Bạn đang xem bài viết Bản Chất Và Chức Năng Xã Hội Của Tôn Giáo Theo Quan Điểm Của Mác được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nếu Phơ-bách đã hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người và buộc phải không nói đến quá trình lịch sử và ấn định tình cảm tôn giáo là một cái gì tồn tại tự thân, và giả định một cá nhân con người trừu tượng, cô lập, thì về bản chất của tôn giáo, các ông khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế…”.
Thời kỳ đầu: Lực lượng thiên nhiên được phản ánh như thế với các thần lửa, thần mưa, thần sấm, v.v. Trong thời kỳ phát triển về sau, mỗi dân tộc khác nhau có cách nhân cách hóa khác nhau về lực lượng thiên nhiên. Thần thiên nhiên vì thế rất phong phú, đa dạng.
Về sau: Những lực lượng thiên nhiên mang tính xã hội. Lực lượng mang tính xã hội này đối lập với con người, xa lạ với con người. Nó là những nhân vật ảo tưởng huyền bí có sức mạnh huyền bí, vạn năng thống trị con người.
Đối tượng của tôn giáo là thế giới vô hình và sự tác động qua lại của con người với thế giới ấy – Tôn giáo là sản phẩm của con người, chính con người sáng tạo ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con người. Tôn giáo là hiện thực siêu hình của bản chất nhân loại.
Về chức năng của tôn giáo: Trong khi nhấn mạnh chức năng xã hội của tôn giáo, hai ông đã chỉ ra những yếu tố mang tính văn hoá của tôn giáo.
Khi bàn về chức năng xã hội của tôn giáo, các ông nhấn mạnh ở các khía cạnh:
– Tôn giáo là sản phẩm của xã hội và văn hóa: Ở từng quốc gia khác nhau, các khu vực khác nhau, trong cộng đồng người khác nhau và trong từng nền văn minh khác nhau, thì tôn giáo biểu hiện ra cũng rất khác nhau.
– Tôn giáo vừa phản ánh xã hội đương thời đã sinh ra nó (cho dù là phản ánh xuyên tạc), vừa chống lại chính hiện thực đó (tồn tại xã hội đó).
– Tác dụng của tôn giáo là giảm đau, thư dãn, cân bằng cuộc sống thế gian, nơi mà ở đó còn những cảnh khổ, bất công.
– Tôn giáo luôn biến đổi thích nghi với từng giai đoạn phát triển của tính chính trị.
– Tôn giáo có ba yếu tố cơ bản không tách rời nhau là: Niềm tin (tín ngưỡng); Hành vi (nghi thức); Nội dung (giáo lý). Tuy nhiên, niềm tin là yếu tố quan trọng nhất và luôn biến đổi.
Khi bàn về chức năng giáo dục (xã hội) của tôn giáo, các ông nhấn mạnh ở các khía cạnh:
– Tôn giáo là ý thức hệ, hệ tư tưởng biểu hiện qua hệ thống giáo lý bằng kinh sách với một tổ chức những người truyền giáo.
– Gạt bỏ tính duy tâm về thế giới quan thì các tôn giáo đều là những học thuyết đạo đức, đều hướng thiện. Về mặt này, có ý kiến cho rằng, chủ nghĩa Mác không phải là chủ nghĩa vô thần mà là chủ nghĩa nhân đạo, là niềm tin vào con người. Quan niệm này chỉ có lý, chứ không hoàn toàn chính xác.
Điều này cần phải được hiểu rằng, tôn giáo là một nhu cầu về đời sống tâm linh của nhân dân. Chừng nào tôn giáo còn là một nhu cầu của nhân dân, thì việc tuyên chiến với tôn giáo là việc làm ngu xuẩn và càng làm tăng thêm sự tồn tại lâu dài của tôn giáo. Đồng thời phải có một thái độ khách quan đối với tôn giáo: ngoài hạn chế triết học duy tâm là cơ sở nền tảng của mọi tôn giáo, thì bất cứ tôn giáo nào cũng chứa đựng những yếu tố có nội dung đạo đức, nhân đạo, nhân văn tích cực. Vì thế, đấu tranh chống sự thống trị của tôn giáo đối với đời sống tinh thần của nhân dân, không phải là xóa bỏ sạch trơn mọi tôn giáo, mà là chỉ ra những hạn chế của họ để khắc phục và chỉ ra những tích cực để kế thừa, phát huy.
Các từ khóa trọng tâm ” cần nhớ ” để soạn bài hoặc ” cách đặt đề bài ” khác của bài viết trên:
ban chat ton giao
ban chat ton giao theo angghen
,
Chức Năng Cơ Bản Của Tôn Giáo
Chức Năng Cơ Bản Của Tôn Giáo, Chuc Năng Cua Giao Duc Mam Non, Bài Báo Cáo Về Cơ Cấu Tổ Chức, Chức Năng Nhiệm Vụ Và Hoạt Động Của Tổ Chức Hành Nghề Công Chứng, Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Lứa Tuổi Mầm Non, Tổ Chức Hoat Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Mầm Non Module Gvmn 19, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Mầm Non Theo Thong Tư 12, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Theo Thông Tư 12, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Quy Định Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam, Hãy Phân Tích Vai Trò Của Chức Năng Kiểm Soát Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Viên Chức, Tiểu Sửluận Về Chức Năng Tổ Chức Của Quản Lý, Phân Tích Các Chức Năng Của Vai Trò Kiểm Tra Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Nghị Định Quy Định Chức Năng Nhiệm Vụ Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của Bộ Công An, Nghị Định Quy Định Chức Năng Nhiệm Vụ Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của B, Kỹ Năng Hướng Dẫn Tư Vấn Phát Triển Năng Lực Nghề Nghiệp Cho Giáo Viên Mầm , Nâng Cao Hiệu Năng Chuyển Giao Trong Mạng Mobile Ip, 2013, Vận Dụng Tính Năng Động Chủ Quan Trong Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Chínhn Trị, Hảo Sát Những Phương Pháp Học Tập Nhằm Nâng Cao Khả Năng Giao Tiếp Của Sinh Viên Ngành Tiếng Trung T, Chức Năng Là Gì, Chức Năng Của Tam Thất Bắc, Chủ Nghĩa Mác Có Chức Năng Gì, Ngữ Pháp Chức Năng, Tóm Tắt 5 Chức Năng Của Tiền Tệ, Chức Năng Nhiệm Vụ Của Trợ Lý Hậu Cần, Chức Năng Của Máy Tính, Chức Năng Quản Lý, Đặc Trưng Và Chức Năng Của Văn Hóa, Ky Nang To Chuc Su Kien, Hãy Kể Tên Phần Phụ Và Chức Năng Của Tôm, Chức Năng Sửa Lịch Hẹn, Đặc Trưng Chức Năng Của Văn Hóa, Chức Năng Nhiệm Vụ Của Chỉ Đội, Chức Năng Và Đặc Trưng Của Văn Hóa, Chức Năng Gia Đình, chúng tôi Dẫn Luận Ngữ Pháp Chức Năng, Chức Năng Nhiệm Vụ Phòng R&d, 5 Chức Năng Cơ Bản Của Văn Bản Hành Chính, Phục Hồi Chức Năng Sau Bỏng, Chức Năng Nhiệm Vụ Phòng Ban, Chức Năng Nhiệm Vụ Quản Đốc Nhà Máy, Quy Dinh 1262 Chuc Nang Cua Chi Bo Khu Pho, Nâng Cao Tổ Chức Đãi Ngộ Nhân Lực Của Khách Sạn, Chức Năng Thay Đổi Lời Nhắc, Vị Trí Pháp Lí, Chức Năng Của Quốc Hôj, Chức Năng Kiểm Soát, Chức Năng Cơ Bản Của Hệ Thống Tài Chính, Đề Cương Phục Hồi Chức Năng, Nâng Lương Cho Cán Bộ Công Chức, Hãy Chứng Minh Tế Bào Là Đơn Vị Chức Năng Của Cơ Thể, Suy Giảm Chức Năng Thận Trong Suy Tim, Thực Phẩm Chức Năng, Bản Chất Và Chức Năng Của Ngôn Ngữ, Ngữ Pháp Chức Năng Hoàng Văn Vân, Kỹ Năng Tư Vấn, Mua Bán, Tổ Chức, Thành Lập Lại Doanh Nghiệp, Bài 35 Dùng Chức Năng Trộn Văn Bản Để In Giấy Mời, Chức Năng Của Hành Chính Nhà Nước, Chủ Nghĩa Mác Lênin Có Những Chức Năng Nào, Chức Năng Của An Toàn Sức Khẻ Nghề Nghiệp, Tờ Trình Nâng Ngạch Công Chức, Vị Trí Pháp Lí Và Chức Năng Của Chủ Tịch Nước, Đơn Xin Tham Gia Dịch Vụ Phục Hồi Chức Năng (bản In Chữ Lớn), Chức Năng Chính Của Hệ Điều Hành, Tìm Phần Văn Bản Có Chức Năng Gì?các Bước Để Tìm Kiếm?, Phân Tích Chức Năng Của Đại Lý Lữ Hành?, Kỹ Năng Lập Kế Hoạch Và Tổ Chức Công Việc, Chức Năng Cửa Lưới Điện Quốc Gia, Phục Hồi Chức Năng Tổn Thương Tuỷ Sống, Chức Năng Cất Trữ Giá Trị Của Tiền Có Thể Được Mô Tả Một Cách Cụ Thể Là, Chức Năng Nhiệm Vụ Của Tổ Trưởng Sản Xuất, Hãy Kể Tên Và Chức Năng Các Bộ Phận Chính Của Máy Tính, Đơn Đăng Ký Dự Thi Nâng Ngạch Công Chức, Mẫu Đơn Đề Nghị Dự Thi Nâng Ngạch Công Chức, Khái Niệm Vai Trò Và Chức Năng Của Nhà Nước, Thông Tư Gmp Thực Phẩm Chức Năng, Quyết Định 791262 Chuc Nang Nhiem Vu Chi Bo Khu Pho, Chức Năng Tâm Lý Của Hội Bạn Thiếu Niên Ngang Hàng, Chức Năng Nhiệm Vụ Của Hội Đồng Quân Nhân, Phân Phối Thực Phẩm Chức Năng, Thực Phẩm Chức Năng Sức Khỏe Bền Vững, Thủ Tục Đăng Ký Quảng Cáo Thực Phẩm Chức Năng, Vụ án Về Người Lập Di Sản Thừa Kế Theo Di Chúc Khi Bị Mất Năng Lực Hành Vi Dân Sự, Quyết Định Ban Hành Chức Năng Nhiệm Vụ, Hãy Giải Thích Để Chứng Minh Tế Bào Là Đơn Vị Chức Năng Của Cơ Thể, Phân Tích 6 Chức Năng Của Marketing Hiện Đại, Tiếng Anh Chuyên Ngành Phục Hồi Chức Năng, Chức Năng Nhiệm Vụ Chăm Sóc Khách Hàng, Câu Hỏi Trắc Nghiệm Thi Nâng Ngạch Công Chức, Phục Hồi Chức Năng Dựa Vào Cộng Đồng (phcndvcĐ), Phục Hồi Chức Năng Bàn Chân Khoèo Bẩm Sinh, Quyết Định Nâng Lương Cho Cán Bộ Công Chức, Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ, Công Chức, Hãy Chứng Minh Mối Quan Hệ Giữa Cấu Tạo Và Chức Năng Của Da, Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Chấp Hành Viên, Tiểu Luận Sự Biến Đổi Chức Năng Gia Đình, Quy Trình Kỹ Thuật Chuyên Ngành Phục Hồi Chức Năng, Hướng Dẫn Chẩn Đoán Và Điều Trị Phục Hồi Chức Năng, Chức Năng, Nhiệm Vụ, Nguyên Tắc Công Tác Tuyên Huấn,
Chức Năng Cơ Bản Của Tôn Giáo, Chuc Năng Cua Giao Duc Mam Non, Bài Báo Cáo Về Cơ Cấu Tổ Chức, Chức Năng Nhiệm Vụ Và Hoạt Động Của Tổ Chức Hành Nghề Công Chứng, Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Lứa Tuổi Mầm Non, Tổ Chức Hoat Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Mầm Non Module Gvmn 19, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Mầm Non Theo Thong Tư 12, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Theo Thông Tư 12, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Quy Định Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam, Hãy Phân Tích Vai Trò Của Chức Năng Kiểm Soát Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Viên Chức, Tiểu Sửluận Về Chức Năng Tổ Chức Của Quản Lý, Phân Tích Các Chức Năng Của Vai Trò Kiểm Tra Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Nghị Định Quy Định Chức Năng Nhiệm Vụ Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của Bộ Công An, Nghị Định Quy Định Chức Năng Nhiệm Vụ Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của B, Kỹ Năng Hướng Dẫn Tư Vấn Phát Triển Năng Lực Nghề Nghiệp Cho Giáo Viên Mầm , Nâng Cao Hiệu Năng Chuyển Giao Trong Mạng Mobile Ip, 2013, Vận Dụng Tính Năng Động Chủ Quan Trong Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Chínhn Trị, Hảo Sát Những Phương Pháp Học Tập Nhằm Nâng Cao Khả Năng Giao Tiếp Của Sinh Viên Ngành Tiếng Trung T, Chức Năng Là Gì, Chức Năng Của Tam Thất Bắc, Chủ Nghĩa Mác Có Chức Năng Gì, Ngữ Pháp Chức Năng, Tóm Tắt 5 Chức Năng Của Tiền Tệ, Chức Năng Nhiệm Vụ Của Trợ Lý Hậu Cần, Chức Năng Của Máy Tính, Chức Năng Quản Lý, Đặc Trưng Và Chức Năng Của Văn Hóa, Ky Nang To Chuc Su Kien, Hãy Kể Tên Phần Phụ Và Chức Năng Của Tôm, Chức Năng Sửa Lịch Hẹn, Đặc Trưng Chức Năng Của Văn Hóa, Chức Năng Nhiệm Vụ Của Chỉ Đội, Chức Năng Và Đặc Trưng Của Văn Hóa, Chức Năng Gia Đình, chúng tôi Dẫn Luận Ngữ Pháp Chức Năng, Chức Năng Nhiệm Vụ Phòng R&d, 5 Chức Năng Cơ Bản Của Văn Bản Hành Chính, Phục Hồi Chức Năng Sau Bỏng, Chức Năng Nhiệm Vụ Phòng Ban, Chức Năng Nhiệm Vụ Quản Đốc Nhà Máy, Quy Dinh 1262 Chuc Nang Cua Chi Bo Khu Pho, Nâng Cao Tổ Chức Đãi Ngộ Nhân Lực Của Khách Sạn, Chức Năng Thay Đổi Lời Nhắc, Vị Trí Pháp Lí, Chức Năng Của Quốc Hôj, Chức Năng Kiểm Soát, Chức Năng Cơ Bản Của Hệ Thống Tài Chính, Đề Cương Phục Hồi Chức Năng,
Bản Chất Và Chức Năng Của Bảo Hiểm Xã Hội
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
BHXH là thu nhập khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến mức nào đó. Nền kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện, càng chứng tỏ được những mặt ưu điểm hơn. Vì vậy có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. Đóng vai trò như một vị cứu tinh cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm thu nhập trong cuộc sống. Có thể nói nhu cầu về BHXH thuộc về nhu cầu tự nhiên của con người. Xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các tiêu chuẩn hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu.
Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là NLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
BHXH được xem như là một hệ thống các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể nói là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu. Ngoài ra còn được hỗ trợ của Nhà nước khi có sự thâm hụt quỹ (thu không đủ chi), chính vì vậy mà chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của chính sách về kinh tế xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quản lý đất nước của Quốc gia.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động Quốc tế (ILO) cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều khiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung do vậy BHXH có chức năng:
– Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động xẽ dẫn đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, NLĐ cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng, thời điểm và thời gian hưởng theo đúng quy định của Nhà nước. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Bởi cũng giống như nhiều loại hình Bảo hiểm khác, BHXH cũng dựa trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít, do vậy mọi người lao động khi tham gia BHXH đều bình đẳng trong việc đóng góp vào quỹ cũng như được bình đẳng trong quyền lợi nhận được từ các chế độ BHXH. Người tham gia để tạo lập quỹ BHXH là tập hợp tất cả những người đóng BHXH từ mọi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế xã hội, các lĩnh vực này bao gồm tất cả các loại công việc từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ nhàng đến công việc nặng nhọc độc hại. Do vậy, BHXH xã hội hóa cao hơn hẳn các loại hình BHXH khác đồng thời cũng thể hiện tính công bằng xã hội cao.
BHXH là đòn bẩy, khuyến khích NLĐ hăng hái tham gia lao động sản xuất và từ đó nâng cao năng suất lao động: BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động cá nhân và tăng năng suất lao động xã hội góp phần tăng mối quan hệ tốt đẹp và gắn bó lợi ích giữa NLĐ, NSDLĐ và nhà nước.
BHXH thực hiện chức năng điều hoà lợi ích giữa ba bên: NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước đồng thời làm giảm bớt mâu thuẫn xã hội, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, xã hội.
BHXH còn thực hiện chức năng giám đốc bởi BHXH tiến hành kiểm tra, giám sát việc tham gia thực hiện chính sách BHXH của NLĐ, NSDLĐ theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần ổn định xã hội.
Tính Xã Hội Và Tính Văn Hóa Của Tôn Giáo
Ngày đăng: 14/11/2023 02:06
Tín ngưỡng, tôn giáo xuất hiện rất sớm cùng con người, khi chưa có khoa học và triết học. Khi ấy, tínhxã hộivà tính tôn giáo dường như trùng khít với nhau, mọi tập tục, lễ nghi của xã hội cũng chính là những tập tục của tôn giáo.
Cùng với sự phát triển, khi xã hội bắt đầu phân tầng, tín ngưỡng, tôn giáo cũng biến chuyển theo, từ chỗ là một hiện tượng mang tính xã hội, do nhiều người và nhiều thế hệ tạo nên, xuất hiện các tôn giáo lớn, do một người khởi xướng, khai đạo (Giêsu của Kitô giáo, Thích ca mâu ni của Phật giáo, Môhamét của Hồi giáo… ). Song sự phát triển và phổ biến của các tôn giáo độc thần này cũng có sự kế thừa từ các tín ngưỡng, tôn giáo trước đấy và sự góp sức của nhiều thế hệ đệ tử, tín đồ trung thành. Thêm nữa, nền thần học của nó cũng nhằm giải đáp, phản ánh các hiện tượng thiên nhiên, cuộc sống con người và các thiết chế xã hội. Do vậy, tôn giáo lúc này đã hòa quyện vào mọi hoạt động sống của con người và xã hội, thấm nhiễm và chi phối những hoạt động ấy bằng sắc màu tôn giáo. Tính tôn giáo vàtính xã hội, tínhvăn hóa dường như đan xen, hòa quện lẫn nhau, và có giai đoạn là trùng khít với nhau trong thời Trung cổ.
Trong xã hội ngày nay, bản tính xã hội của tôn giáo dẫn tới việc nó sẽ tôn giáo hóanhiều hoạt động vốn chỉ mang tính xã hội, tính cá nhân như: ngày quốc khánh, ngày khai làng, lập ấp, hội hè, đình đám, đăng quang, nhậm chức, làm nhà, hạ thủy một con tàu, cưới hỏi, v.v.. Vì muốn tôn nghiêm hóa, long trọng hóa các nghi thức, hoạt động đó, nên người ta đã tôn giáo hóachúng bằng các nghi lễ mang màu sắc tôn giáo. Đặc biệt, ở các nước có tôn giáo là quốc đạo, tínhtôn giáo gần như bao phủ toàn bộ đời sống văn hóa và mọi hoạt động xã hội cũng như cá nhân con người. Con người sống trong “bầu không khí” đậm đặc tínhtôn giáo như vậy, họ sẽ bị “uốn nắn” từ trong tư tưởng đến hành vi, ứng xử, điệu bộ, cách ăn, cách nói và đến cả trang phục, ngoại hình. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự khác biệt giữa một tín đồ Phật giáo với một tín đồ Hồi giáo không phải chỉ ở y phục họ mang trên người mà là ở cử chỉ, dáng đi, cách ngồi, cách ăn và sắc thái tinh thần. Nguyên nhân của những khác biệt đó chính là do tính tôn giáo, văn hóa tôn giáođem lại. Lễ nghi, tập tục của tôn giáo đã quy định những hành vi cho con người, thực hiện lâu ngày thành thói quen, thành tập tục, thành văn hóa sống, lối sống, nếp sống, triết lý sống của họ.
Tuy nhiên, tính xã hội, tínhvăn hóa của tôn giáo xem ra đúng với giáo dân thiên về một thứ đạo “tầm thấp – nhập thế”, đến với Chúa, Thánh, Thần, Phật,… để cầu tài, cầu lộc hoặc “xin” cho mình “một chỗ” trên “Thiên đường”, Niết bàn” sau khi chết. Còn với giới tu sỹ, giáo sỹ “bỏ đời” hướng đến thứ tôn giáo “tầm cao – xuất thế”, họ đến với Chúa, Thánh, Thần, Phật để tìm ơn cứu độ, tìm sự linh ứng mầu nhiệm, tìm sự siêu thoát, “giải thoát” khỏi những gì không giống với thế giới mà họ đang sống và khác hẳn với giáo dân. Để đạt tới cái “siêu phàm” đó, họ phải rời xa nhân quần, phải thực hành chay tịnh, ép xác để loại bỏ mọi vương vấn trần tục và những ham muốn bản năng của con người, phải tập trung cao độ để ngộ được Đạo. Thậm chí, phải sống khác người, khác đời: không nơi trú thân, dãi nắng dầm mưa, sống bằng khí và nước… cho tới khi giác ngộ và đạt tới sự “giải thoát”.
Như vậy, phải chăng, tôn giáo ở “đỉnh cao” và đúng nghĩa của nó lại mất dần tính xã hội, tính văn hóa, tính nhân văn,thậm chí, xa rời khỏi hiện thực, khỏi xã hội trần tục?
Chính vì lo lắng như vậy, nên trong quá trình phát triển, các tôn giáo đã đặt ra “nhiệm vụ” cần phải thế tục hóa tôn giáo, đưa tôn giáo nhập cuộc vào đời sống xã hội, đời sống nhân sinh.
Xu hướng thế tục hóa tôn giáo được đẩy mạnh ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với đại biểu là Auguste Comte (1789 – 1857) và Emile Durkheim (1858 – 1917). Auguste Comte cho rằng, mọi sự giải thích thế giới bằng Thiên Chúa đã lỗi thời, đối tượng thờ cúng cần thay đổi cho phù hợp với thời đại và khoa học, phải được thay thế bằng những con người thật (bằng xương bằng thịt), thí dụ như, lấy các nhà khoa học làm giới tăng lữ, các nhà bác học qua đời thành thánh nhân bất tử. Còn E.Durkheim lại nhấn mạnh đến tínhxã hội của tôn giáo, coi xã hội hiện thực mới có sức mạnh tuyệt đối, còn Thiên Chúa hay Thiên đường chẳng qua cũng chỉ là một biểu tượng phỏng chiếu của chính xã hội hiện thực mà thôi.
Tư tưởng thế tục hóa tôn giáo, nhân hóatôn giáo trên muốn đặt tôn giáo trên nền tảng, cơ sở của lý tính, trần tục và sức mạnh con người chứ không phải ở đối tượng mà tôn giáo gọi là Chúa, Thánh, Thần… Xu hướng thế tục hóa hay nhân hóa tôn giáo này cho thấytínhtôn giáo đang bị suy yếu (tính siêu thực, siêu thoát, tính thiêng bị suy giảm), tính thế tục tăng.
Cùng với đó, từ vài thế kỷ nay, diễn ra xu hướng chính trị hóa đời sống xã hội và thế tục hóa nhà nước (bắt đầu diễn ra từ châu Âu rồi lan tỏa sang các nước châu Á). Về lý thuyết, chính trị và nhà nước muốn xóa đi tínhxã hội và văn hóa của tôn giáo, muốn xã hội tách rời khỏi tôn giáo, nhà nước tách khỏi nhà thờ, thần quyền khỏi thế quyền, nhà trường không dạy giáo lý, ảnh Chúa không đặt ở công viên và nơi công cộng, đường phố không mang tên thánh, kinh thánh không được đọc nơi công cộng, không cần mang ra để thề khi nhậm chức hay khi xử án, v.v.. Nói chung, muốn coi tôn giáo là việc tư nhân, riêng tư. Cộng thêm đó, bầu không khí tự do cá nhân, cách mạng dân chủ… chính là những tác nhân “từ bên ngoài” cũng làm suy yếu tínhxã hội và tínhvăn hóa của tôn giáo.
Song, trên thực tế, tính tôn giáo, tính văn hóa của tôn giáo không mấy suy giảm, bởi:
– Tôn giáo, thánh thần không tự sinh ra mà là kết quả của chính nhu cầu xã hội và nhu cầu của con người và là sản phẩm của con người, nên nó là một thành phẩm của văn hóa và xã hội nên tính xã hội, tính văn hóa của nó là tự thân.
– Tôn giáo tuy luôn khẳng định tính “siêu việt, vượt trên, siêu nhiên” của mình đối với xã hội thế tục bằng cách thần thánh hóa, thiêng liêng hóa chính mình, song tính thiêng ấy lại không thể tự thân nó thỏa mãn, tự thân nó chiêm nghiệm ở “thế giới bên kia”, mà phải thông qua xã hội thế tục để thể hiện và tạo ra sức hấp dẫn để lôi cuốn ngay chính xã hội thế tục và con người trần tục ở thế gian này chứ không phải ở Thiên đường hay Niết bàn.
Việc “ép” tôn giáo lìa xa chính trị và xã hội trần thế, biến tôn giáo thành vấn đề riêng tư của mỗi người cũng bởi những giáo lý, giáo luật và lời răn của tôn giáo quá “cố chấp” nên không theo kịp sự thay đổi của thời – thế, và cũng bởi việc hành đạo đã thành nếp nên tôn giáo cũng khó thay đổi để thích ứng với xã hội và con người.
Việc tách Đạora khỏi Đời, một thời, phải đối phó với phản ứng dữ dội từ phía giáo hội các tôn giáo, nhưng chính các tôn giáo cũng nhận ra rằng, tách Đạokhỏi Đờikhông thể loại bỏ được tínhxã hội và tínhvăn hóa của tôn giáo, thậm chí, làm điều đó lại là cần thiết đối với tôn giáo, vì như vậy, tôn giáo được “giải phóng” khỏi sự “giám hộ, can thiệp” của chính trị và nhà nước để tự trưởng thành, thoát khỏi mọi cám dỗ quyền bính trần thế, hình thành một thứ tôn giáo suy niệm. Thứ tôn giáo đó, tuy không còn trùng khítvới xã hội như thưở trước, nhưng nó lại “dâng hiến” cho thế gian một tôn giáo mang tính siêu phàm, suy niệm và hấp dẫn con người, xã hội hiện đại, ở chính tính siêu phàm khác biệt đó so với các thành phẩm văn hóa khác.
Lúc này, tính xã hội và tính văn hóa của nó không đi vào bề nổi nữa mà ngày càng sâu lắng hơn, con người thực hành tâm linh, tôn giáo bằng cả sự trải nghiệm, xúc cảm, và lý tính thì tôn giáo, tâm linh càng trở thành một trong những thành tố hấp dẫn, bền chặt không thiếu được trong đời sống con người và xã hội.
Tuy nhiên, với một cuộc sống quá động, quá thực dụng, thứ tôn giáo hướng đến sự suy niệm,cầunguyệnhay nhập thế hóacũng khó bảo vệ “chỗ đứng” của mình. Nên mấy thập niên trở lại đây, nhiều tân giáo phái, “đạo lạ” xuất hiện và đi “vào đời” bằng cửa ngõ chính trị, kinh tế, bằng các “dịch vụ tôn giáo”, bằng các nghi lễ phong phú đã đạt được ít nhiều thành công. Dù các tân tôn giáo đó có thể suy giảm tính siêu việthay siêu thế, nhưng bù lại, nó “hứa hẹn” về một thứ thiên đường “hạ thấp” vừa bằng mặt đất để con người cảm thấy tự tin và dễ dàng đến được với Chúa hay Thánh, Thần, nên nó vẫn hấp dẫn, thỏa mãn con người hiện đại, con người lý tính, con người năng động ngày nay. Tính xã hội,tínhvăn hóa của nó không kém mấy so với các tôn giáo truyền thống (loại trừ các tà đạo), và nó đã tìm được chỗ đứng trong xã hội và trong đời sống con người.
Trên thực tế, xã hội thế tục cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau cơn “nóng giận” muốn loại bỏ ngay tôn giáo, muốn tôn giáo “chết cái chết tự nhiên” của nó, nhưng tôn giáo không chết, lại ngày càng nảy nở, phát triển và thay đổi để thích ứng với xã hội và con người hiện đại. Khoa học phát triển như vũ bão, con người ngày càng hiểu biết, ngày càng thực tế, thực dụng, hiện sinh hơn, nhưng họ vẫn tìm đến với tôn giáo, nhu cầu tâm linh, tôn giáo của họ và những cách biểu đạt, thực hành tôn giáo ngày càng muôn mầu muôn vẻ hơn.
Phải chăng, khi xã hội xuất hiện xu hướng chống tâm linh hóa, tôn giáo hóa thì đồng thời sẽ sản sinh ra xu hướng chống lý tính hóa,chống xã hội tiêu thụ, xã hội duy tục… Kinh tế phát triển mang lại cho con người sự sẵn sàng tham dự vào hoạt động tôn giáo, nhưng cũng đồng thời mang đến cho họ sự bất ổn, bất an, nảy sinh nhu cầu an định tinh thần ở tôn giáo bằng các cách thức mới mẻ, khác biệt so với trước. Khi con người và xã hội đứng trước nhiều thách đố, nhiều biến động, họ bắt đầu quan tâm đến việc cần thiết phải đeo đuổi các nguyên tắc đạo đức vốn được coi là chuẩn mực, chắc chắn ở tôn giáo mà do chính con người đã xây dựng nên trong quá trình sinh tồn của mình, v.v..
Hơn thế, cả tư tưởng lẫn tôn giáo đều thuộc về con người, đều là sản phẩm của văn hóa, ra đời nhằm thỏa mãn con người, ít nhất là thỏa mãn nhu cầu giải thích thế giới một cách “huyền ảo” khi năng lực tư duy của họ chưa đạt đến tầm có thể làm sáng tỏ mọi vấn đề của vũ trụ (mà cũng không bao giờ có thể đạt tới được). Tư tưởng và khoa học có thể giúp con người tổ chức cuộc sống, còn tôn giáo là chỗ để con người “trông đợi”, “bấu víu”,”ký thác tinh thần”khi mà cuộc sống của họ trở nên chơi vơi, mong manh. Tôn giáo còn thỏa mãn con người trong trạng thái được “giải thoát mình”, giải tỏa những phiền não trong tâm, những áp lực trong gia đình và cạnh tranh ngoài xã hội, áp lực của hoàn cảnh tự nhiên mà trong một thời gian dài, mọi thể năng và trí năngcủa họ không thể giải quyết được, họ sẽ viện đến sự chỉ dẫn, giúp đỡ của thần linh. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần khẳng định rằng, không phải người nào cũng tìm đến tôn giáo để “thư giãn” và là “cứu cánh” cuối cùng của họ, có những người, vì mất đi trạng thái chủ động về tư duy, mất đi trạng thái làm chủ cuộc đời mình, họ tìm đến tôn giáo như một chốn “dung thân”, như sự “bấu víu” vào nó, hoặc có những cộng đồng người “ẩn mình” hoàn toàn trong đời sống tôn giáo thì đó là một quy luật hoàn toàn tự nhiên.
Thế nên, chúng ta phải thừa nhận một thực tế rằng, tôn giáo là một bộ phận thiết yếu của thượng tầng xã hội (như triết học, đạo đức, pháp luật,…), và là một bộ phận của phức hợp những yếu tố cũng rất thiết yếu mà trong đó con người sống dù là theo sự sắp xếp của trật tự các quan hệ xã hội. Công năng xã hội, văn hóa của tôn giáo là không chối bỏ được, nên cần nhìn nhận tôn giáo như một thứ “rào cản” chống lại sự hình thành và xâm lấn của những yếu tố phi nhân tính, phản tiến bộ để hướng những chuyển động của đời sống xã hội và cá nhân diễn ra theo chiều tích cực. Và trong cuộc “tìm kiếm” một tập hợp những giá trị, trật tự mới, chúng ta cũng cần lưu ý đến những giá trị, trật tự của tôn giáo, vốn được coi là ổn định và được trải nghiệm, được chấp nhận trong tiến trình hình thành và phát triển của lịch sử – văn hóa nhân loại r
(1) Đỗ Quang Hưng: “Tôn giáo và tín ngưỡng trong đời sống văn hóa hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 15-1999.
(2) Dore M. Ludwig: Những con đường tâm linh phương Đông, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 2000.
(3) Đỗ Quang Hưng: “Hiện tượng tôn giáo mới: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 5-2001.
(4) Nguyễn Hồng Dương: Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
(5) Viện Thông tin KHXH: Tôn giáo và đời sống hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
(6) John Renard: Tri thức tôn giáo: các vấn nạn và giải đáp, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005.
(7) Kendall, Laurel: Bài giảng về các phương pháp tiếp cận nhân học về tôn giáo, nghi lễ, ma thuật,Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội, 2007.
(8) Văn hóa tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa(kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế), Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2009.
(9) Lê Văn Lợi: Văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị – Hành chính, Hà Nội, 2012.
(10) Nguyễn Văn Dũng: Tôn giáo với đời sống chính trị – xã hội ở một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.
PGS. TS Đỗ Lan Hiền, Viện Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Theo lyluanchinhtri.vn
Vai Trò Của Tôn Giáo Trong Xã Hội
Tôn giáo là một phổ quát văn hóa nên nó đóng vai trò quan trọng trong xã hội loài người. Các nhà xã hội học, dù là duy chức năng hay duy xung đột đều nhất trí rằng tôn giáo là một định chế xã hội và có các chức năng chính sau:
Chức năng tích hợp xã hội hay còn gọi là kết hợp xã hội: tôn giáo có các giá trị, tiêu chuẩn của nó, vì thế những người có cùng một tôn giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn chung ấy. Từ xã hội nguyên thủy, những thành viên của xã hội đã có chung một vật tổ – biểu hiện hữu hình của sự gắn kết. Ngày nay, tất cả những đồng tiền giấy của nước Mỹ đều in dòng chữ: Chúng con tin tưởng tuyệt đối vào Chúa hàm ý sự đoàn kết tập thể dự trên niềm tin. Tôn giáo, dẫu đó là Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo hay Do Thái giáo, cũng đều cung cấp cho người ta ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống của họ. Nó mang đến cho họ những giá trị tối hậu và những cùng đích nào đó để giữ họ chung lại với nhau. Trong những thời điểm khủng hoảng hay hỗn loạn, tôn giáo cũng giúp cho con người gắn bó với nhau hơn. Tuy vậy, tôn giáo không phải là định chế xã hội duy nhất có chức năng tích hợp, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc…cũng là chất keo gắn kết những thành viên của một xã hội. Mặt khác, cũng có khi sự “rối loạn chức năng” xảy ra, đó là lúc tôn giáo góp phần vào sự căng thẳng, thậm chí xung đột giữa các nhóm hoặc giữa các quốc gia với nhau. Thời Trung Cổ, niềm tin tôn giáo thúc đẩy tín đồ Cơ Đốc châu Âu tổ chức thành những đạo quân Thập tự chống lại tín đồ Hồi giáo phương Đông. Ngày nay, mâu thuẫn giữa các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo và Kitô giáo cũng góp phần vào sự bất ổn định chính trị của khu vực Trung Đông hay căng thẳng giữa các tín đồ Tin Lành với Thiên Chúa giáo ở Bắc Ireland; giữa các tín đồ Ấn Độ giáo với đạo Sikh ở Ấn Độ… Việc xung đột giữa các tôn giáo khác nhau cho thấy cái gọi là tôn giáo bản chất là không tồn tại, do cái gọi là tôn giáo một khi đã xuất hiện thì phải dựa trên một quan điểm nào đó, mà khi dựa trên một quan điểm nào đó thì đã có quan điểm đối lập với nó rồi, nếu có một tôn giáo khác dựa trên (ít hoặc nhiều, một phần hoặc toàn bộ) một quan điểm đối lập thì hai tôn giáo trở thành (ít hoặc nhiều, một phần hoặc toàn bộ) mâu thuẫn với nhau. Chính vì thế, cái gọi là tôn giáo không phải là “TÔN GIÁO” theo đúng ý nghĩa thánh thiện và tối hậu của nó, thật sự có nơi mỗi tôn giáo.
Chức năng kiểm soát xã hội: tôn giáo không có chức năng kiểm soát xã hội, vì xã hội đối với tôn giáo chưa đủ “tiêu chuẩn” đáng để tôn giáo có thể xét đến, vì hiện tại nó quá nhiều khiếm khuyết về tính thánh thiện và đạo đức. Tuy nhiên, trong quá khứ, cũng từng có quan điểm sai lầm, trong đó có quan điểm duy xung đột, đặc biệt là của Karl Marx, tôn giáo ngăn cản sự biến đổi xã hội bằng cách khuyến khích những người bị áp bức vào các quan tâm ở thế giới khác, thay vì vào sự đói nghèo, hay sự bóc lột đang hiện diện. Quan điểm này cho rằng tôn giáo góp phần kiện toàn các định chế và trật tự xã hội như một tổng thể, duy trì hiện trạng của xã hội, giữ nguyên cấu trúc bất bình đẳng của nó cũng như củng cố lợi ích của tầng lớp thống trị. Thiên Chúa giáo dạy con người sự vâng lời và như vậy rất có thể nó làm cho những người bị áp bức không chống lại; hay hệ thống đẳng cấp ở Ấn Độ định hình cấu trúc xã hội của đại đa số người theo Ấn Độ giáo; những người cầm quyền thường viện dẫn tôn giáo để thực hiện quyền kiểm soát xã hội… Về điều này, có thể tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của Karl Marx: tôn giáo là thuốc phiện của nhân loại. Tuy nhiên, câu này không chính xác ở chỗ nó chưa thấy được thực thể con người không hoàn toàn là vật chất mà còn là một cấu trúc mang thuộc tính tâm linh. Mặt khác, những nghiên cứu của Max Weber về giáo phái Calvin của đạo Tin Lành đã dẫn đến kết luận tôn giáo có tác dụng thúc đẩy xã hội. Các cải cách của Tin Lành đã dẫn đến việc duy lý hóa xã hội, con người thay vì chấp nhận số mệnh và hướng về đời sống sau khi chết theo truyền thống, phải đạt tới cuộc sống thịnh vượng, phải phấn đấu để thành công bằng mọi nỗ lực để thực hiện hoạch định của Chúa. Weber cho rằng chính vì thế chủ nghĩa tư bản hình thành vững chắc ở những nơi mà giáo phái Calvin phát triển mạnh, thậm chí còn gọi tinh thần của tôn giáo này là cốt tủy của chủ nghĩa tư bản.
Chức năng hỗ trợ xã hội: dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bại, thiên tai, bệnh tật,… cái chết của những người thân thuộc, yêu quý và cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn giáo còn cung cấp cho con người những biện pháp như cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải thiện tình hình. Trên góc độ khác, tôn giáo còn cho con người một cứu cánh trong bất hạnh đó là coi bất hạnh ấy là ý của đấng thiêng liêng và có một ý nghĩa nào đấy mà con người không nhận thức được. Trong nghĩa cơ bản, tôn giáo tạo ra phương tiện để giải quyết những vấn đề sau cùng: sống, chết mà không có lẽ phải thông thường nào có thể đưa ra lời giải đáp. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của nhà xã hội học người Mỹ Peter Berger nêu rằng khi đối mặt với những đe dọa như tai họa hay cái chết, sức mạnh hỗ trợ của niềm tin thần thánh hay sự thiêng liêng giảm đi rất nhiều nếu con người xem thần thánh đơn thuần chủ yếu là công cụ để giải quyết bi kịch.
Niềm tin và thực tiễn tôn giáo vô cùng đa dạng và có rất nhiều tôn giáo trên thế giới ngày nay, có tôn giáo chỉ hạn chế trong một vùng địa lý không lớn nhưng có những tôn giáo có thể gọi là tôn giáo thế giới với nhiều triệu tín đồ ở khắp nơi trên thế giới. Nói chung có khoảng 87 phần trăm dân số thế giới đang gắn bó với một tôn giáo nào đó; chỉ có khoảng 13 phần trăm là không tôn giáo.
Việc thống kê số liệu tín đồ của từng tôn giáo rất phức tạp và nhiều phương pháp khác nhau do đó các nguồn số liệu có thể cho kết quả khác nhau đáng kể, tuy vậy nó cung cấp cái nhìn tương đối về quy mô của các tôn giáo đặc biệt là trong tương quan với nhau.
Kitô giáo: với ba chi phái lớn của nó là Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương và Tin Lành là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới, khoảng 2,1 tỷ tín đồ chủ yếu ở Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Âu và rải rác ở nhiều nơi khác trên thế giới. Kitô giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo ở Trung Đông và do Jesus Christ sáng lập. Kitô giáo theo thuyết độc thần thể hiện ở quan điểm về Chúa ba ngôi: Đức Chúa Cha – Đấng Tạo hóa; Đức Chúa Con (Jesus Christ) – Đấng Chuộc tội và Đức Chúa Thánh thần – sự hiện diện của Chúa vào một tín đồ. Jesus Christ bị hành hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự, từ đó cây thập tự trở thành biểu tượng thiêng liêng của tín đồ Kitô giáo và. Theo niềm tin của tín đồ Kitô giáo, Chúa phục sinh là bằng chứng về việc Người là con Thiên Chúa, Người được phái đến để giải phóng xã hội loài người. Con người không chỉ là bề tôi của Chúa, kẻ được cứu rỗi mà là con của Chúa, do vậy con người có bổn phận noi gương Chúa trong tình yêu cuộc sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh hằng. Từ khi ra đời và trong giai đoạn đầu, Kitô giáo bị ngược đãi, đàn áp nhưng dần dần đã được truyền bá rộng rãi trên thế giới. Đây là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới và là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nền văn minh phương Tây.
Hồi giáo: là tôn giáo có số lượng tín đồ đông thứ hai trên thế giới với khoảng 1,5 tỷ tín đồ chủ yếu tập trung ở Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á và rải rác ở khắp nơi trên trái đất. Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ 7, do Muhammad sáng lập. Muhammad là Đấng Tiên tri chứ không phải là thần thánh như Jesus Christ đối với người Kitô giáo, Ngài là Đấng tiên tri cuối cùng sau các Đấng tiên tri trước đó là Adam, Abraham, Moses và Jesus Christ. Vai trò của Muhammad là ghi lại lời của Thượng Đế và kinh Koran được các tín đồ coi là lời răn của Đấng Chí Tôn. Cũng giống Kitô giáo, Hồi giáo tin rằng có địa ngục, thiên đàng và ngày phán xét, mọi người có trách nhiệm giải thích trước Thượng Đế về những việc làm của mình trên trần thế. Tín đồ Hồi giáo cũng thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ đức tin, chống lại mọi đe dọa và trong một số trường hợp, giáo lý này của Hồi giáo được sử dụng để biện minh cho các cuộc Thánh chiến
Ấn Độ giáo: được coi là tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, bắt nguồn từ Ấn Độ khoảng 2500 năm trước Công nguyên. Khác với Kitô giáo và Hồi giáo, Ấn Độ giáo không liên kết với đời sống của một cá nhân nào, hay nói cách khác, không có người sáng lập. Qua hàng ngàn năm, Ấn Độ giáo và xã hội Ấn Độ với hệ thống đẳng cấp đan quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức người ta không thể dễ dàng mô tả riêng biệt, cũng chính vì thế mà Ấn Độ giáo khó truyền bá đến các xã hội khác. Thế nhưng đến nay, Ấn Độ giáo vẫn có khoảng 900 triệu tín đồ chủ yếu ở Ấn Độ, Pakistan và ở nhiều nơi khác trên thế giới với số lượng ít. Trong Ấn Độ giáo, công lý sau cùng không phải thuộc về vị thần tối cao mà thông qua chu kỳ tái sinh theo luật nhân quả. Mọi hành động của con người đều dẫn đến kết quả tinh thần trực tiếp, đó chính là nghiệp chướng (karma), đời sống chính đáng khiến cho tinh thần được hoàn thiện, ngược lại sẽ làm cho tinh thần suy đồi. Trạng thái cực lạc (nirvana) là sự hoàn thiện tinh thần trong đó linh hồn được sẵn sàng cho việc tái sinh một cách hoàn hảo.
Phật giáo: cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ và khởi nguồn khoảng 500 năm trước Công nguyên. Tôn giáo này có nhiều phương diện giống với Ấn Độ giáo nhưng gắn với cuộc đời của người sáng lập – Thích Ca Mâu Ni (Siddartha Gautama). Tín đồ của Phật giáo hiện có khoảng 376 triệu, chủ yếu tập trung ở Tiểu lục địa Ấn Độ, Bắc Á và Đông Nam Á. Sau nhiều năm chu du và thiền định, Thích Ca Mâu Ni đạt đến trạng thái giác ngộ (bodhi), hiểu được bản chất của đời sống và trở thành Phật. Giống như Ấn Độ giáo, Phật giáo cho rằng có kiếp luân hồi, mọi hành động của con người đều có kết quả tinh thần và hoặc là thiện (dẫn đến sự hoàn thiện tinh thần), hoặc là ác (dẫn đến sự suy đồi tinh thần), vũ trụ mang tính đạo đức, có trật tự mà không có vị thần tối cao thực hiện công lý cuối cùng (hay nói cách khác toàn thể Vũ trụ đều là Chân như của Phật tính – Pháp thân của Phật khắp mọi nơi – điều này trùng với cái gọi là Đấng Tối Cao – Thiên Chúa trong niềm tin của tín hữu Thiên Chúa giáo). Mọi sự tồn tại của con người đều là khổ đau và muốn đạt đến sự bình an về tinh thần, Phật giáo phủ nhận mọi hình thức vui thú vật chất, thủ tiêu các ham muốn vật chất hay thể xác. Phật giáo cũng là tôn giáo đầu tiên đưa ra hệ thống phẩm cấp tu hành,
Khổng giáo: hình thành ở Trung Quốc và do Khổng Tử (551 – 479 trước Công nguyên) sáng lập. Có ít nguồn số liệu thống kê về các tín đồ Khổng giáo nhưng ước tính có hơn 150 triệu người là tín đồ của tôn giáo này và số người chịu ảnh hưởng còn nhiều hơn nữa chủ yếu tập trung ở Trung Quốc, Đông Bắc Á, Việt Nam, Singapore. Cũng như Phật giáo, Khổng giáo quan tâm sâu sắc đến những đau khổ trên thế giới nhưng phương cách cứu rỗi, thay vì thủ tiêu ham muốn, là sống theo những nguyên tắc cụ thể về hạnh kiểm, đạo đức. Khổng giáo đề cao nhân tính (jen), đạo đức luôn có vị trí cao hơn tư lợi, đạo đức của cá nhân tạo ra gia đình vững chắc và gia đình vững chắc trở thành nền tảng của xã hội vững mạnh. Không giống nhiều tôn giáo khác, Khổng giáo không hướng con người vào tương lai mà hướng vào đời sống thực tại một cách có đạo đức trong xã hội có kỷ cương, trật tự. Trong Khổng giáo, không có khái niệm rõ ràng về sự thiêng liêng, người ta có thể cho rằng Khổng giáo xét cho cùng không phải là tôn giáo mà đúng ra ra là nghiên cứu lịch sử Trung Hoa có kỷ cương…Nhưng cũng có điểm giống với tôn giáo là tập hợp niềm tin và hành lễ phấn đấu đạt cái thiện và tạo ra sự đoàn kết xã hội
Do Thái giáo: cũng hình thành ở vùng Trung Đông như Hồi giáo và Kitô giáo vào thời kỳ Đồ Sắt (khoảng 2000 năm trước Công nguyên). Mặc dù chỉ có khoảng 14 triệu tín đồ, chủ yếu ở Israel, Mỹ và châu Âu nhưng Do Thái giáo là một tôn giáo quan trọng vì đã tạo nền tảng lịch sử cho sự hình thành của Kitô giáo và Hồi giáo. Do Thái giáo do Abraham, tổ tiên và là nhà tiên tri của người Do Thái sáng lập. Do Thái giáo cũng theo thuyết độc thần, chỉ công nhận một mình Đức Chúa toàn năng. Điểm khác biệt của Do Thái giáo là mối quan hệ đặc biệt với Chúa, qua đó người Do Thái là “dân tộc được chọn” thông qua Giao ước (covenant). Giao ước được thể hiện dưới dạng như pháp luật và tập trung vào Mười điều răn Chúa tiết lộ cho Moses, nhà tiên tri đã dẫn dắt dân tộc Do Thái ra khỏi Ai Cập. Do Thái giáo coi năm quyển đầu tiên của bộ kinh mà đối với người Kitô giáo chính là kinh Cựu ước là Thánh thư – lịch sử cũng như pháp luật của mình. Do Thái giáo cũng không hướng đến thế giới bên kia mà xem quá khứ là nguồn hướng dẫn hiện tại và tương lai. Người Do Thái phục tùng ý Chúa bằng cách thực hiện đầy đủ tinh thần cũng như lời văn của Thánh thư thì một ngày kia, Chúa sẽ phái sứ giả mang thiên đàng xuống trái đất.
Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên, thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các nhà duy vật, vô thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiơbắc – nhà triết học duy vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình; rằng: “Thượng đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là toàn bộ những đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc lập”([1]). Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh này, ông vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phê phán tôn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm chí, ông còn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tôn giáo khác thay thế, đó là “tôn giáo tình yêu” để xoá bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế giới khách quan. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”(2).
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi – dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính mình và đã thần thánh hoá nó như một bản chất xa lạ nào đó”(3). Lột tả bản chất của tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” (4).
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư ảo” của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế – xã hội. Trong lịch sử tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp… Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động – những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy”(5). Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu”(6).
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó – một hiện thực cần có tôn giáo và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”(7). Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của xã hội thì họ chỉ còn biết “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó không phải không có những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ là những “bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu không có những “bông hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ còn lại “xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học thuyết Mác về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã hội đã đẩy con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xoá bỏ tôn giáo, không có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xoá bỏ bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bông hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái những bông hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xoá bỏ tôn giáo và giải phóng con người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội trên lập trường duy vật lịch sử
Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin đã kịch liệt phản đối những hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách thô bạo. Bản thân tôn giáo không có tội và vì vậy, không nên phê phán tôn giáo mà cần phê phán cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Việc phê phán tôn giáo không thể được tiến hành trực diện mà cần “làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người tư duy, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình với tư cách một con người vừa thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến tuổi có lý trí; để con người vận động xung quanh bản thân mình, nghĩa là vận động xung quanh cái mặt trời thật sự của mình. Tôn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng, nó vận động xung quanh con người chừng nào con người còn chưa bắt đầu vận động xung quanh bản thân mình”(8). Như vậy, theo quan điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi con người ta tự nhận thức được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng thần thánh để quay trở về với cuộc sống hiện thực.
Phê phán các nhà duy vật vô thần trước đó, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, thật sai lầm nếu cho rằng sẽ đánh tan được những thiên kiến tôn giáo chỉ bằng tuyên truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội nên về nguyên tắc, nó chỉ thay đổi khi bản thân tồn tại xã hội được thay đổi, nó chỉ được giải quyết khi bản thân hiện thực nảy sinh tôn giáo được cải tạo. Cũng trong “Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác đã nêu rõ nguyên tắc này: “Xoá bỏ tôn giáo, coi là hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Đòi hỏi nhân dân từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình nghĩa là đòi hỏi nhân dân từ bỏ một tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cái biển khổ ấy, cái biển khổ mà tôn giáo là vòng hào quang thần thánh”(9). Do đó, theo ông, “nhiệm vụ của lịch sử, sau khi thế giới bên kia của chân lý đã mất đi, là xác lập chân lý của thế giới bên này… Như vậy, phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính trị”(10).
Vì vậy, muốn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, trước hết cần phải tạo lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, thất học…, một thế giới hiện thực không còn cần đến “sự đền bù hư ảo” của tôn giáo mà người ta có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc sống, một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đó là nhu cầu hoàn toàn chính đáng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không được chống tôn giáo mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuyệt đối không được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh thậm chí đi đến chống lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân”(11).
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thiết chế xã hội, nó biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. ở từng thời kỳ lịch sử, vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Do đó, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định thái độ, cách ứng xử phù hợp.
3. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Do nhận thức không đầy đủ, đã có một thời kỳ chúng ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc đấu tranh chống tôn giáo. Chúng ta đã quá nôn nóng, cực đoan trong ứng xử với các tôn giáo cũng như với các cơ sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo đã bị đập phá, các sinh hoạt tôn giáo bị ngăn cấm, người có đạo bị kỳ thị. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bảo. Chính sự nóng vội đó đã dẫn đến hậu quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế lực phản động lợi dụng chống phá cách mạng nước ta. ở điểm này, rõ ràng chúng ta đã không vận dụng tốt những quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác – Lênin. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, theo chúng tôi, trước hết cần phải nhận thức rõ một số vấn đề sau đây:(11)
– Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những điều kiện tồn tại của tôn giáo vẫn còn; vì vậy, sự tồn tại của nó vẫn là một tất yếu khách quan. Những điều kiện đó là: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học – kỹ thuật còn thấp nên khả năng cải tạo thế giới chưa cao; trình độ nhận thức còn hạn chế nên chưa cho phép giải thích đầy đủ, khoa học những hiện tượng tự nhiên, xã hội; trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn; thời kỳ quá độ với những quan hệ sản xuất cũ và mới đan xen nhau nên chưa thể xoá bỏ những hiện tượng bóc lột, bất bình đẳng trong xã hội… Thêm vào đó, chiến tranh, đặc biệt là thiên tai, vẫn xảy ra khiến cho con người cảm thấy không yên tâm và vì vậy, một bộ phận người dân vẫn sẽ có nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo như một tất yếu. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với tôn giáo.
– Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo không phải là mọi tôn giáo và những sinh hoạt tôn giáo hay tất cả những tín đồ tôn giáo nói chung, mà chỉ là những bộ phận người lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng, gây rối trật tự trị an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
– Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, không thể dùng mệnh lệnh hành chính hay tuyên truyền giáo dục đơn thuần mà phải chú trọng đến việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xoá bỏ dần phương thức sản xuất tiểu nông lạc hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, trình độ văn hoá để người dân tự nhận thức được vai trò thực sự của tôn giáo trong đời sống hiện thực của họ và chính họ, chứ không phải ai khác, tự quyết định theo hay không theo một tôn giáo nào đó.
Những năm gần đây, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, đưa ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.
Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và được cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, như Nghị quyết số 24/NQ-TW (ngày 16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới… Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về công tác tôn giáo trong tình hình mới… Ngoài ra, còn có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng về các mặt công tác đối với tôn giáo nói chung và từng tôn giáo nói riêng trong từng thời kỳ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003) Về công tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo được cụ thể hoá trong Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004. Tất cả các chỉ thị, nghị quyết, pháp lệnh nêu trên đều thể hiện nhất quán một số quan điểm và chính sách sau đây:
– Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
– Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta khảng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các dân tộc. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng”(12). Quan điểm của Đảng nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
– Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng phải động viên được đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
– Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng nòng cốt.
– Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật. (12)
Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hoà bình” vô cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ.
*****************
(*) Tiến sĩ triết học, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa.
(**) Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa.
(1) Dẫn theo: V.I.Lênin. Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.71.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.815.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.815.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437-438.
(6) V.I.Lênin. Toàn tập, Sđd., t.12, tr.169-170.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.437-570.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.15.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Sđd., t.1, tr.570.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, Sđd., t.1, tr.15.
(11) Dẫn theo: Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr.236.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.78
Cập nhật thông tin chi tiết về Bản Chất Và Chức Năng Xã Hội Của Tôn Giáo Theo Quan Điểm Của Mác trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!