tài nguyên không thể phục hồi, phải khai thác tiết kiệm.
Luật BVMT năm 2014 quy định hoạt động BVMT trong điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Theo đó, “các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học phải được điều tra, đánh giá thực trạng, khả năng tái sinh, giá trị kinh tế để làm căn cứ lập quy hoạch sử dụng hợp lý; xác định giới hạn cho phép khai thác, mức thuế tài nguyên, phí BVMT, ký quỹ phục hồi môi trường, bồi hoàn đa dạng sinh học, bồi thường thiệt hại về môi trường, các biện pháp khác để bảo vệ tài nguyên và môi trường”[16]. Luật BVMT 2014 cũng quy định về BVMT trong điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; BVMT trong hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản[17]. Các quy định cụ thể được đề cập trong các văn bản pháp luật về tài nguyên thiên nhiên[18] liên qua đến các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Về nguyên tắc, khi khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các chủ thể phải có giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Tuy nhiên, dù có hay không có giấy phép thì khi khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, các chủ thể vẫn phải đáp ứng các yêu cầu về BVMT.
[1] Xem: Các Công ước quốc tế về BVMT, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 11.
[2] Xem: Các công ước quốc tế về BVMT, Tlđd, trang 31.
[3] Chương IV, bao gồm 9 điều (từ Điều 39 đến Điều 48).
[4] [4] Xem Điều 46 Luật BVMT năm 2014.
[6] Khoản 1, 3 Điều 46 Luật BVMT năm 2014.
[7] Điều 131 Luật BVMT năm 2014.
[8] Điều 145, 146 Luật BVMT năm 2014.
[10] Xem các Điều 8 đến Điều 12 Luật BVMT năm 2014.
[11] Khoản 8 Điều 15, Điều 21 Luật BVMT năm 2014.
[12] Điểm c khoản 3 Điều 10 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT.
[13] Khoản 4 Điều 12 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP.
[14] Điều 41 Luật BVMT năm 2014.
[15] Điều 43, 44, 45 Luật BVMT năm 2014.
[16] Khoản 1 Điều 35 Luật BVMT năm 2014.
(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 4(308) – tháng 2/2016)
[17] Điều 38 Luật BVMT năm 2014.
[18] Như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước, Luật Thủy sản, Luật Khoáng sản, Luật Đa dạng sinh học…
[19] Khoản 6 Điều 3 Luật BVMT năm 2004 ghi: “Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng, công nhận quyền sử dụng rừng, công nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; nhận chuyển nhượng rừng từ chủ rừng khác”.
Biến Đổi Khí Hậu Là Gì Biện Pháp Khắc Phục Biến Đổi Khí Hậu Tại Việt Nam
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÀ GÌ? BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI VIỆT NAM
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÀ GÌ? BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI VIỆT NAM
Biến đổi khí hậu là gì? Biến đổi khí hậu là những biến đổi xảy ra trong môi trường vật lý hoặc sinh học. Tình trạng này gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên, hoạt động kinh tế, sức khỏe và đời sống xã hội của con người.
Nguyên nhân khách quan bao gồm: Những biến đổi tự nhiên từ sự thay đổi quỹ đạo trái đất, hoạt động của mặt trời, sự thay đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dòng hải lưu và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển.
Thời tiết ngày càng trở nên khắc nghiệt: Sự biến đổi khí hậu toàn cầu khiến thời tiết cũng biến chuyển theo hướng cực đoan và ngày càng khắc nghiệt. Dự báo của Ủy ban Liên chính phủ về thay đổi khí hậu IPCC chỉ ra rằng: Thế giới sẽ còn phải đón nhận những hiện tượng khắc nghiệt của thời tiết khốc liệt hơn nữa.
Mực nước biển tăng cao: Sự nóng lên của trái đất cũng ảnh hưởng tới nhiệt độ của nước biển. Nước biển đang dần ấm lên, thậm chí cả những vùng biển sâu nhất.
Hiện tượng băng tan ở hai cực và Greenland: Trong những năm trở lại đây, vùng biển Bắc Cực nóng lên nhanh gấp 2 lần mức nóng trung bình trên toàn cầu, diện tích của biển Bắc Cực được bao phủ bởi băng trong mỗi mùa hè đang dần thu hẹp lại.
Nền nhiệt độ liên tục thay đổi: Mỗi năm nền nhiệt độ trung bình lại cao hơn năm trước. Trong thế kỉ 21, nhiệt độ trung bình toàn cầu tính trên mặt đất và mặt biển đã tăng khoảng 0,74oC.
Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đang tăng lên.
14 biện pháp khắc phục biến đổi khí hậu ở việt nam Quá trình công nghiệp hóa làm gia tăng lượng khí thải vào bầu khí quyển nhanh chóng. Kéo theo đó là tình trạng biến đổi khí quyển, hiệu ứng nhà kính, trái đất nóng lên, hạn hán, nước biển dâng cao… Do đó để để giảm tác động của biến đổi khí hậu hãy thực hiện những biện pháp sau: Cập nhật thông tin về biến đổi khí hậu Mỗi người cần tham khảo, tìm hiểu về các chính sách, kế hoạch ứng phó khi xảy ra biến đổi khí hậu của quốc gia, địa phương… trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhờ vậy mà có thêm cơ sở, động lực thuyết phục người khác cùng thực hiện tốt giảm thiểu sự biến đổi khí hậu,. Hạn chế sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch Nhiên liệu hóa thạch bao gồm: Than, dầu đốt, khí thiên nhiên. Những loại này khi sử dụng là nguyên nhân gây hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, hiện nay chưa có biện pháp nào có thể thay thế nguồn nhiên liệu này. Vì thế để phòng ngừa biến đổi khí hậu, cách tốt nhất là hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, trước khi con người tìm ra nguồn nhiên liệu thay thế.
Xây dựng cầu thang điều chỉnh nhiệt, tăng cười hệ thống chống ồn… để tiết kiệm được nguyên liệu và giảm tối đa khí thải phát tán.
Những công trình cầu đường cần được đầu tư thỏa đáng.
Giảm tiêu thụ Giảm tiêu thụ không chỉ giúp tiết kiệm chi tiêu mà còn là biện pháp khắc phục biến đổi khí hậu. Bởi lẽ, việc ày giúp giảm các loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính là nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu, các hiện tượng thiên nhân bất thường. Chẳng hạn như sử dụng nhiều các loại bao bì, nhất là loại được sản xuất từ nhựa plastics sẽ gây hiệu ứng ô nhiễm trắng… Bổ sung rau, hoa quả trong chế độ ăn Ăn quá nhiều thịt sẽ không tốt cho cơ thể. Do đó cần bổ sung các loại rau, củ quả vào trong chế độ ăn uống. Đứng trên góc độ bảo vệ môi trường thì ngành chăn nuôi thải ra bầu khí quyển nhiều loại khí gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất. Đây chính là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, việc bổ sung nhiều rau, hoa quả trong khẩu phần ăn sẽ khuyến khích việc gieo trồng, canh tác hữu cơ. Đó là không dùng thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học sẽ giúp bảo vệ môi trường. Ngăn chặn nạn chặt phá rừng Hiện nay, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp do nạn chặt phá rừng, khai thác gỗ trái phép. Việc này khiến cho lượng CO2 thải vào môi trường tăng cao, gây hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên. Kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề về khí hậu, môi trường khác như mưa lũ, băng tan… Vì thế, biện pháp khắc phục biến đổi khí hậu hiệu quả là cần ngăn chặn được nạn chặt phá rừng bừa bãi.
Tìm kiếm nguồn năng lượng mới Sử dụng nguồn năng lượng hóa thạch tạo ra lượng khí thải lớn gây hiệu ứng nhà kính. Chính vì thế, để khắc phục biến đổi khí hậu thì cần phải tìm kiếm nguồn năng lượng mới thay thế. Đây là thách thức to lớn của con người. Một vài nguồn năng lượng thay thế như:
Năng lượng gió, nhiệt, năng lượng sóng, năng lượng mặt trời
Ethanol từ cây trồng
Nhiên liệu sinh học
Hydro từ quá trình thủy phân nước
Tham gia trồng cây, bảo vệ rừng Cây xanh giúp phủ xanh đồi trọc, hấp thụ khí CO2. Chúng góp phần không nhỏ vào việc ngăn chặn và khắc phục biến đổi khí hậu hiệu quả. Vì vậy, hãy chung tay cùng tham gia trồng cây, bảo vệ rừng. Đồng thời tuyên truyền để mọi người cùng có ý thức hơn trong việc bảo vệ và trồng cây gây rừng.
Kỹ thuật phong bế mặt trời, kỹ thuật địa chất.
Kỹ thuật phát tán hạt sulfate vào không khí làm lạnh bầu khí quyển.
Lắp đặt rất nhiều gương nhỏ để làm lệch ánh sáng mặt trời.
Bao phủ vỏ trái đất bằng những màng phản chiếu khúc xạ ánh sáng trở lại mặt trời.
Tạo ra các đại dương chứa sắt.
Các biện pháp tăng cường dưỡng chất cho cây trồng hấp thụ CO2 nhiều hơn./.
Một Số Giải Pháp Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu Ở Việt Nam
BNEWS Trong bối cảnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long đang phải chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, Việt Nam cần chuyển vụ lúa thứ ba thành các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao hơn.
Theo chuyên gia Brian Eyler, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm nghiên cứu Stimson, đã hiến kế trên để thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cũng cần tăng khả năng lưu trữ nước của vùng đồng bằng sông Cửu Long, cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông và hậu cần, cũng như thúc đẩy hợp tác sản xuất điện năng với các nước trong khu vực để cùng có lợi và phát triển kinh tế. Ông Eyler đã đưa ra ý kiến trên tại cuộc hội thảo bàn tròn về các ảnh hưởng và giải pháp đối với tình trạng biến đổi khí hậu tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, do Hội Doanh nhân Việt Nam tại Mỹ phối hợp cùng Văn phòng Khoa học-Công nghệ Việt Nam tại thủ đô Washington DC tổ chức ngày 16/5 vừa qua. Tham dự hội thảo có lãnh đạo các tỉnh Đồng Tháp, Cần Thơ, Quảng Bình, đại diện Khu Công nghệ cao Hòa Lạc và một số doanh nghiệp về công nghệ và môi trường của Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh và Nam Định.
Đại diện của phía Mỹ, ngoài các học giả nổi tiếng, còn có khoảng 10 doanh nghiệp quan tâm đến đầu tư vào lĩnh vực khoa học-công nghệ, môi trường ở Việt Nam. Chuyên gia Brian Eyler, người đã dành nhiều năm nghiên cứu khu vực đồng bằng sông Cửu Long, cho rằng “Việt Nam cần có chính sách trong nước và đối ngoại hợp lý để giải quyết các vấn đề của khu vực đồng bằng sông Cửu Long vì đây là nơi sản xuất nông nghiệp lớn nhất Việt Nam “.
Theo ông, Việt Nam cần đẩy mạnh việc mua điện giá rẻ từ Lào để giảm tải áp lực tăng nhu cầu điện ở trong nước, hiện ở mức khoảng 11%/năm; tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo theo hướng tối đa hóa năng lượng Mặt trời, phong điện, điện được tạo ra từ rác và giảm thiểu (nhưng không loại trừ) thủy điện; thúc đẩy “sự phụ thuộc lẫn nhau về năng lượng trong vùng” như một hình thức an ninh năng lượng cho Việt Nam và khu vực nói chung… Đại diện các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các doanh nghiệp Việt Nam cũng dành nhiều thời gian giới thiệu về các thế mạnh của mình, đồng thời trao đổi với các doanh nghiệp Mỹ về các chính sách ưu đãi và cơ hội đầu tư, hợp tác trong tương lai, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất sạch và năng lượng tái tạo. Phó giám đốc Trung tâm dịch vụ công nghệ cao Hòa Lạc, ông Trần Bá Hậu cho biết hội thảo tập trung vào hai lĩnh vực chính là năng lượng tái tạo và xử lý rác thải để giải quyết các vấn đề môi trường của đồng bằng sông Cửu Long. Ông đánh giá hội thảo là cơ hội tốt để kết nối với các doanh nghiệp Mỹ để tìm cơ hội hợp tác, đầu tư. Chủ tịch Hội Doanh nhân Việt Nam tại Mỹ, ông David Huy Hồ cho biết sẽ tiếp tục các hoạt động kết nối doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ nhằm tìm kiếm các cơ hội phát triển cho Việt Nam.
Ông bày tỏ: “Mong ước của tôi là được thấy Việt Nam ngày càng thịnh vượng, tiến lên và người dân càng ngày càng mở mang kiến thức. Tôi rất vui khi có thể kết nối được với công ty Mỹ hay doanh nhân Mỹ để đầu tư ở Việt Nam , có cơ hội mở rộng thị trường Việt Nam , giúp đỡ dân tộc Việt Nam của mình”.
Quyền Con Người Ở Việt Nam Hiện Nay
Những thành tựu nổi bật trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chính thức tuyên bố đường lối đổi mới, với nội dung cơ bản là chuyển nền kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; mở cửa tăng cường giao lưu hợp tác với bên ngoài trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua.
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, so với các Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người, với việc khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người (Điều 50) cũng như bổ sung một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực. Xét trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan trọng được ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm cả tư liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo luật định; quyền được thông tin theo luật định; quyền bình đẳng của các tôn giáo; quyền không bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ, giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự – chính trị ở nước ta được thể hiện một cách cụ thể: – Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân: Bình đẳng trong bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt là bình đẳng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục, khoa học – công nghệ như quyền được học tập của công dân, quyền nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu của mọi công dân.
– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn ngừa những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân đang thi hành án phạt tù)…
– Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo…
Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm 1992, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có thể kể như Bộ Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật Giáo dục (1998), Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Pháp lệnh về người tàn tật (1998)…
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong các quyền tiêu biểu nhất:
– Bảo đảm quyền làm việc: ở nước ta, quyền làm việc được ghi nhận trong các bản Hiến pháp và được Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” (Điều 55).
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, từ khi đổi mới đến nay, Nhà nước đã xây dựng và thực hiện hàng loạt chính sách, chương trình kinh tế – xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc, tập trung vào việc mở mang, phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các doanh nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động…
– Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục: Ngay từ khi mới giành được độc lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được tiếp cận với giáo dục của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đảng đề ra năm 1991 xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này được thể chế hóa trong Điều 35 Hiến pháp năm 1992: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đây là cơ sở tư tưởng cho việc hiện thực hóa quyền được tiếp cận với giáo dục của nhân dân trong thời kỳ mới.
Bên cạnh quy định kể trên, Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ, học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 59), đồng thời xác định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền này (Điều 36). Trên cơ sở đó, một loạt các văn bản pháp luật khác được ban hành nhằm cụ thể hóa việc bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục, trong đó quan trọng nhất là Luật Giáo dục (năm 1998).
– Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng giống như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng tiếp cận việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hoàn toàn của Nhà nước sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ y tế, thực hiện chế độ BHYT, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe. Sự chuyển đổi này không có nghĩa là Nhà nước giảm bớt sự quan tâm đến việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế của nhân dân, mà ngược lại, Nhà nước vẫn thừa nhận và nỗ lực bảo đảm quyền này, nhưng theo một cách thức phù hợp và hiệu quả hơn.
– Quyền được bảo đảm xã hội: Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới chính sách bảo đảm xã hội theo hướng mọi người lao động và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, tách quỹ BHXH với công nhân, viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương ra khỏi ngân sách theo hướng xã hội hóa công tác BHXH. Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Ban hành Luật BHXH (2006), hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ ngày 1/1/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ ngày 1/1/2009 đối với bảo hiểm thất nghiệp.
Nhờ đổi mới hướng tiếp cận trong chính sách, pháp luật về công tác BHXH, việc thực hiện quyền được BHXH ở nước ta từ khi đổi mới đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ: Số lượng đối tượng tham gia và được hưởng BHXH ngày càng được mở rộng, quyền được BHXH có sự phát triển về chất; mức trợ cấp bình quân cho các đối tượng BHXH nói chung và mức tiền lương hưu bình quân nói riêng liên tục tăng. Thành công nổi bật nhất trong việc thực hiện quyền được bảo đảm xã hội ở nước ta từ khi đổi mới đến nay là việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo – một chủ trường và quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Xuất phát từ quan điểm: Vấn đề nghèo khó không được giải quyết thì không có một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hòa bình, ổn định, bảo đảm các quyền con người được thực hiện, Nhà nước ta đã coi Chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong bảy chương trình mục tiêu quốc gia và đã có những ưu tiên đặc biệt về nguồn nhân lực, vật lực cho chương trình này.
Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện quyền con người ở nước ta hiện nay
Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định.
– Về nhận thức của cán bộ, công chức: Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền và một số cơ quan tư pháp. Sự hạn chế như vậy có nguyên nhân từ công tác tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền.
– Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền và đấu tranh chống vi phạm nhân quyền: Các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân quyền dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền để chống phá ta của các thế lực phản động, thù địch. Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng.
– Cơ chế bảo đảm nhân quyền chưa hiệu quả: Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền.
– Sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo đảm: Mặc dù đòi hỏi ở mức độ khác nhau, song việc bảo đảm bất cứ quyền con người nào cũng không thể tách rời các điều kiện vật chất. Do những khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay còn thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm HIV/AIDS, những người làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù…
Các giải pháp bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con người, quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các luật về quyền công dân.’ nước ta, tồn tại một nguyên tắc Hiến định: các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và Luật. Như thế, các quyền được quy định trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản có tính nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định trong luật, một mặt, là cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển và bổ sung thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị cần được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp; tiến tới mỗi quyền trong Hiến pháp cần được quy định trong một đạo luật cụ thể, chẳng hạn như quyền được thông tin (cần có Luật về thông tin); quyền tự do lập hội, hội họp (cần phải sửa đổi luật hiện hành); các quyền tham gia công việc nhà nước như quy định về trưng cầu dân ý (cần có Luật trưng cầu dân ý); các quy định về dân chủ ở cơ sở (cần nâng cấp Quy chế dân chủ ở cơ sở lên thành Luật về dân chủ ở cơ sở…).
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và tổng kết thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền khác. Theo đó, cần hoàn thiện pháp luật cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, công dân tự kiểm soát, bảo vệ tài sản của mình và Nhà nước thông qua công cụ pháp lý và bộ máy chuyên chính có trách nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân. Chỉ khi quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật; quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế. Đồng thời, từ chủ nghĩa nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”, sớm hoàn thiện nâng lên thành luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách mạng và người có công với đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội và những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của công dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng công dân có quyền được làm tất cả những gì luật pháp không cấm, còn cán bộ, công chức nhà nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người; và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức là phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công việc nhà nước, công việc xã hội, trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm tra và giám sát hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước – những người phục vụ nhân dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt động trước nhân dân, bảo đảm quyền của công dân được cung cấp thông tin một cách chân thực và chính xác từ phía cơ quan công quyền. Những người trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức nhà nước, tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố nơi cán bộ, vợ con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.
Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN tự bản thân đã đòi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho thấy, bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội và dần dần giảm sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu với số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực hiện được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trò điều tiết vĩ mô, quản lý nền kinh tế, dùng công cụ, sức mạnh thông qua chính sách thuế, thực hiện việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các thành phố, đô thị…
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và ly khai có những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự phân bổ không công bằng về lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và sự phân cách giàu nghèo quá lớn trong xã hội. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện tốt chiến lược xóa đói, giảm nghèo. Trong đó, việc đào tạo nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo dục, đào tạo, trong đầu tư… đối với đối tượng nghèo, gia đình khó khăn, gia đình thuộc diện chính sách, con em nông dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số phải là bước đi đầu tiên trong hoạch định chính sách cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đó là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, cải tạo phạm nhân, bảo đảm rằng mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, và suốt quá trình tiến hành tố tụng không được làm oan người vô tội. Người phạm tội phải bị đưa ra xét xử, chịu hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội. Những mục đích của hình phạt lại không phải chỉ là trừng trị mà giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm là mục đích ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp tận tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể, nhân dân là rất cần thiết.
– Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ…
– Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan tư pháp.
– Tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử (cơ chế hội thẩm).
– Cuối cùng, nhưng chiếm vị trí quan trọng là nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp. Luật sư phải là người đại diện thực sự cho thân chủ. Sự tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình tiến hành tố tụng, nhanh chóng làm sáng tỏ bản chất thật sự của vụ án, tránh và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan sai, không vô tư, khách quan trong hoạt động tố tụng.
Cập nhật thông tin chi tiết về Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Chính Sách, Pháp Luật Về Biến Đổi Khí Hậu Ở Việt Nam trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!