Bạn đang xem bài viết Bài Thuyết Trình Thi Giáo Viên Giỏi Mầm Non được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thuyết trình thi giáo viên giỏi
Bài thuyết trình dự thi giáo viên giỏi mầm non bao gồm các mẫu thuyết trình hay và chọn lọc cho các thầy cô tham khảo chuẩn bị cho các kì thi giáo viên giỏi cấp trường, cấp huyện đạt hiệu quả cao.
Bài thuyết trình dự thi giáo viên giỏi mầm non
Hội thi giáo viên dạy giỏi là một trong những căn cứ để đánh giá thực trạng đội ngũ, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục.
Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi mầm non Mẫu 1– Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học 2023-2023, với “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua hoạt động học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Hoạt động học là một trong những giờ sinh hoạt một ngày của cô và cháu ở trường. Qua hoạt động học sẽ giúp trẻ có thêm một số kiến thức mới về sự vật, hiện tượng xung quanh và kỹ năng cần thiết. Nhưng trẻ của lớp còn hiếu động không chịu ngồi yên, hay đùa nghịch, nói tự do không tập trung chú ý, nên tôi nghĩ việc gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động học là rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Năm học 2023-2023, được sự phân công của lãnh đạo nhà trường, bản thân phụ trách lớp Mẫu giáo 4-5 tuổi. 1 với 28 trẻ . Trong quá trình tổ chức hoạt động học cho trẻ thì bản thân tôi có những thuận lợi như sau:
* Thuận lợi:
– Lãnh đạo nhà trường luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất và đồ dùng phục vụ cho trẻ trong hoạt động học .
– Một số trẻ ở lớp mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào các hoạt động.
– Được sự quan tâm của các bậc phụ huynh về cách giáo dục trẻ và luôn hỗ trợ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, tôi còn gặp một số khó khăn trong quá trình thực hiện.
* Khó khăn
– Trong lớp còn có trẻ nhút nhát không tham gia hoạt động cùng các bạn. Lớp có nhiều trẻ hiếu động, khả năng tập trung chú ý thấp.
– Một vài trẻ chưa học qua lớp 3- 4 tuổi, trẻ chưa có nền nếp khi tham gia hoạt động học.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, để tổ chức tốt hoạt động học cho trẻ có hiệu quả, bản thân tôi thực hiện biện pháp gây hứng thú cho trẻ qua các hoạt động học như sau:
Nghệ thuật tạo hứng thú cho trẻ trong hoạt động học vừa dễ lại vừa khó. Vì trẻ rất thích những điều mới lạ nhưng dễ chán với những gì quen thuộc. Cho nên, tôi luôn suy nghĩ thay đổi một số hình thức trong hoạt động học để thu hút sự chú ý của trẻ , tạo không khí giờ học trở nên hào hứng, sôi nổi, không gò bó mà vẫn đạt kết quả cao. Cụ thể:
1. Gây hứng thú cho trẻ thông qua đồ dùng, đồ chơi, vật thật
Lên 4 tuổi tư duy trực quan hình tượng của trẻ vẫn còn, nên tôi đã sáng tạo làm nhiều loại đồ dùng, đồ chơi bằng những nguyên vật liệu phù hợp với từng nội dung hoạt động để gây hứng thú cho trẻ, giúp trẻ có những ấn tượng tốt về đồ vật, sự vật đó ngay từ ban đầu hoạt động học.
Ví dụ:
– Trong hoạt động kể chuyện: Tôi dùng bìa cứng, giấy màu, xốp, hộp, chai nhựa, vải, len, các hột hạt tạo thành những nhân vật rối que, rối tay để làm đồ dùng trực quan gây hứng thú cho trẻ.
Chẳng hạn với câu chuyện “Thỏ ngoan” tôi dùng vải vụn, bông gòn, hột hạt tạo những nhân vật rối như Thỏ, Cáo, Bác Gấu để cho trẻ đoán câu chuyện cô sắp kể, từ đó trẻ sẽ chú ý lắng nghe câu chuyện cô sắp kể với các nhân vật đó.
– Trong hoạt động môi trường xung quanh “Tìm hiểu vật nuôi trong gia đình”
Tôi sử dụng con vịt thật, cho trẻ nghe tiếng kêu và đoán tên con vịt. Sau đó tôi cho trẻ xem con vịt và cùng trò chuyện.
Cũng với đồ dùng tự tạo đó tôi chú ý đến việc sử dụng giới thiệu cho trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú cho trẻ.
Ví dụ:
– Trong hoạt động thể dục: Tôi dùng quả bóng, kẽm lông, vải nỉ làm mũ kiến, tôi cho trẻ đội làm những chú kiến nhảy vũ điệu Kiến, trẻ rất thích ngay từ đầu hoạt động.
– Trong hoạt động tạo hình: Với đề tài “Những chiếc vòng xinh” tôi cho trẻ chuyền tay nhau những chiếc vòng làm bằng lá dừa, lá mì trẻ rất thích và từ đó trẻ sáng tạo hơn trong làm ra sản phẩm.
2. Gây hứng thú thông qua trò chơi
Để tránh tình trạng trẻ bị nhàm chán, mệt mỏi trong hoạt động, tôi luôn tổ chức đan xen các trò chơi để nhằm thay đổi giữa trạng thái động và tĩnh cho trẻ. Từ nội dung của hoạt động, tôi chuyển sang trò chơi một cách nhẹ nhàng để thông qua chơi mà trẻ học. Hay thông qua chơi trẻ sẽ được cảm giác thoải mái để tiếp tục tham gia hoạt động.
Ví dụ:
– Trong kể chuyện “Quả trứng” tôi cho trẻ đội mũ vịt chơi trò chơi “Chuyển trứng vào ổ”. Sau khi chuyển hết trứng, cô mời các chú vịt đi ngủ. Trẻ ngồi nhắm mắt lại. Cô ra hiệu lệnh trời sáng, trẻ mở mắt ra. Cô nói cho trẻ biết sau một đêm số trứng của trẻ chuyển về đã nở ra những chú vịt con rất xinh xắn(cô làm những chú vịt bằng hũ sữa chua) và tặng những con vịt đó cho trẻ. Sau đó, cô cho trẻ chơi với những chú vịt đó bằng những trò chơi khác nhau như xây chuồng vịt, nặn thức ăn cho vịt,… trẻ rất thích thú và tích cực tham gia vào hoạt.
– Trong hoạt động tìm hiểu các con vật: Sử dụng trò chơi như: Đối đáp về tiếng kêu các con vật (cô nêu tên con vật, trẻ làm tiếng kêu và mô phỏng dáng đi điệu bộ của con vật tương ứng). Sau đó, cô cùng trẻ trò chuyện về các con vật.
– Trong hoạt động âm nhạc: Đề tài “Hát: Đàn gà trong sân”, sau khi trẻ thuộc bài hát, cô tổ chức cho trẻ chơi trò chơi âm nhạc bằng cách nghe giai điệu phát ra từ chú gà trống và đoán tên bài hát, chích bong bóng tìm yêu cầu của trò chơi âm nhạc,…
– Trong hoạt động thể dục: cho cả lớp chơi: Bóng lăn, trẻ vừa chơi vừa mô phỏng quả bóng lăn về hai hàng ngang bên phải- trái (thay vì cô yêu cầu trẻ về hai đội bạn trai, bạn gái).
Hay tôi sử dụng một số trò chơi nhỏ như “Trời tối, trời sáng”, “Úm ba la”,… để gây sự bất ngờ cho trẻ xem một vật nào đó.
Như vậy có rất nhiều trò chơi để gây hứng thú nhưng tùy theo hoạt động học mà tôi vận dụng một cách sáng tạo để luôn đem lại hứng thú cho trẻ.
3. Gây hứng thú thông qua sử dụng âm nhạc, thơ, vè, kể chuyện
Âm nhạc là hoạt động thường mang tính vui tươi, nhí nhảnh, mang lại sự hứng thú cho trẻ rất cao. Vì vậy, tôi thường dùng âm nhạc vào hoạt động học để gây hứng thú cho trẻ.
– Ví dụ: Chủ đề “Trường mầm non” tôi cho trẻ hát và vận động bài hát “Vui đến trường”, sau đó cùng trò chuyện với trẻ về trường mầm non. Hay học đếm đến 5, cô cho trẻ hát bài hát “Tập đếm”.
Để tạo sự mới lạ, tôi sáng tác một số bài hát dựa trên lời bài hát có sẵn để gây hứng thú cho trẻ.
-Ví dụ: Hoạt động tìm hiểu về quả, sau khi chơi trò chơi hái quả cô cho trẻ hát theo giai điệu bài hát: “Lý kéo chài” để chuyển hoạt động.
“Đã đến rồi khu vườn cây trái, chúng mình ơi thăm bác nông dân. Tình tang tang tình tính tang. Giúp bác nông dân cùng nhau hái quả để đem về nhà. Ơi hò là hò ơi!”
– Chẳng hạn như ở hoạt động “Tìm hiểu những con côn trùng” đầu tiên trò chuyện về con muỗi, tiếp theo là trò chuyện về con kiến, nhưng nếu để trẻ ngồi một chỗ trò chuyện từ con vật này sang con vật khác thì trẻ rất dễ nhàm chán, không hứng thú vào hoạt động nữa nên tôi cho trẻ đứng lên làm đàn kiến và cùng đọc bài đồng dao về con kiến để di chuyển đến mô hình đàn kiến trẻ rất thích. Hay sau khi cung cấp kiến thức xong, tôi cho cả lớp cùng đọc bài thơ tự sáng tác để về 3 đội thi đua. Nội dung bài thơ như sau:
Kiến xanh, kiến đỏ Kiến cam, kiến vàng Đi lại từng đàn Kiếm được mồi ngon Cùng tha về tổ
Hay trong hoạt động làm quen với toán: Cho trẻ đọc bài vè về quả, sau đó cho trẻ lên tìm những loại quả có trong bài vè và đếm số lượng.
Hay trong hoạt động tìm hiểu về nghề trồng lúa: Kể cho trẻ nghe câu chuyện sự tích hạt lúa, sau đó cùng trẻ tìm hiểu về nghề trồng lúa.
4. Gây hứng thú thông qua sử dụng tình huống
Để mở đầu cho hoạt động, tạo được hứng thú cho trẻ, tôi dựa vào nội dung yêu cầu để sử dụng những hình thức kích thích trẻ suy nghĩ, phán đoán và có nhu cầu muốn được tìm hiểu, khám phá. Sử dụng tình huống có vấn đề là đưa ra tình huống có vấn đề và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết. Trẻ có thể đưa ra nhiều phương án khác nhau, cô và trẻ cùng thử thực hiện và chọn cách giải quyết hiệu quả nhất.
Chẳng hạn ở hoạt động “Tìm hiểu về gió”, tôi tắt hết quạt, đóng cửa sổ, cô và trẻ cùng chơi trò chơi: Bay thấp- bay cao. Rồi cô gợi hỏi trẻ:
+ Con cảm thấy không khí của lớp như thế nào?
+ Muốn mát mình phải làm sao?
Rồi cô và trẻ thử mở cửa sổ, dùng quạt giấy, lấy khăn ướt lau mặt,… Sau đó, cả lớp cùng thử mở quạt máy. Cô hỏi trẻ chọn cách nào là mát nhất.
– Hay tình huống: Cô ra vườn hái một số loại trái cây, yêu cầu trẻ tìm ra những loại trái cây có đặc điểm giống nhau (Hoạt động tìm hiểu về loại trái cây nhiều hạt), gà mái mẹ lạc mất trứng, nhờ lớp tìm giúp 4 quả trứng mang về ổ (Hoạt động: Đếm đến 4. Nhận biết chữ số 4),…
Sau thời gian áp dụng “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua các hoạt động học”, tôi đạt được một số kết quả như sau:
* Đối với giáo viên:
– Tôi có thêm kinh nghiệm hơn trong việc gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động học.
– Các hoạt động học đạt hiệu quả và thu hút trẻ tham gia tích cực hơn.
* Đối với trẻ:
– Trẻ tập trung vào giờ học nhiều hơn, tiếp thu nhanh kiến thức mới và có những kỹ năng cần thiết.
Tóm lại để hoạt động học có hiệu quả, trẻ trung chú ý vào hoạt động, theo bản thân tôi cần phải:
– Có hiểu biết đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, khả năng, nhu cầu của trẻ để có phương pháp giáo dục thích hợp.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua các hoạt động học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi mầm non Mẫu 2“Một số biện pháp dạy trẻ 24-36 tháng tuổi biết quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh” I. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta biết:”Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em chính là niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm hi vọng của mỗi gia đình và toàn xã hội.
Như chúng ta biết nhân cách của trẻ không phải ngẫu nhiên mà có. Nó được hình thành trên cơ sở nền tảng của giáo dục. Là một giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề tôi luôn băn khoăn làm thế nào để có thể giáo dục các bé biết yêu thương, đoàn kết, quan tâm, chia sẻ với bạn bè, người thân và mọi người xung quanh. Và đó là lý do tôi chọn bài thuyết trình về: “Một số biện pháp dạy trẻ 24 -36 tháng tuổi quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh
II. Biện pháp thực hiện: Biện pháp 1: Khảo sát
Tôi tiến hành khảo sát trẻ như sau:
– Thông qua hoạt động vui chơi, chơi ở các góc, tôi bao quát, quan sát trẻ chơi sau đó ghi chép lại một cách cẩn thận, tỉ mỉ xem trong khi chơi trẻ có tranh giành đồ chơi với bạn không, biết nhường bạn hay chưa, trẻ đã biết chơi đoàn kết cùng các bạn chưa, trẻ có biết phối hợp cùng bạn trong lúc chơi không?
– Thông qua giờ đón trả trẻ, các giờ hoạt động trong ngày trẻ chơi cùng bạn, tôi quan sát trẻ sau đó ghi chép lại những thái độ, cách bộc lộ cảm xúc của trẻ với bố mẹ, cô giáo và các bạn.
* VD: Tôi cho trẻ quan sát một đoạn video về câu chuyện ”Đôi bạn nhỏ” và đàm thoại với trẻ:
+ Các con vừa xem gì?
+ Con thấy bạn gà và bạn vịt trong đoạn băng đang làm gì?
+ Điều gì xảy ra khi bạn gà bị cáo đuổi bắt?
– Trong giờ đón trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ:
+ Ở nhà các con biết làm những công việc gì để giúp đỡ bố mẹ?
+ Để bố mẹ vui lòng thì con thường làm gì?
+ Con cảm thấy thế nào khi được bố mẹ khen?
Như vậy, việc giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của việc biết yêu thương và chia sẻ là điều không thể thiếu được trong quá trình giáo dục trẻ phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ mầm non.
Biện pháp 2: Giáo dục trẻ biết yêu thương và quan tâm trên hoạt động học:
Thời gian cho mỗi hoạt động học của trẻ nhà trẻ là từ 15- 20 phút nên nội dung tích hợp trong mỗi bài giảng còn hạn chế, chưa có tác dụng khơi gợi cảm xúc và kích thích mong muốn thể hiện tình cảm ở trẻ. Vì vậy tôi đã thiết kế giáo án nhằm dạy trẻ biết quan tâm và yêu thương với mọi người.
Giáo án: Nhận biết tập nói
Giáo án: Dạy trẻ biết chia sẻ yêu thương.
Đề tài: : Bản thân và gia đình thân yêu
* Mục đích- yêu cầu:
– Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, trí tưởng tượng, trẻ hiểu chia sẻ là niềm vui.
– Trẻ biết tên các thành viên trong gia đình
– Trẻ biết yêu mến những người thân trong gia đình.
Qua bài học trẻ biết quan tâm yêu thương không chỉ với bạn bè và mọi người xung quanh mình mà trẻ còn biết yêu thiên nhiên biết cùng bạn bảo vệ môi trường xung quanh mình.
Biện pháp 3: Dạy trẻ biết quan tâm và chia sẻ thông qua trò chơi tập thể:
Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ chính là hoạt thộng vui chơi.Trẻ học thông qua chơi, chơi thông qua học.
Ví dụ một số trò chơi:
* Trò chơi 1: “Hành động yêu thương”
+ Trẻ biết thể hiện tình cảm của mình cho bạn biết bằng các cử chỉ, hành động đơn giản như cầm tay, nắm tay, khoác vai, ôm bạn.
* Trò chơi 2: “Tình bạn thân thiết”
* Trò chơi 3: ” Sinh nhật vui vẻ”
Biện pháp 4: Sưu tầm bài thơ, truyện có nội dung dạy trẻ biết quan tâm giúp đỡ mọi người
VD: Bài thơ: ” Bạn mới”
Giáo dục trẻ: Thông qua bài thơ giáo dục trẻ biết giúp đỡ , quan tâm đến bạn bè xung quanh
VD: Bài thơ: “Yêu mẹ”
Giáo dục trẻ: Biết yêu mẹ của mình và những người thân trong gia đình
Những câu truyện sưu tầm:
VD: Truyện: “Đôi bạn tốt”
Giáo dục trẻ: Thông qua câu chuyện “Đôi bạn tốt”, giáo dục trẻ biết yêu thương, chia sẻ và nhường nhịn bạn
Biện pháp 5: Dạy trẻ biết chia sẻ thông qua ngày hội, ngày lễ:
Ngày 20/10, ngày Tết Trung Thu, Noel, Tết Nguyên Đán, ngày 8/3 và đặc biệt hướng ứng ngày hạnh phúc 20/3. Với mỗi ngày hội tôi cố gắng sử dụng một hình thức tổ chức riêng nhằm lôi cuốn hấp dẫn trẻ tích cực tham gia hoạt động.
Ví dụ: Ngày 8/3- ngày quốc tế phụ nữ
Trước ngày tổ chức lễ hội tôi cùng trẻ trò chuyện về ý nghĩa ngày hội, đưa ra ý định, hình thức tổ chức và thăm dò ý kiến của trẻ về món quà tặng bà và mẹ. Sau đó dạy trẻ làm bưu thiếp tặng bà, tặng mẹ, giúp trẻ ghi lại cảm xúc, lời chúc của trẻ dành cho bà và mẹ.
Biện pháp 6: Phối kết hợp với phụ huynh để dạy trẻ biết quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh
– Qua bảng tuyên truyền ở lớp và giờ đón, trả trẻ tôi kết hợp với phụ huynh thường xuyên giáo dục trẻ biết quan tâm và giúp đỡ mọi người xung quanh
– Qua đó sự chăm sóc và giáo dục cho trẻ tôi thấy được sự chú ý của trẻ phát triển một cách rõ rệt.
Muốn trẻ em hình thành được tính quan tâm đến mọi người thân xung quanh trẻ thì nhà trường và phụ huynh phải thống nhất những yêu cầu giáo dục trẻ. Giáo viên thông báo với phụ huynh những biện pháp giáo dục trẻ, yêu cầu phụ huynh theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực tiễn ở nhà để cùng phối hợp giáo dục trẻ.
III. Kết quả khảo sát thực nghiệm:
Qua kết quả thực nghiệm tôi thấy. Phần lớn các cháu thích đến lớp, biết vâng lời cô, yêu thương giúp đỡ bạn và mọi người xung quanh.
– Trong giờ chơi hiện tượng đánh nhau, tranh giành đồ chơi giảm bớt và không còn nữa. Trẻ chơi đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau.
– Không những thế trẻ biết quan tâm, chia sẻ công việc với cô và bạn bè như: Giúp cô, lấy ghế ngồi, lấy đồ những đồ dùng của trẻ khi cô yêu cầu….
IV. Kết luận
Qua quá trình thực hiện giáo dục trẻ biết quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh chúng ta thấy rằng việc giáo dục trẻ biết yêu thương và chia sẻ là một yếu tổ rất quan trọng và rất cần thiết . Muốn đạt được những thành tích trên, trước hết là nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự đoàn kết của chị em đồng nghiệp, nhà trường và phụ huynh đã giúp đỡ để tôi thực hiện chuyên đề một cách dễ dàng hơn.
Bản thân tôi được trao đổi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ qua các hoạt động học, các hoạt động vui chơi, ngoài ra tôi còn được phụ huynh, đồng nghiệp tin tưởng, yêu quý.
Vừa rồi tôi đã trình bày xong bài thuyết trình của mình, xin cảm ơn các đồng chí đã chú ý lắng nghe.
Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi mầm non Mẫu 3Kính thưa ban giám khảo!
Không những nhà giáo dục mà hơn ai hết chính cha mẹ học sinh đều mong muốn trẻ hình thành và phát triển nhân cách sớm, đặc biệt là có thói quen tốt và hành vi có đạo đức tốt để hình thành nhân cách cho trẻ sau này.Với vai trò quan trọng như vậy, thử hỏi nếu chúng ta không làm tốt hoạt động lấy trẻ làm trung tâm, giúp cho trẻ thể hiện nhận thức của trẻ thì có mang lại được kết quả như mong đợi không? Hay chúng ta cứ tiếp tục dạy trẻ theo kiểu cô nói trẻ lắng nghe nếu việc dạy học của giáo viên không đổi mới kịp thời thì vô tình chúng ta đang kìm hảm sự phát triển về mọi mặt của trẻ. Vì trẻ đến trường chỉ ngồi lắng nghe thì làm sao tiềm năng trong mỗi trẻ được khơi nguồn và phát triển.
Thuận lợi:
– Nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng trang thiết bị theo văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BGDĐT ngày 23 tháng 3 năm 2023 đảm bảo việc học tập và sinh hoạt của trẻ. Trẻ lớp tôi đa số đã học qua lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi, trẻ năng động, đi học đều có nề nếp.
– Ban giám hiệu thường xuyên chỉ đạo sát sao việc đổi mới hình thức phương pháp giáo dục trẻ.
– Bản thân tôi là một giáo viên luôn yêu nghề, mến trẻ, có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ.
* Khó khăn:
– Phương pháp tổ chức các hoạt động trong chương trình còn rập khuôn chưa sáng tạo, còn cứng nhắc, việc thực hiện các hoạt động học tập vui chơi vẫn rơi vào tình trạng giáo viên làm trung tâm.
– Đồ dùng, đồ chơi chưa thật sự phong phú về chủng loại, chưa có nhiều đồ dùng, đồ chơi làm từ nguyên vật liệu mở.
– Việc quan tâm chăm sóc con em của một bộ phận cha mẹ trẻ còn hạn chế. Cha mẹ trẻ chưa nắm rõ quan điểm giáo dục hiện nay, sự hợp tác với nhà trường trong việc giáo dục trẻ chưa cao.
Biện pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức và phương pháp về “Dạy học lấy trẻ làm trung tâm”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học tự bồi dưỡng, nên bản thân tôi luôn tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng chuyên môn do Phòng Giáo Dục và Đào tạo tổ chức, các buổi sinh hoạt chuyên môn tại trường, lắng nghe và ghi chép một cách nghiêm túc, mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp những vấn đề còn chưa rõ, chưa hiểu về đổi mới phương pháp giảng dạy. Ngoài ra, tôi còn tìm kiếm những tài liệu, sách vở về đổi mới phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, kỹ năng nghiệp vụ của giáo viên và tự đọc, tự nghiên cứu để rút ra những vấn đề cần thiết cho bản thân. Bên cạnh đó, tôi còn học tập tốt chương trình bồi dưỡng thường xuyên theo kế hoạch của nhà trường.
Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Xây dựng kế hoạch là một biện pháp quan trọng trong quá trình thực hiện những việc cần làm của giáo viên. Việc lập kế hoạch giáo dục giúp tôi thực hiện đúng mục tiêu giáo dục một cách đầy đủ, có hệ thống, giúp tôi dự kiến trước nội dung, thời gian để tổ chức các hoạt động một cách hiệu quả.
Xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để xác định các nội dung phù hợp nhất đối với từng trẻ trong lớp mình. Qua đó có điều kiện quan tâm đến trẻ hơn, biết những thế mạnh, tiến bộ của mỗi trẻ để có những biện pháp giáo dục phù hợp.
Căn cứ vào khả năng, nhu cầu học tập, kinh nghiệm sống của từng trẻ ở lớp bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để thực hiện ở lớp như sau:
Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Tổ chức hoạt động luôn đặt trẻ vào trung tâm của quá trình giáo dục, có nghĩa là tạo tất cả mọi cơ hội để cho trẻ tự tham gia vào các hoạt động như trải nghiệm, giao tiếp, suy nghĩ, trao đổi với bạn và với cô. Giáo viên là người chủ động, sáng tạo, tạo mọi cơ hội, hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ tìm hiểu kiến thức hoặc giải quyết các tình huống trong quá trình hoạt động.
Tôi thực hiện việc tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm không có nghĩa là tôi loại bỏ hoàn toàn phương pháp cũ mà về cơ bản vẫn phải tuân thủ các bước trong suốt tiến trình của hoạt đông học, vẫn phải dựa trên cơ sở phương pháp dạy đặc trưng các lĩnh vực. Tôi chỉ thay đổi hình thức là lấy trẻ làm trung tâm dựa trên sự hiểu biết, hứng thú nhu cầu của trẻ mà tôi đưa ra nội dung bài dạy, kiến thức sao cho phù hợp với trẻ, không gò bó, áp đặt trẻ theo đúng tính chất: “Học bằng chơi, chơi mà học” của trẻ mầm non.
Biện pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
* Bố trí sắp xếp các góc trong và ngoài lớp phù hợp, tiện lợi, đa dạng, phong phú.
* Trang trí lớp theo hướng mở, linh hoạt.
Biện pháp 5: Làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi.
* Chuẩn bị đồ dùng, học liệu đa dạng, hấp dẫn tận dụng những nguyên vật liệu, phế liệu từ thiên nhiên và có sẵn ở địa phương.
* Tạo cơ hội, khuyến khích trẻ có thể sử dụng các nguyên vật liệu ở các góc chơi sáng tạo theo nhiều cách khác nhau.
*Biện pháp 6: Phối kết hợp với cha mẹ học sinh
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp lấy trẻ làm trung cho trẻ 5-6 tuổi”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Bài Thuyết Trình Hội Thi Giáo Viên Giỏi Mầm Non 2023
Bài thuyết trình tham gia hội thi giáo viên giỏi cấp Huyện
Thi giáo viên giỏi là hoạt động diễn ra thường niên ở các trường. Những bài thuyết trình tham gia hội thi giáo viên giỏi mầm non mà chúng tôi giới thiệu sau đây sẽ giúp giáo viên chuẩn bị tốt nhất cho hội thi giáo viên giỏi cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh.
Biện pháp thi giáo viên giỏi 1. Bài thuyết trình giáo viên giỏi cấp huyện: Một số giải pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5-6 tuổiBÀI DỰ THI GIÁO VIÊN GIỎI CẤP HUYỆN Năm học……….. Đề tài: Một số giải pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5-6 tuổi
Kính thưa ban giám khảo, kính thưa các đồng chí lời đầu tiên tôi xin kính chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt, chúc hội thi thành công tôt đẹp. Tôi xin phép được thể hiện phần thi thuyết trình với đề tài “Một số giải pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5-6 tuổi”
Như chúng ta đã biết giáo dục Mầm non là một bộ phận quan trọng trong giáo dục quốc dân có nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ theo độ tuổi nhằm phát triển toàn diện cho trẻ về đức, trí, thể, mỹ, là nền tảng cho việc phát triển nhân cách con người. Do vậy giáo dục lễ giáo cho trẻ là rất quan trọng bởi giáo dục lễ một nét đẹp văn hóa được đặt hàng đầu khi nhìn nhận đánh giá về một ai đó mà chúng ta thường bàn luận. Trẻ em ở lứa tuổi mầm non là một thời kỳ quan trọng nhất để giáo dục lễ giáo vì nề nếp thói quen lễ giáo giúp cho trẻ hình thành nhân cách con người nhận thức được tầm quan trọng về lễ giáo tôi đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5-6 tuổi”. Đứng trước thực trạng lớp tôi đang phụ trách đã có những thuận lợị và khó khăn như sau
+ Về thuận lợi
Bản thân nhiệt huyết yêu nghề mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
Được sự quan tâm giúp đỡ chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ .
Phòng học rộng rãi thoáng mát về mùa hè ấm áp về mùa đông
+ Bên cạnh những thuận lợi còn gặp rất nhiều khó khăn
Trẻ chưa mạnh dạn, chưa nhanh nhẹn còn nhút nhát, chưa thụ động chưa có hành vi lễ giáo đúng.
Trẻ ở nhà xem phim ảnh và một số trò chơi không phù hợp với độ tuổi củatrẻ đã ảnh hưởng không ít đến sự phát triển nhân cách của trẻ.
– Một số gia đình phụ huynhchưa chú trọng quan tâm, giáo dục lễ giáo cho các con ,dẫn đến kỹ năng thực hiện lễ giáo của trẻ còn hạn chế. Trước những khó khăn như vậy tôi đã mạnh dạn đưa ramột số giải pháp cho lớp mình như sau:
Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch giáo dục lễ giáo.
Khi thực hiện giáo dục lễ giáo cho trẻ thì tôi chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục lễ giáo cho lớp mình bởi đó là việc làm đầu tiên và không thể thiếu trong công tác giáo dục giúp cho giáo viên thực hiện tốt mục tiêu của kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó giáo viên phải xác định mục tiêu để xây dựng kế hoạch cho phù hợp, bản thân phải nắm vững chuyên môn, không ngừng học hỏi, tìm tòi để trau dồi kiến thức, phải năng động sáng tạo trong quá trình xây dựng kế hoạch cho lớp mình. Trong khi thực hiện tôi có thể điều chỉnh bổ sung kế hoạch cho hoàn chỉnh những nội dung cho phù hợp với lớp, điều kiện thực tế địa phương và luôn chủ động trong việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục lễ giáo vào các hoạt động hàng ngày mang lại kết quả cao trong việc thực hiện giáo dục lễ giáo cho trẻ.
Giải pháp 2: Xây dựng môi trường giáo dục lễ giáo:
Xây dựng môi trường giáo dục vô cùng cần thiết và đặc biệt quan trọng. Hỗ trợ tích cực cho việc tổ chức các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi của trẻ, thông qua đó nhân cách trẻ được hình thành và phát triển toàn diện.
Thiết kế môi trường giáo dục lễ giáo tôi hướng vào các nội dung giáo dục của trẻ nhằm đạt được mục tiêu giáo dục lễ giáo và mục tiêu cuối độ tuổi, đồng thời phù hợp với khả năng nhận thức trẻ, đảm bảo tính thẩm mỹ, an toàn tạo cho trẻ cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu hứng thú của trẻ.
* Tôi xây dựng góc tuyên truyền cho lớp:
Góc tuyên truyền của lớp không thể thiếu nội dung giáo dục lễ giáo cho trẻ, đây là giải pháp rất hữu hiệu, bởi lẽ trẻ lứa tuổi này tư duy trực quan hình ảnh là chủ yếu. Chính vì thế, mà góc tuyên truyền cần phải sinh động và phong phú với những hình ảnh đẹp, hấp dẫn trẻ. Qua đó trẻ được trực quan bằng hình ảnh những gương tốt, việc làm tốt thì trẻ ghi nhớ và dễ tiếp thu. Bên cạnh đó thông qua góc tuyên truyền phụ huynh biết được nội dung giáo dục của lớp để có hướng nhắc nhở và rèn thêm cho trẻ để giúp trẻ nhớ lâu hơn.
*Giải pháp 3: ứng xử có văn hóa để làm gương cho trẻ.
– Trong quá trình giảng dạy và giáo dục lễ giáo cho trẻ tôi luôn ứng xử thân thiện, hòa nhã, không phân biệt đối xử, tôn trọng ý kiến cá nhân, đối xử công bằng. Tùy vào từng đối tượng trẻ cụ thể mà có cách ứng xử riêng cho phù hợp. Có tinh thần trách nhiệm cao trong cách cư xử đối với trẻ.
– Tôi luôn là tấm gương sáng mẫu mực cho trẻ noi theo, luôn đặt tình thương và trách nhiệm lên đầu. Lắng nghe và cùng chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống, giúp đỡ quan tâm đến trẻ có hoàn cảnh đặc biệt.
*.Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động trong việc giáo dục lễ giáo.
Thông qua các môn học tôi linh động ứng dụng công nghệ thông tin vào các môn học sao cho phù hợp lựa chọn hình ảnh đẹp hoặc những video những hành vi giáo dục lễ giáo để tích hợp phù hợp tạo cho trẻ hứng thú không bị nhàm chán và hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hóa, lịch sự lễ phép đúng lúc, đúng chỗ. Chính vì vậy, lồng ghép nội dung giáo dục lễ giáo vào các hoạt động có hình ảnh chiếm nhiều ưu thế nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi lễ giáo tốt.
Để việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy đòi hỏi người giáo viên mầm non không chỉ có năng lực sư phạm mà cần có những kỹ năng trong việc phối kết hợp giữa ứng dụng công nghệ và phần giảng dạy của cô sao lô gích cho phù hợp để việc ứng dụng công nghệ thông tin thực sự đem lại hiệu quả.
Giải pháp 5: Giáo dục lễ giáo cho trẻ mọi lúc mọi nơi:
Giáo dục lễ giáo cho trẻ mọi lúc mọi nơi đây là giải pháp cũng hết sức quan trọng góp phần vào việc hình thành nhân cách cho trẻ tôi đã lồng ghép vào các hoạt động trong ngày như hoạt động đón trả trẻ, hoạt động học, hoạt động góc, hoạt động chơi ngoài trời, hoạt động chiều, các hoạt động ngày hội, ngày lễ… Bởi vì trẻ ở lứa tuổi này dễ nhớ nhưng chóng quên. Chính vì vậy, ở mọi lúc mọi nơi, bất cứ khi nào và lúc nào cô cũng lồng ghép được nội dung giáo dục lễ giáo cho trẻ
Ví dụ * Giờ đón, trả trẻ:
Ở lứa tuổi của trẻ luôn thích được cô yêu thương gần gũi mọi hành vi của cô được trẻ lưu tâm nhất vì vậy cô luôn chuẩn mực trong giao tiếp giờ đón trả trẻ tôi luôn ân cần dịu dàng yêu thương trẻ, niềm nở trong giao tiếp với phụ huynh nhắc nhở trẻ khoanh tay chào cô, chào bố mẹ ông bà trước khi vào lớp và cất đồ dùng đúng nơi quy định. khi bố mẹ đón về thì trẻ cũng biết khoanh tay chào cô và mọi người xung quanh khi ra về cô luôn nhắc nhở và giáo dục trẻ thường xuyên để hình thành thói quen “Lễ giáo” cho trẻ. Vì thói quen tức là những hành vi được tự động hóa, được lặp đi lặp lại nhiều lần và gắn liền với nhu cầu, lúc đó, trẻ thực hiện các hành vi lễ giáo một cách tự nhiên và đạt hiệu quả.
Giải pháp 6: Động viên khen ngợi
Con người thường thích được khen và đặc biệt là tâm lý của trẻ em thì chỉ thích được khen ngợi vì thế khi trẻ ngoan lễ phép trẻ làm được những việc tốt tôi thường xuyên khen trẻ và động viên khích lệ những trẻ chưa có kỹ năng tốt để lần sau cố gắng hơn.
Vào cuối mỗi buổi trong ngày,tôi thường tổ chức cho trẻ nêu gương bình cờ. Qua những tấm gương tốt của các bạn hoặc các nhân vật trong truyện để động viên, khuyến khích khen ngợi trẻ kịp thời.
Giải pháp 7: Công tác phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục lễ giáo cho trẻ
Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục lễ giáo cho trẻ là vô cùng cần thiết và mang lại hiệu quả. Trong buổi họp mặt đầu năm và các giờ đón trả trẻ tôi mạnh dạn trao đổi với các bậc cha mẹ về tầm quan trọng của giáo dục lễ giáo đối với trẻ mẫu giáo 5- 6 để giúp trẻ mạnh dạn tự tin và có những kỹ năng nề nếp thói quen lễ giáo tốt để chuẩn bị bước vào trường tiểu học. Vì thế hàng ngày tôi luôn luôn và giáo dục mọi lúc mọi nơi, đánh giá trẻ theo tháng thông qua sổ liên lạc về sự tiến bộ của mỗi cháu để phụ huynh kịp thời nắm bắt. Nhờ sự giáo dục bằng phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học”mà đã đem lại hiệu quả trong công tác phối hợp.
Kính thưa các đồng chí
Trong quá trình thực hiện những giải pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ tại lớp tôi đang phụ trách tôi thấy quả đạt được đúng như tôi mong đợi. Trẻ mạnh dạn, tự tin, ngoan hơn, lễ phép hơn. Những thói quen vệ sinh, những hành vi văn minh, những nề nếp thói dần được hình thành ở trẻ:
+ Đối với bạn bè: Trẻ biết đoàn kết, nhường nhịn, không tranh giành đồ chơi….
+ Đối với mọi người: Trẻ biết chào hỏi lễ phép với người lớn, biết nhường nhịn, yêu thương em nhỏ, biết quan tâm giúp đỡ mọi người,…
+ Đối với gia đình: yêu thương chia sẽ tình cảm với những người trong gia đình, biết giúp đỡ bố mẹ….
+ Đối với thiên nhiên: Yêu thiên nhiên, biết chăm sóc bảo vệ cây xanh vật nuôi trong gia đình, không bẻ cành hái hoa….
Điều đó được thể hiện ở kết quả khảo sát như sau:
* Trước khi áp dụng đề tài: * Sau khi áp dụng đề tài:
Từ những giải pháp trên tôi tìm tòi nghiên cứu và thực hiện, chất lượng giáo dục lễ giáo ở trẻ tăng lên rõ rệt, đó là điều làm tôi phấn khởi, giúp tôi càng yêu nghề hơn, giúp tôi càng có nghị lực trong công tác. Tôi đã áp dụng và có giá trị thành công ở lớp mình và có thể các đơn vị trường bạn tham khảo
Kính thưa toàn thể các đồng chí
Giáo dục lễ giáo giúp cho trẻ phát triển toàn diện về nhân cách đặt nền móng vững chắc cho các giai đoạn tiếp theo để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa một đất nước Việt Nam văn minh. Bài thuyết trình của tôi đến đây là kết thúc cảm ơn các đồng chí đã chú ý lắng nghe.
Người thuyết trình
2. Bài thuyết trình Biện pháp gây hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động học– Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học 20….-20…, với “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua hoạt động học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Hoạt động học là một trong những giờ sinh hoạt một ngày của cô và cháu ở trường. Qua hoạt động học sẽ giúp trẻ có thêm một số kiến thức mới về sự vật, hiện tượng xung quanh và kỹ năng cần thiết. Nhưng trẻ của lớp còn hiếu động không chịu ngồi yên, hay đùa nghịch, nói tự do không tập trung chú ý, nên tôi nghĩ việc gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động học là rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Năm học 20….-20…, được sự phân công của lãnh đạo nhà trường, bản thân phụ trách lớp Mẫu giáo 4-5 tuổi. 1 với 28 trẻ . Trong quá trình tổ chức hoạt động học cho trẻ thì bản thân tôi có những thuận lợi như sau:
* Thuận lợi:
– Lãnh đạo nhà trường luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất và đồ dùng phục vụ cho trẻ trong hoạt động học .
– Một số trẻ ở lớp mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào các hoạt động.
– Được sự quan tâm của các bậc phụ huynh về cách giáo dục trẻ và luôn hỗ trợ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, tôi còn gặp một số khó khăn trong quá trình thực hiện.
* Khó khăn
– Trong lớp còn có trẻ nhút nhát không tham gia hoạt động cùng các bạn. Lớp có nhiều trẻ hiếu động, khả năng tập trung chú ý thấp.
– Một vài trẻ chưa học qua lớp 3- 4 tuổi, trẻ chưa có nền nếp khi tham gia hoạt động học.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, để tổ chức tốt hoạt động học cho trẻ có hiệu quả, bản thân tôi thực hiện biện pháp gây hứng thú cho trẻ qua các hoạt động học như sau:
Nghệ thuật tạo hứng thú cho trẻ trong hoạt động học vừa dễ lại vừa khó. Vì trẻ rất thích những điều mới lạ nhưng dễ chán với những gì quen thuộc. Cho nên, tôi luôn suy nghĩ thay đổi một số hình thức trong hoạt động học để thu hút sự chú ý của trẻ , tạo không khí giờ học trở nên hào hứng, sôi nổi, không gò bó mà vẫn đạt kết quả cao. Cụ thể:
1. Gây hứng thú cho trẻ thông qua đồ dùng, đồ chơi, vật thật
Lên 4 tuổi tư duy trực quan hình tượng của trẻ vẫn còn, nên tôi đã sáng tạo làm nhiều loại đồ dùng, đồ chơi bằng những nguyên vật liệu phù hợp với từng nội dung hoạt động để gây hứng thú cho trẻ, giúp trẻ có những ấn tượng tốt về đồ vật, sự vật đó ngay từ ban đầu hoạt động học.
Ví dụ:
– Trong hoạt động kể chuyện: Tôi dùng bìa cứng, giấy màu, xốp, hộp, chai nhựa, vải, len, các hột hạt tạo thành những nhân vật rối que, rối tay để làm đồ dùng trực quan gây hứng thú cho trẻ.
Chẳng hạn với câu chuyện “Thỏ ngoan” tôi dùng vải vụn, bông gòn, hột hạt tạo những nhân vật rối như Thỏ, Cáo, Bác Gấu để cho trẻ đoán câu chuyện cô sắp kể, từ đó trẻ sẽ chú ý lắng nghe câu chuyện cô sắp kể với các nhân vật đó.
– Trong hoạt động môi trường xung quanh “Tìm hiểu vật nuôi trong gia đình”
Tôi sử dụng con vịt thật, cho trẻ nghe tiếng kêu và đoán tên con vịt. Sau đó tôi cho trẻ xem con vịt và cùng trò chuyện.
Cũng với đồ dùng tự tạo đó tôi chú ý đến việc sử dụng giới thiệu cho trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú cho trẻ.
Ví dụ:
– Trong hoạt động thể dục: Tôi dùng quả bóng, kẽm lông, vải nỉ làm mũ kiến, tôi cho trẻ đội làm những chú kiến nhảy vũ điệu Kiến, trẻ rất thích ngay từ đầu hoạt động.
– Trong hoạt động tạo hình: Với đề tài “Những chiếc vòng xinh” tôi cho trẻ chuyền tay nhau những chiếc vòng làm bằng lá dừa, lá mì trẻ rất thích và từ đó trẻ sáng tạo hơn trong làm ra sản phẩm.
2. Gây hứng thú thông qua trò chơi
Để tránh tình trạng trẻ bị nhàm chán, mệt mỏi trong hoạt động, tôi luôn tổ chức đan xen các trò chơi để nhằm thay đổi giữa trạng thái động và tĩnh cho trẻ. Từ nội dung của hoạt động, tôi chuyển sang trò chơi một cách nhẹ nhàng để thông qua chơi mà trẻ học. Hay thông qua chơi trẻ sẽ được cảm giác thoải mái để tiếp tục tham gia hoạt động.
Ví dụ:
– Trong kể chuyện “Quả trứng” tôi cho trẻ đội mũ vịt chơi trò chơi “Chuyển trứng vào ổ”. Sau khi chuyển hết trứng, cô mời các chú vịt đi ngủ. Trẻ ngồi nhắm mắt lại. Cô ra hiệu lệnh trời sáng, trẻ mở mắt ra. Cô nói cho trẻ biết sau một đêm số trứng của trẻ chuyển về đã nở ra những chú vịt con rất xinh xắn(cô làm những chú vịt bằng hũ sữa chua) và tặng những con vịt đó cho trẻ. Sau đó, cô cho trẻ chơi với những chú vịt đó bằng những trò chơi khác nhau như xây chuồng vịt, nặn thức ăn cho vịt,… trẻ rất thích thú và tích cực tham gia vào hoạt.
– Trong hoạt động tìm hiểu các con vật: Sử dụng trò chơi như: Đối đáp về tiếng kêu các con vật (cô nêu tên con vật, trẻ làm tiếng kêu và mô phỏng dáng đi điệu bộ của con vật tương ứng). Sau đó, cô cùng trẻ trò chuyện về các con vật.
– Trong hoạt động âm nhạc: Đề tài “Hát: Đàn gà trong sân”, sau khi trẻ thuộc bài hát, cô tổ chức cho trẻ chơi trò chơi âm nhạc bằng cách nghe giai điệu phát ra từ chú gà trống và đoán tên bài hát, chích bong bóng tìm yêu cầu của trò chơi âm nhạc,…
– Trong hoạt động thể dục: cho cả lớp chơi: Bóng lăn, trẻ vừa chơi vừa mô phỏng quả bóng lăn về hai hàng ngang bên phải- trái (thay vì cô yêu cầu trẻ về hai đội bạn trai, bạn gái).
Hay tôi sử dụng một số trò chơi nhỏ như “Trời tối, trời sáng”, “Úm ba la”,… để gây sự bất ngờ cho trẻ xem một vật nào đó.
Như vậy có rất nhiều trò chơi để gây hứng thú nhưng tùy theo hoạt động học mà tôi vận dụng một cách sáng tạo để luôn đem lại hứng thú cho trẻ.
3. Gây hứng thú thông qua sử dụng âm nhạc, thơ, vè, kể chuyện
Âm nhạc là hoạt động thường mang tính vui tươi, nhí nhảnh, mang lại sự hứng thú cho trẻ rất cao. Vì vậy, tôi thường dùng âm nhạc vào hoạt động học để gây hứng thú cho trẻ.
– Ví dụ: Chủ đề “Trường mầm non” tôi cho trẻ hát và vận động bài hát “Vui đến trường”, sau đó cùng trò chuyện với trẻ về trường mầm non. Hay học đếm đến 5, cô cho trẻ hát bài hát “Tập đếm”.
Để tạo sự mới lạ, tôi sáng tác một số bài hát dựa trên lời bài hát có sẵn để gây hứng thú cho trẻ.
-Ví dụ: Hoạt động tìm hiểu về quả, sau khi chơi trò chơi hái quả cô cho trẻ hát theo giai điệu bài hát: “Lý kéo chài” để chuyển hoạt động.
“Đã đến rồi khu vườn cây trái, chúng mình ơi thăm bác nông dân. Tình tang tang tình tính tang. Giúp bác nông dân cùng nhau hái quả để đem về nhà. Ơi hò là hò ơi!”
– Chẳng hạn như ở hoạt động “Tìm hiểu những con côn trùng” đầu tiên trò chuyện về con muỗi, tiếp theo là trò chuyện về con kiến, nhưng nếu để trẻ ngồi một chỗ trò chuyện từ con vật này sang con vật khác thì trẻ rất dễ nhàm chán, không hứng thú vào hoạt động nữa nên tôi cho trẻ đứng lên làm đàn kiến và cùng đọc bài đồng dao về con kiến để di chuyển đến mô hình đàn kiến trẻ rất thích. Hay sau khi cung cấp kiến thức xong, tôi cho cả lớp cùng đọc bài thơ tự sáng tác để về 3 đội thi đua. Nội dung bài thơ như sau:
Hay trong hoạt động làm quen với toán: Cho trẻ đọc bài vè về quả, sau đó cho trẻ lên tìm những loại quả có trong bài vè và đếm số lượng.
Hay trong hoạt động tìm hiểu về nghề trồng lúa: Kể cho trẻ nghe câu chuyện sự tích hạt lúa, sau đó cùng trẻ tìm hiểu về nghề trồng lúa.
4. Gây hứng thú thông qua sử dụng tình huống
Để mở đầu cho hoạt động, tạo được hứng thú cho trẻ, tôi dựa vào nội dung yêu cầu để sử dụng những hình thức kích thích trẻ suy nghĩ, phán đoán và có nhu cầu muốn được tìm hiểu, khám phá. Sử dụng tình huống có vấn đề là đưa ra tình huống có vấn đề và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết. Trẻ có thể đưa ra nhiều phương án khác nhau, cô và trẻ cùng thử thực hiện và chọn cách giải quyết hiệu quả nhất.
Chẳng hạn ở hoạt động “Tìm hiểu về gió”, tôi tắt hết quạt, đóng cửa sổ, cô và trẻ cùng chơi trò chơi: Bay thấp- bay cao. Rồi cô gợi hỏi trẻ:
+ Con cảm thấy không khí của lớp như thế nào?
+ Muốn mát mình phải làm sao?
Rồi cô và trẻ thử mở cửa sổ, dùng quạt giấy, lấy khăn ướt lau mặt,… Sau đó, cả lớp cùng thử mở quạt máy. Cô hỏi trẻ chọn cách nào là mát nhất.
– Hay tình huống: Cô ra vườn hái một số loại trái cây, yêu cầu trẻ tìm ra những loại trái cây có đặc điểm giống nhau (Hoạt động tìm hiểu về loại trái cây nhiều hạt), gà mái mẹ lạc mất trứng, nhờ lớp tìm giúp 4 quả trứng mang về ổ (Hoạt động: Đếm đến 4. Nhận biết chữ số 4),…
Sau thời gian áp dụng “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua các hoạt động học”, tôi đạt được một số kết quả như sau:
* Đối với giáo viên:
– Tôi có thêm kinh nghiệm hơn trong việc gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động học.
– Các hoạt động học đạt hiệu quả và thu hút trẻ tham gia tích cực hơn.
* Đối với trẻ:
– Trẻ tập trung vào giờ học nhiều hơn, tiếp thu nhanh kiến thức mới và có những kỹ năng cần thiết.
Tóm lại để hoạt động học có hiệu quả, trẻ trung chú ý vào hoạt động, theo bản thân tôi cần phải:
– Có hiểu biết đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, khả năng, nhu cầu của trẻ để có phương pháp giáo dục thích hợp.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua các hoạt động học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
3. Bài thuyết trình biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổiThưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua hoạt động học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Giáo dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho trẻ nhỏ. Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin bước vào giai đoạn tiểu học.
– Về thể chất: giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thông qua các bài học và các hoạt động vận động trong quá trình dạy kỹ năng sống. Trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo, kiên trì, giúp cho trẻ nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay đổi.
– Về tình cảm: giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết lắng nghe, chia sẻ, sống có trách nhiệm, biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ.
– Về giao tiếp-ngôn ngữ: giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ tự tin, giao tiếp hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép, hòa nhã.
– Về nhận thức: giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến thức, ham mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho trẻ niềm ham mê học tập suốt đời.
– Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có bước đệm chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn tiểu học: việc giáo dục kỹ năng sống từ sớm giúp trẻ có khả năng thích nghi với sự thay đổi môi trường sống, khả năng hòa nhập nhanh, giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1.
Những kỹ năng cần dạy cho trẻ mầm non không chỉ giúp trẻ có khả năng thích nghi tốt. Mà còn giúp bé rèn luyện tính tự giác, tự lập từ nhỏ trẻ thể hiện cá tính của bản thân mạnh mẽ nhất. Các bé sẽ cảm thấy tò mò với mọi thứ và sẽ rất cố gắng để học hỏi những điều mới mẻ. Vì vậy đây là thời điểm thích hợp nhất để các bậc cha mẹ cũng như thầy cô rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho bé.
*Thuận lợi:
Trường có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ theo quy định cho các độ tuổi.
Trẻ được phân chia học theo độ tuổi 100% và được thực hiện chương trình Giáo dục mầm non.
Giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo, luôn năng nổ, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có nhiều kỹ năng tốt để hướng dẫn trẻ trong quá trình học tập.
Phụ huynh có hiểu biết về Giáo dục mầm non và rất quan tâm đến công tác chăm sóc và giáo dục trẻ của nhà trường.
*Khó khăn:
Số học sinh tương đối đông, vượt chỉ tiêu biên chế số trẻ/lớp đối với các độ tuổi.
Học sinh đa số được phụ huynh nuông chiều quá mức nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ.
Một số phụ huynh chỉ quan tâm đến việc học văn hoá của con mà không quan tâm đến việc dạy các kỹ năng sống cho trẻ nên một số trẻ rất ương bướng và khó bảo.
* Khảo sát thực trạng chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi ở trường trước khi thực hiện đề tài:
Hiện nay, trong các nhà trường đã chú trọng việc đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động hàng ngày dưới nhiều hình thức, đưa lồng ghép vào các hoạt động là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ. Tuy nhiên, ở một số giáo viên chưa thực sự quan tâm tới việc giáo dục rèn kĩ năng sống cho trẻ, chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Đối với trẻ, vào đầu năm học nề nếp, kĩ năng sống còn hạn chế. Vì vậy giáo viên thường tập trung lo lắng cho những trẻ có vấn đề về hành vi và khả năng tập trung. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy! Vì vậy, giáo viên phải mất rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non.
Các biện pháp thực hiện giáo dục kỹ năng sống cần thiết cho trẻ 4-5 tuổi
Biện pháp 1: Lồng ghép các nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các tháng.
Biện pháp 2: Giáo dục kỹ năng sống qua bài tập tình huống tại trường mầm non
Biện pháp 3: Phát triển các kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
Biện pháp 4: Sưu tầm những bài thơ , câu chuyện về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý linh hoạt các tình huống trong cuộc sống, trẻ được bắt đầu làm quen với các kỹ năng như giao tiếp, thích nghi, khám phá thế giới xung quanh, kỹ năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng tạo niềm vui, tự bảo mình, kỹ năng làm việc nhóm, và kỹ năng tự quyết một số tình huống phù hợp với lứa tuổi. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non có một ý nghĩa rất lớn trong sự hình thành con người của trẻ sau này.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi trong trường mầm non”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
4. Bài thuyết trình biện pháp dạy trẻ 24 -36 tháng tuổi quan tâm và yêu thương mọi ngườiI. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta biết:”Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em chính là niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm hi vọng của mỗi gia đình và toàn xã hội.
Như chúng ta biết nhân cách của trẻ không phải ngẫu nhiên mà có. Nó được hình thành trên cơ sở nền tảng của giáo dục. Là một giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề tôi luôn băn khoăn làm thế nào để có thể giáo dục các bé biết yêu thương, đoàn kết, quan tâm, chia sẻ với bạn bè, người thân và mọi người xung quanh. Và đó là lý do tôi chọn bài thuyết trình về: “Một số biện pháp dạy trẻ 24 -36 tháng tuổi quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh”.
II. Biện pháp thực hiện:
Biện pháp 1: Khảo sát
Tôi tiến hành khảo sát trẻ như sau:
– Thông qua hoạt động vui chơi, chơi ở các góc, tôi bao quát, quan sát trẻ chơi sau đó ghi chép lại một cách cẩn thận, tỉ mỉ xem trong khi chơi trẻ có tranh giành đồ chơi với bạn không, biết nhường bạn hay chưa, trẻ đã biết chơi đoàn kết cùng các bạn chưa, trẻ có biết phối hợp cùng bạn trong lúc chơi không?
– Thông qua giờ đón trả trẻ, các giờ hoạt động trong ngày trẻ chơi cùng bạn, tôi quan sát trẻ sau đó ghi chép lại những thái độ, cách bộc lộ cảm xúc của trẻ với bố mẹ, cô giáo và các bạn.
* VD: Tôi cho trẻ quan sát một đoạn video về câu chuyện ”Đôi bạn nhỏ” và đàm thoại với trẻ:
+ Các con vừa xem gì?
+ Con thấy bạn gà và bạn vịt trong đoạn băng đang làm gì?
+ Điều gì xảy ra khi bạn gà bị cáo đuổi bắt?
– Trong giờ đón trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ:
+ Ở nhà các con biết làm những công việc gì để giúp đỡ bố mẹ?
+ Để bố mẹ vui lòng thì con thường làm gì?
+ Con cảm thấy thế nào khi được bố mẹ khen?
Như vậy, việc giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của việc biết yêu thương và chia sẻ là điều không thể thiếu được trong quá trình giáo dục trẻ phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ mầm non.
Biện pháp 2: Giáo dục trẻ biết yêu thương và quan tâm trên hoạt động học:
Thời gian cho mỗi hoạt động học của trẻ nhà trẻ là từ 15- 20 phút nên nội dung tích hợp trong mỗi bài giảng còn hạn chế, chưa có tác dụng khơi gợi cảm xúc và kích thích mong muốn thể hiện tình cảm ở trẻ. Vì vậy tôi đã thiết kế giáo án nhằm dạy trẻ biết quan tâm và yêu thương với mọi người.
Giáo án: Nhận biết tập nói
Giáo án: Dạy trẻ biết chia sẻ yêu thương.
Đề tài: : Bản thân và gia đình thân yêu
* Mục đích- yêu cầu:
– Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, trí tưởng tượng, trẻ hiểu chia sẻ là niềm vui.
– Trẻ biết tên các thành viên trong gia đình
– Trẻ biết yêu mến những người thân trong gia đình.
Qua bài học trẻ biết quan tâm yêu thương không chỉ với bạn bè và mọi người xung quanh mình mà trẻ còn biết yêu thiên nhiên biết cùng bạn bảo vệ môi trường xung quanh mình.
Biện pháp 3: Dạy trẻ biết quan tâm và chia sẻ thông qua trò chơi tập thể:
Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ chính là hoạt thộng vui chơi.Trẻ học thông qua chơi, chơi thông qua học.
Ví dụ một số trò chơi:
* Trò chơi 1: “Hành động yêu thương”
+ Trẻ biết thể hiện tình cảm của mình cho bạn biết bằng các cử chỉ, hành động đơn giản như cầm tay, nắm tay, khoác vai, ôm bạn.
* Trò chơi 2: “Tình bạn thân thiết”
* Trò chơi 3: ” Sinh nhật vui vẻ”
Biện pháp 4: Sưu tầm bài thơ, truyện có nội dung dạy trẻ biết quan tâm giúp đỡ mọi người
VD: Bài thơ: ” Bạn mới”
Giáo dục trẻ: Thông qua bài thơ giáo dục trẻ biết giúp đỡ , quan tâm đến bạn bè xung quanh
VD: Bài thơ: “Yêu mẹ”
Giáo dục trẻ: Biết yêu mẹ của mình và những người thân trong gia đình
Những câu truyện sưu tầm:
VD: Truyện: “Đôi bạn tốt”
Giáo dục trẻ: Thông qua câu chuyện “Đôi bạn tốt”, giáo dục trẻ biết yêu thương, chia sẻ và nhường nhịn bạn
Biện pháp 5: Dạy trẻ biết chia sẻ thông qua ngày hội, ngày lễ:
Ngày 20/10, ngày Tết Trung Thu, Noel, Tết Nguyên Đán, ngày 8/3 và đặc biệt hướng ứng ngày hạnh phúc 20/3. Với mỗi ngày hội tôi cố gắng sử dụng một hình thức tổ chức riêng nhằm lôi cuốn hấp dẫn trẻ tích cực tham gia hoạt động.
Ví dụ: Ngày 8/3- ngày quốc tế phụ nữ
Trước ngày tổ chức lễ hội tôi cùng trẻ trò chuyện về ý nghĩa ngày hội, đưa ra ý định, hình thức tổ chức và thăm dò ý kiến của trẻ về món quà tặng bà và mẹ. Sau đó dạy trẻ làm bưu thiếp tặng bà, tặng mẹ, giúp trẻ ghi lại cảm xúc, lời chúc của trẻ dành cho bà và mẹ.
Biện pháp 6: Phối kết hợp với phụ huynh để dạy trẻ biết quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh
– Qua bảng tuyên truyền ở lớp và giờ đón, trả trẻ tôi kết hợp với phụ huynh thường xuyên giáo dục trẻ biết quan tâm và giúp đỡ mọi người xung quanh
– Qua đó sự chăm sóc và giáo dục cho trẻ tôi thấy được sự chú ý của trẻ phát triển một cách rõ rệt.
Muốn trẻ em hình thành được tính quan tâm đến mọi người thân xung quanh trẻ thì nhà trường và phụ huynh phải thống nhất những yêu cầu giáo dục trẻ. Giáo viên thông báo với phụ huynh những biện pháp giáo dục trẻ, yêu cầu phụ huynh theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực tiễn ở nhà để cùng phối hợp giáo dục trẻ.
III. Kết quả khảo sát thực nghiệm:
Qua kết quả thực nghiệm tôi thấy. Phần lớn các cháu thích đến lớp, biết vâng lời cô, yêu thương giúp đỡ bạn và mọi người xung quanh.
– Trong giờ chơi hiện tượng đánh nhau, tranh giành đồ chơi giảm bớt và không còn nữa. Trẻ chơi đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau.
– Không những thế trẻ biết quan tâm, chia sẻ công việc với cô và bạn bè như: Giúp cô, lấy ghế ngồi, lấy đồ những đồ dùng của trẻ khi cô yêu cầu….
IV. Kết luận
Qua quá trình thực hiện giáo dục trẻ biết quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh chúng ta thấy rằng việc giáo dục trẻ biết yêu thương và chia sẻ là một yếu tổ rất quan trọng và rất cần thiết. Muốn đạt được những thành tích trên, trước hết là nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự đoàn kết của chị em đồng nghiệp, nhà trường và phụ huynh đã giúp đỡ để tôi thực hiện chuyên đề một cách dễ dàng hơn.
Bản thân tôi được trao đổi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ qua các hoạt động học, các hoạt động vui chơi, ngoài ra tôi còn được phụ huynh, đồng nghiệp tin tưởng, yêu quý.
Vừa rồi tôi đã trình bày xong bài thuyết trình của mình, xin cảm ơn các đồng chí đã chú ý lắng nghe.
5. Bài thuyết trình biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua kể chuyệnThưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36t thông qua kể chuyện trẻ nghe”.
Kính thưa ban giám khảo!
Đối với trẻ nhà trẻ nói chung và trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với ngôn ngữ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát , bài thơ, đồng dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Lứa tuổi này trẻ đang học nói, Những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy việc cho trẻ tiếp xúc sớm với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể lại chuyện là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.
Thông qua hoạt động kể chuyện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tư duy, trí nhớ , biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ tập kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng, trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về câu chuyện bằng chính ngôn ngữ của trẻ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu phát triển toàn diện cho trẻ mầm non. Do vậy là giáo viên dạy trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi tôi đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc biệt là thông qua hoạt động dạy trẻ kể lại chuyện. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện.
*Thuận lợi a. Cơ sở vật chất:
– Nhà trường được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp như: UBND quận, PGD&ĐT quận, Đảng ủy, UBND phường, hội cha mẹ học sinh.
– Cơ sở 1 và cơ sở 2 của nhà trường được đầu tư xây dựng mới nên có đầy đủ các phòng chức năng, lớp học rộng, thoáng, đầy đủ đồ dùng đồ chơi.
– Sân trường rộng, thoáng, xanh, sạch, đẹp.
b. Giáo viên:
– Giáo viên trong lớp đều có trình độ, nghiệp vụ sư phạm vững vàng, năng động, sáng tạo, có năng khiếu làm đồ dùng, yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục mầm non.
c. Học sinh:
– Lớp tôi đang dạy là lớp nhà trẻ có độ tuổi từ 24-36 tháng với 34 trẻ, 100% các cháu đúng độ tuổi, sức khỏe bình thường, khả năng vận động tương đối đồng đều.
– Trẻ ở lớp với cô cả ngày, nên thuận lợi trong việc giáo dục rèn luyện có tính xuyên suốt.
d. Cha mẹ học sinh:
– Cha mẹ học sinh nhiệt tình phối hợp với trường lớp trong các nội dung chăm sóc giáo dục của nhà trường với con em mình.
*Khó khăn a. Giáo viên
– Đây là năm đầu tiên trường có lớp nhà trẻ vì vậy giáo viên gặp nhiều khó khăn.
b. Trẻ:
– Ngôn ngữ của trẻ đầu năm còn hạn chế, trẻ chỉ nói được 1 đến 2 từ đơn giản như: Ạ, vâng, bố, mẹ, bà, cô.
– Các trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin
c. Phụ huynh học sinh:
– Đa số phụ huynh ở khu vực này là đi chợ buôn bán cả ngày, họ thường ít có thời gian bên con, trò chuyện với con.
– Có một số phụ huynh còn xem nhẹ khả năng nói của con, họ nghĩ để con phát triển tự nhiên, dần dần sẽ tự biết nói.
Các biện pháp đã tiến hành
1. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ các nội dung của hoạt động trước khi dạy:
Hoạt động kể chuyện là một trong những hoạt động giúp trẻ phát triển ngôn ngữ rất tốt nhưng hoạt động kể chuyện có thành công hay không phần lớn là do giọng kể của giáo viên, mà muốn có giọng kể hay thì trước hết người giáo viên phải thuộc truyện, hiểu nội dung truyện. Chính vì vậy tôi luôn đọc kỹ truyện, luyện giọng kể sao cho ngộ nghĩnh đáng yêu phù hợp với từng nhân vật trong truyện:
VD: Truyện ” Thỏ con không vâng lời” giọng của thỏ mẹ, bác gấu thì ấm hơn, nói chậm và tình cảm.
– Giọng của thỏ con lúc vui thì nhí nhảnh, trong trẻo. Khi làm sai thì nức nở, buồn bã hoặc dùng tay gạt nước mắt.
2. Tích cực sưu tầm, làm đồ dùng đẹp và sáng tạo phù hợp với nội dung truyện:
Trẻ nhà trẻ thích màu sắc rực rỡ, đồ vật phát ra tiếng kêu và có âm thanh vui nhộn. Vì vậy để tạo được hứng thú cho trẻ trong hoạt động kể truyện tôi đã không ngừng tìm tòi, làm đồ dùng từ nguyên liệu sẵn có sao cho đẹp mắt, hấp dẫn trẻ nhưng phải đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý. Cô sử dụng đồ dùng thành thạo, tạo tình huống bí mật để thu hút trẻ vào hoạt động một cách thoải mái tự tin và kích thích trẻ nói được nhiều.
Ví dụ: Truyện “Cây táo”: Từ vỏ chai nước ngọt tôi đã cắt và tận dụng phần đáy của hai cái chai ghép vào nhau thành quả táo sau đó phun sơn màu xanh, đỏ theo ý thích rồi trang trí lên cây khi trẻ lên bắt chước hành động của nhân vật trẻ được lên chăm sóc, được cầm, được chơi với chúng, trẻ được nói theo ý hiểu của trẻ qua đó trẻ có thể dễ dàng tưởng tượng ra cây táo thật.
– Khi trẻ được nhìn, cầm trên tay trẻ rất thích thú, trẻ sẽ dễ dàng nói tên và biết đặc điểm của cây táo.
Ngoài tranh truyện do nhà trường cấp phát tôi còn làm rối tay, rối dẹt để dạy trẻ.
Ví dụ: Để làm mô hình ngôi nhà sao cho gần gũi với cảnh nông thôn Việt Nam tôi dùng tre để làm thân nhà và dùng rơm để làm mái nhà đó là những nguyên liệu dễ tìm mà lại còn gần gũi với trẻ. Hay những con rối bằng vải vụn. Trước kia có một số đồng nghiệp cho rằng hoạt động kể chuyện thì không cần có đồ dùng như các tiết học khác mà chỉ làm đồ dùng cho cô nên trẻ hay nhàm chán. Đối với lứa tuổi nhà trẻ các nhân vật trong truyện đều là các con vật gần gũi. Những con vật nhỏ nhắn xinh xắn luôn là những người bạn đáng yêu của trẻ, hiểu được tâm lý này của trẻ nên khi kể truyện tôi đã làm đồ dùng cho trẻ như mũ các nhân vật gà con, vịt con, thỏ con để trẻ được cầm, đội và bắt chước nhân vật trong truyện. Việc làm đồ dùng phục vụ cho các hoạt động kể truyện đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng sáng tạo của trẻ trong giờ học, khi trẻ có hứng thú với các hoạt động trẻ sẽ mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, điều đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ trong các hoạt động.
3. Đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động học:
Các nhân vật trong truyện thì luôn vận động và thay đổi vị trí nhưng nếu ta chỉ dạy bằng tranh thì trẻ khó có thể tưởng tượng và hiểu được những hành động của nhân vật. Vì vậy tôi kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin vào làm và tìm tòi các hiệu ứng hình ảnh, slides để tạo hứng thú, kích thích trẻ tập nói để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Thường xuyên truy cập vào các trang web như: Giáo dục mầm chúng tôi giáo án điện tử. com, youtube. Com, suối nguồn yêu thương.net, học viện IQ để tìm các tài liệu, video có nội dung phù hợp với nội dung bài dạy sau đó sử dụng máy tính, tivi vào dạy trẻ.
4. Lựa chọn câu hỏi đàm thoại và nội dung tích hợp:
Trẻ ở lứa tuổi này nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi thường xuyên nhắc nhở trẻ hoặc nói mẫu cho trẻ nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại, luôn tạo điều kiện đáp ứng mọi câu hỏi của trẻ một cách ngắn gọn, dễ hiểu. Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với độ tuổi, kích thích trẻ nhận biết, phân biệt được sự vật, hiện tượng tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác.
Cho trẻ kể cùng cô: Cô là người dẫn truyện, trẻ kể tiếp cùng cô. Sau khi xác định được câu hỏi đàm thoại. Tôi suy nghĩ để tích hợp các nội dung khác vào giờ kể chuyện sao cho hợp lý, logic phù hợp với giờ học.
Ví dụ: Để gây hứng thú vào bài trong các câu chuyện tôi có thể tích hợp thêm:
+ Trò chơi vận động
+ Âm nhạc: Khi kết thúc hoạt động tôi thường cho trẻ hát, vận động theo nhạc.
+ Tập nói: Trong giờ kể truyện tôi luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ, chú ý sửa sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng, tôi cho trẻ bắt chước, nhắc lại lời nói của nhân vật hoặc từ láy nhiều lần.
Cô giải thích nghĩa của từ khó kết hợp động tác minh họa giúp cho trẻ hiểu, trẻ nói và làm theo cô.
5. Thay đổi hình thức tổ chức phù hợp, sáng tạo:
Thông thường các giáo viên tổ chức các hoạt động kể chuyện trong lớp và cho trẻ ngồi hình chữ U từ đầu đến cuối vì cho rằng trẻ nhà trẻ còn nhỏ không cần thay đổi chỗ ngồi và địa điểm. Chính vì vậy đã khiến trẻ cảm thấy khó chịu, nàm chán thậm chí nằm bò ra sàn nhà dẫn đến tình trạng trẻ không chú ý, không nhớ được tên truyện và không trả lời được các câu hỏi của cô nên mở rộng vốn từ cho trẻ còn ít. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải thay đổi hình thức tổ chức linh hoạt.
Ví dụ: Với câu chuyện ” Sẻ con” tôi cho trẻ ra vườn cổ tích và đứng xung quanh các nhân vật để nghe cô kể chuyện để được nhìn, vuốt ve và gọi tên các nhân vật mà mình yêu thích.
Hoặc xây dựng khung cảnh truyện ngay trong lớp học. Cô giáo là người dẫn truyện còn trẻ đóng vai, bắt chước các nhân vật trong truyện và kể cùng cô. Trẻ khi được bắt chước các nhân vật sẽ rất thích thú và chú ý vào mọi hoạt động qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ và sự hiểu biết của mình về các hiện tượng xung quanh. Trẻ biết nói đủ câu và trả lời cô rõ ràng mạch lạc.
6. Chú ý đến trẻ cá biệt và chậm phát triển:
Bên cạnh việc thay đổi hình thức tổ chức thì vấn đề cô giáo phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi và quan trọng hơn là phải nắm rõ đặc điểm riêng của từng trẻ nhằm tìm ra các biện pháp bồi dưỡng cho trẻ theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi hợp lý:
+ Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ mạnh dạn, tự tin và nhanh nhẹn.
+ Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình.
+ Trẻ hiếu động, cá biệt, hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan, trẻ hay khóc ngồi cạnh cô giáo, để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn. Việc phân nhóm này rất có hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tôi lấy ví dụ thực tế đã trải qua: Theo sự sắp xếp chỗ ngồi trên, khi tôi mời một cháu khá trả lời câu hỏi thì cháu trung bình ngồi cạnh bên bạn có thể nghe được câu trả lời của bạn và khi được cô mời lên trả lời lại thì cháu sẽ trả lời được và với sự động viên khen thưởng của cô sẽ tạo cho trẻ hứng thú học và trẻ đó sẽ dần dần tiến bộ lên làm cho nề nếp học tập của trẻ ngày càng ổn định.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36t thông qua kể chuyện trẻ nghe”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
6. Bài thuyết trình lĩnh vực giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ 3-4 tuổiKính thưa ban giám khảo:
Như Bác Hồ đã từng nói:
” Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Lĩnh vực giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ mầm non là một trong những nội dung giáo dục quan trọng trong chương trình chăm sóc- giáo dục trẻ mầm non, nhằm đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển trí tuệ, về thể chất,
Vì vậy, trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ, nội dung giáo dục rèn luyện những thói quen vệ sinh- hành vi văn minh cho trẻ là một việc rất quan trọng.
Thưa các đồng chí:
Để giúp trẻ 3 – 4, phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội tôi đã lựa chọn những biện pháp sau:
* Biện pháp 1: Rèn luyện những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh.
Để trẻ có được thói quen vệ sinh hình thành kĩ xảo cho trẻ cần giáo dục trẻ qua 3 giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1: Trẻ hiểu cách làm. Trẻ hiểu mỗi hành động cần làm những thao tác gì? Các thao tác đó diễn ra theo trình tự như thế nào? Cách tiến hành mỗi thao tác cụ thể.
+ Giai đoạn 2: Hình thành kĩ năng. Trẻ cần biết vận dụng các kiến thức đã biết để tiến hành một hành động cụ thể nào đó. Việc tiến hành các hành động ở giai đoạn này đòi hỏi sự tập trung, chú ý.
+ Giai đoạn 3: Hình thành kĩ xảo. Trẻ cần biết biến các hành động có ý chí thành hành động tự động hóa bằng cách luyện tập nhiều lần.
Để có các kĩ năng vệ sinh trở thành thói quen cho trẻ cần đảm bảo các điều kiện như: trẻ phải được thực hiện các hoạt động vệ sinh trong cuộc sống hàng ngày, cần giáo dục trẻ các thói quen sau:
Ví dụ
+ Thói quen rửa mặt: Trẻ cần nắm được tại sao cần rửa mặt (rửa mặt để khuôn mặt xinh xắn, để mọi người yêu mến, ko bị bệnh tật…),
+ Thói quen rửa tay: Trẻ cần biết tại sao phải rửa tay, khi nào cần rửa tay (trước- sau khi ăn, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh…). Cách rửa tay theo 6 bước.
+ Thói quen súc miệng, đánh răng: Trẻ cần biết tại sao phải đánh răng (cho răng thơm tho, sạch sẽ, ngọi người yêu mến, tránh bị sâu răng…), lúc nào cần đánh răng, súc miệng
+ Thói quen chải tóc: Trẻ cần biết tại sao phải chải tóc, lúc nào nên chải tóc (sau khi ngủ dậy, trước khi ra ngoài đường, khi tóc rối bù…). Chái tóc có sự giúp đỡ của người lớn( trẻ bé).
+ Thói quen mặc quần áo sạch sẽ: Trẻ cần biết tại sao mặc quần áo sạch sẽ (để mọi người yêu mến, giữ quần áo sạch đẹp…) Trẻ cấn biết lúc nào nên mặc thêm và lúc nào nên cới bớt quần áo:
* Thói quen ăn uống có văn hóa, vệ sinh: Việc ăn uống không những đáp ứng nhu cầu ăn uống của cơ thể mà còn thể hiên hành vi văn minh trên bàn ăn thể hiện sự tôn trọng với mọi người xung quanh
* Thói quen hoạt động có văn hóa: thể hiện hành vi của trẻ tham gia vào các hoạt động như học tập, vui chơi, các sinh hoạt khác. Trẻ biết giữ gìn ngăn nắp đồ dùng, biết thực hiện các hoạt động.
* Thói quen giao tiếp có văn hóa: Trẻ phải nắm được một số quy định về giao tiếp của trẻ với bạn và người lớn, biết sử dụng ngôn ngữ, hành vi giao tiếp,biết chào hỏi mọi người, biết cảm ơn- xin lỗi…
* Biện pháp 2: Cô giáo cần nắm được các trình tự để hình thành một thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
– Ở lứa tuổi này trẻ tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường. Vì vậy, cô cần phải hướng dẫn cho trẻ biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dể hiểu.
VD: Thao tác rửa tay một trẻ thực hiện các trẻ khác làm theo – cô đọc lời hướng dẫn.
– Tổ chức và nhắc nhở trẻ cần phải thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm cho trẻ được thực hành thường xuyên.
* Biện pháp 3: Phương pháp hình thức giáo dục thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
Cô giáo cần nắm vững một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Việc giáo dục thói quen và hành vi văn minh cho trẻ có thể tiến hành qua các bước sau:
Bước 1: Cho trẻ định hướng vào “mẫu” cần giáo dục trẻ. Đó là mẫu hành động của người lớn.
Bước 2: Tổ chức cho trẻ luyện tập, tạo điều kiện cho trẻ tập theo “mẫu” đã được định hướng.
Bước 3: Đưa nội dung giáo dục thành yêu cầu của nếp sống hàng ngày.
VD: Trò chuyện với trẻ về tắm gội
Mục đích: Trẻ hiểu được lợi ích về việc tắm gội sạch sẽ. Hình thành ở trẻ thói quen giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ.
* Biện pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh để giúp trẻ hình thành những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ 3-4 tuổi.
Trường mầm non là nơi cha mẹ trẻ tin tưởng và gửi gắm tất cả vào cô giáo, việc hình thành cho trẻ những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ là vấn đề không thể thiếu trong hoạt động học tập của trẻ và cha mẹ cũng nhận thức thấy rõ tầm quan trọng của việc này. Hiểu được mối quan tâm của phụ huynh học sinh trong việc chăm sóc giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ, nhận thức rõ trách nhiệm của người giáo viên mầm non, tôi suy nghĩ và tìm cách vận dụng với thực tế tại lớp của mình.
Trong các buổi họp phụ huynh học sinh đầu- giữa- cuối năm học tôi tuyên truyền với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng và sự cần thiết của việc hình thành cho trẻ những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Trao đổi thường xuyên với gia đình trong giờ đón và trả trả trẻ. Xây dựng nội dung, cách thức tuyên truyền với các bậc phụ huynh về triển khai thực hiện chuyên đề phù hợp, làm chuyển biến nhận thức của phụ huynh trong việc hình thành cho trẻ những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
Thưa các đồng chí: Vừa rồi tôi đã trình bày xong bài thuyết trình của mình, xin cảm ơn các đồng chí đã chú ý lắng nghe.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tổng Hợp Các Bài Thuyết Trình Tham Gia Hội Thi Giáo Viên Giỏi Tiểu Học
Bài thuyết trình thi giáo viên chủ nhiệm giỏi
Thi giáo viên giỏi là hoạt động diễn ra thường niên ở các trường. Những bài thuyết trình tham gia hội thi giáo viên giỏi tiểu học mà chúng tôi giới thiệu sau đây sẽ giúp giáo viên chuẩn bị tốt nhất cho hội thi giáo viên giỏi.
Biện pháp thi giáo viên giỏi 1. Bài thuyết trình: Một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinhKính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh”.
Kính thưa ban giám khảo!
Muốn học sinh phát âm đúng thì mỗi giáo viên khi luyện phát âm phải có sự vận dụng mềm, trong phần luyện tập có chia ra nội dung bắt buộc và nội dung lựa 5 chọn. Chấp nhận nhiều chuẩn chính âm. Giáo viên sẽ lựa chọn chuẩn phát âm nào gần nhất với giọng địa phương của mình đối chiếu với cách phát âm tự nhiên theo phương ngữ của mình còn những điểm nào sai lạc.
Trước hết giáo viên phải tự chữa lỗi cho mình rồi xây dựng kế hoạch chữa lỗi phát âm cho học sinh trong giờ tập đọc và cả giờ học khác.
Thái độ sư phạm đúng đắn của người giáo viên là sự hướng dẫn tận tình, đặc biệt là động viên tinh thần thương yêu giúp đỡ học sinh để các em có hứng thú rèn phát âm đúng… Mặt khác, vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng và khả năng ứng đối nhanh nhạy, thông minh của giáo viên và chọn phương pháp sửa phát âm sai cho học sinh sao cho mới mẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành bại của việc rèn kỹ năng nói sao cho chuẩn.
Mục tiêu của việc rèn phát âm chuẩn cho học sinh là các em phải đọc trơn, đọc thành thạo, đọc đúng rõ ràng, rành mạch, diễn cảm. Học sinh luôn có ý thức đọc đúng đọc hay. Đồng thời giáo viên cũng cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh phát âm sai ở chỗ nào để từ đó có biện pháp sửa sai rèn đúng cho thích hợp.
Thực trạng:
Tôi trực tiếp công tác giảng dạy tại Trường Tiểu học … đã nhiều năm, trong quá trình giảng dạy cũng như tiếp xúc với các em học sinh ở đây, tôi nhận thấy:
Sở dĩ, do các em phát âm sai như vậy, tôi thiết nghĩ là do: Địa phương nằm trong vùng có điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đa phần các em là con nhà lao động nên việc học tập của các em có phần bị hạn chế, các em chưa được trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng khi đến lớp. Việc học ở nhà lại chưa có sự kèm cặp quan tâm của gia đình. Điều đó làm cho thời gian học và hiệu quả học tập của các em bị hạn chế ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em.
Với thực trạng như vậy, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp chữa lỗi phát âm cho học sinh nhằm khắc phục tình trạng phát âm sai trong trường nâng cao chất lượng phát âm chuẩn.
Từ đó, nâng cao chất lượng giảng dạy. Hơn nữa, tôi nhận thấy người giáo viên tiểu học là người thầy đầu tiên đặt nền móng trang bị cho các em ý thức về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn văn hoá đồng thời ở trường Tiểu học có điều kiện rèn cho học sinh phát âm chuẩn, bởi trong chương trình học có phân môn học vần, Tập đọc.
Những biện pháp:
Trước hết cần đọc đúng đọc diễn cảm. Tiếp đó, cần bồi dưỡng cho học sinh có mong muốn, có ý thức đọc đúng chính âm càng sớm càng tốt. Giáo viên tập cho học sinh biết quan sát mặt âm thanh lời nói của người khác và của bản thân mình để điều chỉnh đọc, nói cho tốt. Đồng thời, chúng ta cần nắm chắc các biện pháp chữa lỗi phát âm bao gồm biện pháp luyện theo mẫu, biện pháp cấu âm và biện pháp luyện âm đúng qua âm trung gian. Tuỳ thuộc âm thanh sai lạc, tùy thuộc vào học sinh mà giáo viên lựa chọn biện pháp thích hợp .
1. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện theo mẫu: Bằng phát âm mẫu của mình giáo viên đưa ra trước học sinh cách phát âm chuẩn, các từ cần luyện, yêu cầu học sinh phát âm theo.
2. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: Giáo viên mô tả cấu âm của một âm nào đó rồi hướng dẫn học sinh phát âm theo.
Với phụ âm cần mô tả vị trí của lưỡi, phương thức cấu âm. Tôi đã tiến hành sửa từng âm:
Sai phát âm /p/ pờ thành /b/ bờ, (p và b) đều là hai phụ âm đồng vị về mặt cấu âm. môi – môi nhưng khác nhau về mặt thanh tính, /p/ là phụ âm vô thanh, /b/ là phụ âm hữu thanh. Để luyện đọc đúng /p/, tôi đã hướng dẫn HS tự đặt lòng bàn tay trước miệng, một tay đặt lên thanh quản. Khi phát âm /b/ là âm vốn có sẽ cảm nhận được độ rung nhẹ của thanh quản và không thấy luồng hơi phát ra.
Cho trẻ bậm hai môi lại và bật hơi qua môi mạnh hơn, tạo âm /p/ câm. Cho trẻ làm lại như trên nhưng phát thành tiếng /p/ hay ”đèn pin “, pí pa -pí pô”…. Cho trẻ đặt một tay lên thanh hầu và lòng bàn tay trước miệng, trẻ sẽ dễ dàng nhận biết được sự khác biệt giữa hai âm. Khi phát âm /p/ dây thanh rung mạnh và có luồng hơi từ miệng phát ra đập vào lòng bàn tay .
Sai phát âm /n/ nờ – /l/ lờ lẫn lộn: Học sinh hay phát âm lẫn giữa l/n, ch/tr, d/gi và phần lớn các em không ý thức được mình đang phát âm âm nào. Để chữa lỗi phát âm cho học sinh tôi phải trực quan hóa sự mô tả âm vị và hướng dẫn học sinh quan sát, tự kiểm tra xem mình đang phát âm âm nào: /n/ là một âm mũi, khi phát âm, sờ tay vào mũi sẽ thấy mũi rung, còn khi phát âm âm /l /mũi không rung. Sau đó, ta cho học sinh luyện phát âm /l/ bằng cách bịt chặt mũi đọc la, lo, lô, lu, lư,… Khi bịt chặt mũi học sinh không thể phát âm các tiếng na, no, nô, nu, nư. Cho học sinh luyện nói câu ”con lươn nó lượn trong lọ, ”cái lọ lộc bình nó lăn lông lốc ”… Hoặc hướng dẫn học sinh khi phát âm âm /l/ thì đưa lưỡi lên phía bên trên lợi của hàm trên ngạc cứng, còn khi phát âm /n/ thì đưa đầu lưỡi vào mặt trong của hàm răng. …
3. Biện pháp chữa lỗi bằng âm trung gian: Là biện pháp chuyển từ âm sai về âm đúng qua âm trung gian. Biện pháp này thường được dùng để chữa từ thanh nặng về thanh hỏi, thanh sắc về thanh ngã. Để chữa lỗi này cho học sinh tôi đã làm công việc tạo mẫu luyện cho trẻ phát âm riêng từng thanh hỏi, ngã. Phát âm các tiếng có thanh hỏi ngã cần qua các bước sau đây:
+ Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh. Ví dụ: sỏi, thỏi gỏi. Ngã: bã, đã, giã, mã
+ Tiếp theo chắp các tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh. Ví dụ: hỏi: thảo, phải, kẻo. (âm tiết nửa mở) ngã: ngõ, khẽ, cũ. (âm tiết mở).
+ Cuối cùng chắp bất kỳ âm đầu các vần với các thanh.
4. Tập hát để giúp học sinh phát âm đúng một vài thanh: Chẳng hạn, âm vực của thanh huyền thấp hơn thanh sắc (hoặc thanh không) nên tập hát thanh sắc (hoặc thanh không) thành thanh huyền rất thuận lợi.
Đối với trò:
Phải chú ý theo dõi sự hướng dẫn của giáo viên, chăm chỉ tự tin trong học tập, phải hoà đồng cùng bạn bè, điều gì không hiểu mạnh dạn hỏi thầy cô hoặc bạn bè. Hằng ngày, dành thời gian hợp lý cho việc luyện đọc. Luôn luôn có ý thức luyện phát âm đúng, đọc chuẩn rõ ràng lưu loát rồi diễn cảm. Chịu khó tìm đọc các loại truyện tranh trong sáng lành mạnh trong sáng, báo Măng non, báo Nhi Đồng …
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
2. Bài thuyết trình: Một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớpKính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp”.
I. THỰC TRẠNG 1. Thuận lợi
– Cán bộ quản lí trong nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ giáo viên trong công tác chủ nhiệm lớp và triển khai chuyên đề “Tổ chức quản lí lớp học tích cực”. Thông qua buổi tập huấn, mỗi giáo viên đều nâng cao nhận thức kinh nghiệm chủ nhiệm lớp.
– Bản thân mỗi giáo viên đều nhận thấy vai trò quan trọng của Ban cán bộ lớp đối với công tác chủ nhiệm nên đều muốn xây dựng một đội ngũ cán bộ lớp giỏi.
– Giáo viên trong trường cũng như trong khối luôn quan tâm, giúp đỡ và chiasẻ những kinh nghiệm chủ nhiệm.
– Học sinh trong trường nói chung cũng như học sinh lớp 2/4 nói riêng luônđược giáo viên giáo dục kĩ năng sống thông qua các bài học. Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt dưới cờ các em luôn được thầy Tổng phụ trách tổ chức các trò chơi rèn kĩ năng sống cho các em.
2. Khó khăn
– Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến công tác chủ nhiệm còn xao nhãng trong vấn đề quản lí lớp học.
– Giáo viên thường chú trọng về kiến thức còn trong công tác tự quản của cán bộ lớp thì chưa dạy các em phải làm như thế nào. Nhất là giáo viên dạy lớp 1, 2 thường lo học sinh của mình còn nhỏ nên việc quản lớp giáo viên luôn là người làm. Vậy nên vai trò của Ban cán bộ lớp không được phát huy, các em không có cơ hội được thể hiện năng lực lãnh đạo của mình.
– Các em học sinh lớp 2 còn quá nhỏ nên tính tự quản chưa cao, khả năng lãnh đạo còn hạn chế. Các em thường hay ngại ngùng, e dè, chưa tự tin, chưa mạnh dạn trước tập thể. Bên cạnh đó, các em thường cả nể khi nhắc nhở các bạn. Khi gặp những bạn hay chống đối thì các em thấy nản và không muốn làm. Vì vậy công tác chủ nhiệm của giáo viên gặp rất nhiều khó khăn và chồng chéo.
– Trong năm học này, việc dạy và học bán trú là điều điều hoàn toàn mới mẻ với giáo viên và học sinh nên trong công tác quản của giáo viên và tự quản của học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn.
II. BIỆN PHÁP 1. Nội dung thực hiện:
Nâng cao năng lực tự quản của Ban cán bộ lớp trong công tác quản lí lớp học về nề nếp: trật tự; vệ sinh, xếp hàng; học tập; ăn, ngủ; phong trào thi đua; các cuộc vận động và hoạt động ngoại khóa. Qua đó tập cho học sinh lớp năng lực quản lí, lãnh đạo, mạnh dạn và tự tin.
2. Biện pháp thực hiện 2.1 Tìm hiểu học sinh
– Sau khi nhận được phân công lớp chủ nhiệm, tôi gặp giáo viên chủ nhiệm năm trước để tìm hiểu tình hình chung của cả lớp. Tôi chú ý đến năng lực quản lí lớp của từng em trong ban cán bộ cũ.
Ngày đầu làm quen với lớp, tôi giới thiệu về bản thân và mời các em tự giới thiệu về mình để các em tự tin hơn khi nói trước tập thể lớp. Thông qua đó, nhiều em chứng tỏ được năng lực của mình.
2.2. Bầu Ban cán bộ lớp
– Đầu tiên, tôi khuyến khích các em xung phong ứng cử. Các em phải mạnh dạn và tự tin phát biểu trước tập thể lớp: Nếu được làm lớp trưởng các em sẽ quản lý lớp như thế nào. Sau đó, cho các em tự đề cử những bạn có đủ năng lực quản lí lớp.
– Tổ chức cho cả lớp bỏ phiếu tín nhiệm.
Mỗi em sẽ được nhận một lá phiếu và ghi tên những bạn các em muốn chọn. Các em sẽ cảm thấy vui, hào hứng vì được cầm phiếu thực hiện quyền” dân chủ” của mình. Từ đó giúp các em có cách lựa chọn đúng.
Ban cán bộ lớp tôi sẽ được học sinh trong lớp bầu luân phiên trong năm học một cách công khai để nhiều em có cơ hội thể hiện năng lực của mình.
2.3. Phát huy năng lực của Ban cán bộ lớp thông qua các hoạt động.
Thông qua các hoạt động, tôi giao nhiệm vụ và hướng dẫn Ban cán bộ lớp làm việc để các em phát huy khả năng lãnh đạo của mình. Cụ thể:
– Nề nếp trật tự, vệ sinh, xếp hàng: Lớp trưởng theo dõi, kiểm tra mọi hoạt động của lớp: điểm danh và ghi rõ sĩ số của lớp; điều khiển các bạn xếp hàng ra vào lớp, đi ăn, đi ngủ, chào cờ và thể dục giữa giờ. Lớp phó lao động: Theo dõi việc giữ gìn vệ sinh trong lớp, đi vệ sinh đúng nơi quy định; phân công tưới cây, lau bàn, tủ; theo dõi việc tự ý bật câu dao điện.
– Phong trào thi đua: Lớp trưởng, lớp phó đưa ra kế hoạch cụ thể và phối hợp với các tổ trưởng, tổ phó để các tổ viên cùng thực hiện.
– Các cuộc vận động: Lớp trưởng nêu rõ mục tiêu cho cả lớp và giao nhiệm vụ cho các tổ. Các tổ trưởng có trách nhiệm vận động tổ viên tham gia nhiệt tình để thi đua với các tổ khác.
– Hoạt động ngoại khoá: Lớp trưởng làm chỉ huy chia lớp thành các đội và bầu ra lãnh đội. Các lãnh đội hướng dẫn đội của mình tham gia hoạt động. Từ đó tạo tính thi đua giữa các đội và các lãnh đội.
– Hay trong tiết Hoạt động tập thể đầu tiên, tôi hướng dẫn tỉ mỉ Ban cán bộ lớp cách tổ chức lớp: Làm gì và Làm như thế nào để các em không thấy bỡ ngỡ khi tự mình tiến hành. Từ tuần thứ hai trở đi, tôi để các em tự tổ chức, điều khiển để các em mạnh dạn, tự tin thể hiện khả năng của mình trước lớp.
2.4. Khen thưởng công khai, khiển trách nhẹ nhàng.
Trong học tập, em nào tích cực và có tiến bộ tôi thưởng một phiếu khen và các em được tham gia bốc thăm trúng thưởng trong giờ Chào cờ đầu tuần. Các em sẽ rất vui và cùng nhau thi đua trong học tập. Như vậy nề nếp học tập của cả lớp sẽ tốt hơn và công việc của lớp phó học tập cũng như các tổ trưởng sẽ thuận lợi rất nhiều.
Cuối tháng, tôi cho các em bình chọn “Tổ trưởng giỏi” của tháng. Tổ nào thực hiện tốt thì tổ trưởng được bầu là Tổ trưởng giỏi. Tổ nào thực hiện chưa tốt thì tổ trưởng tổ khác chỉ ra khuyết điểm và giáo viên nhắc nhở nhẹ nhàng trước lớp để các em cố gắng phấn đấu ở tuần sau. Điều này khích lệ tinh thần làm việc mang tính thi đua của các tổ trưởng.Trong tháng, nếu lớp 2 lần được Cờ luân lưu thì lớp trưởng và 2 lớp phó cũng được thưởng phiếu khen.
2.5. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò và trò – trò
Tôi luôn lắng nghe những thắc mắc của các em. Công việc tôi giao trên tinh thần thầy phân công- trò hợp tác để các em thấy được công việc mình làm là không bắt buộc. Tôi luôn khuyến khích các em mạnh dạn kiến nghị, đề xuất. Nếu hợp lí tôi làm theo cách của các em. Như vậy các em sẽ thấy vai trò của mình thật quan trọng và các em càng cố gắng hơn.
Tôi chú ý đến việc tạo mối quan hệ tốt giữa trò với trò. Khi các em hiểu nhau thì sẽ hợp tác trong mọi công việc. Khi tham gia các trò chơi vận động hoặc các hoạt động ngoại khóa tôi thường cho các em tham gia tập thể để các em có tinh thần đoàn kết và hiểu nhau hơn.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
3. Bài thuyết trình: “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học”Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là hình thành cho các em lòng nhân ái mang bản sắc con người Việt Nam; Yêu quê hương đất nước hòa bình, công bằng bác ái, kính trên nhường dưới, đoàn kết với mọi người, … Có ý thức về bổn phận của mình đối với người thân, đối với bạn bè, đối với cộng đồng và môi trường sống. Tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật, các quy định của nhà trường, khu dân cư, sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, trung thực. Biết cách tự phục vụ, biết cách học tập, vận dụng làm được một số việc trong gia đình.
Trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, chúng ta phải hình thành cho các em những thói quen chuẩn mực đạo đức cụ thể là: Lòng kính yêu ông bà, cha mẹ, kính trọng thầy giáo, cô giáo, quý mến bạn bè, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn; thật thà dũng cảm trong học tập, lao động; lòng biết ơn những người có công với đất nước… Những thói quen này, những đức tính này thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức nhân đạo của loài người là các yếu tố tạo thành nền tảng để hình thành và phát triển nhân cách đạo đức mới. Những thói quen hành vi đạo đức này không đơn thuần là những hành động ứng xử có được do lặp lại bằng luyện tập trong nhiều tình huống quen thuộc. Đó phải là những hành động ứng xử chịu sự kích thích của những động cơ đạo đức đúng đắn.
Như vậy phẩm chất đạo đức của thế hệ trẻ, sự ứng xử này được hình thành do trẻ rèn luyện những thói quen đạo đức, tình cảm đạo đức, kiến thức đạo đức. Vì vậy giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là cung cấp cho trẻ những biểu tượng và khái niệm đạo đức, bồi dưỡng xúc cảm đạo đức và tình cảm đạo đức, rèn luyện kỹ năng và thói quen đạo đức.
Đặc điểm tình hình nhà trường:
a) Nhà trường:
Được sự chỉ đạo sát sao của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, được sự giúp đỡ nhiệt tình có hiệu quả của các cấp các ngành; các bậc phụ huynh học sinh nhiệt tình luôn tạo điều kiện tốt nhất để các giáo viên hoàn thành nhiệm vụ năm học.
b) Giáo viên:
Phần lớn là những cán bộ giáo viên có thâm niên từ 5 năm trở lên, 98% là nữ. Tất cả các đồng chí giáo viên trong trường đều biểu lộ tình đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau. Các đồng chí xuất thân từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, tuổi đời, tuổi nghề cũng có nhiều khác biệt. Cả tập thể ấy mang theo phong tục tập quán của nhiều địa phương khác nhau, cá tính, năng lực, sở trường khác nhau nhưng trước yêu cầu của cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đồng chí đã tập hợp thành một khối xây dựng một tổ ấm đoàn kết nhất trí, khắc phục những mặt yếu, phát huy những mặt mạnh cùng nhau gánh vác công việc chung để đẩy mạnh công tác giáo dục của nhà trường.
c) Học sinh:
Toàn trường có … học sinh trong đó: Khối 1 có … em; khối 2 có … em; khối 3 có … em; khối 4 có … em; khối 5 có chúng tôi Các em hầu hết là con em nhân dân lao động ở địa phương xã … cũng như nhiều trường khác, đó là một tập thể nam nữ Thiếu niên Nhi đồng sôi nổi hiếu động, có nhiều mặt tốt cần phát huy nhưng cũng có những biểu hiện ứng xử chưa hay của một số học sinh cá biệt. Một số nhỏ học sinh về mặt ý thức chấp hành kỷ luật, nội quy của lớp và của nhà trường chưa tốt vẫn còn ở rải rác các lớp. Mặt khác, còn có một số không nhỏ phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, việc học hành, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của các em còn phó mặc cho nhà trường và các thầy cô giáo. Trước tình hình này thôi thúc nhà trường phải tập trung suy nghĩ cải tiến cách dạy, cách giáo dục học sinh phát triển toàn diện đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay.
Một số biện pháp được thực hiện:
Các giải pháp giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho học sinh:
Tuổi học sinh Tiểu học là giai đoạn lĩnh hội các Chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử và quy tắc hành vi đạo đức một cách hệ thống. Hơn nữa, nhà trường còn kiểm tra việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử một cách thường xuyên và có mục đích. Việc giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho học sinh không tách rời việc giáo dục nhân cách học sinh và có thể thực hiện với nhiều hình thức thích hợp, đa dạng trong đó nổi bật là các hình thức sau:
a) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử của học sinh thông qua quá trình đứng lớp và dạy học các môn học khác
b) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
c) Vận động mọi lực lượng tham gia giáo dục đạo đức,hành vi ứng xử cho học sinh
d) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử của học sinh mọi lúc mọi nơi
Từ thực tiễn cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm của mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời là trách nhiệm nặng nề của ngành giáo dục trong đó vai trò của các trường học rất quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh bậc tiểu học góp phần không nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
4. Bài thuyết trình: Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở tiểu họcKính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở tiểu học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Duy trì sĩ số học sinh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học. Học sinh bỏ học giữa chừng là một trong những yếu tố tạo nên mối nguy hại lớn cho xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thật vậy, một dân tộc mà dân trí thấp kém thì khó có điều kiện để tiếp thu và phát huy tinh hoa văn hóa, khoa học, công nghệ mới của nhân loại. Do đó chúng ta cần làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh, giảm tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học để góp phần xây dựng sự nghiệp giáo dục phát triển bền vững.
Mục tiêu của việc duy trì sĩ số sĩ số ở trường tiểu học góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cũng như giúp các em có cơ hội phát triển toàn diện bản thân. Đồng thời nó cũng là yếu tố quan trọng giúp giáo viên thực hiện tốt kế hoạch giáo dục học sinh. Để công tác giáo dục đạt hiệu quả cần rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó việc các em đi học chuyên cần đóng một phần không nhỏ. Học sinh có đi học đều, đầy đủ thì việc tiếp thu bài mới tốt hơn. Nắm vững kiến thức các môn học trong chương trình một cách liền mạch và có hệ thống, đây là yếu tố quan trọng thu hút các em ham thích đi đến trường.
Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện hiệu quả công tác duy trì sĩ số, giáo viên chủ nhiệm phải nắm được tình hình của lớp. Vì vậy, sau khi nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp dưới để nắm thông tin của lớp, về những đối tượng học sinh cần lưu ý, trong đó đáng quan tâm hơn là những em hay nghỉ học, có nguy cơ bỏ học…. Thông qua đó, giúp giáo viên chủ nhiệm biết được một số nguyên nhân dẫn đến học sinh hay nghỉ học, có nguy cơ bỏ học như: hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn, chưa lo đủ cái ăn, cái mặc nên các em phải nghỉ học; gia đình chưa thật sự quan tâm đến việc học của các em; một số em lại không thích đến trường,…Từ đó giáo viên sẽ tìm ra những biện pháp để động viên học sinh ra lớp.
Biện pháp 2: Giáo viên chủ nhiệm là người “tiên phong” trong công tác vận động học sinh ra lớp
Chất lượng giáo dục học sinh ở vùng có điều kiện khó khăn phụ thuộc nhiều vào việc bảo đảm duy trì được sĩ số. Nếu học sinh nghỉ học hoặc đi học không chuyên cần sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập của các em, các kiến thức không liền mạch, các em lại gặp khó khăn nhiều hơn trong học tập và lao động, …
Giáo viên chủ nhiệm là người sát sao và gần gũi học sinh hơn ai hết. Khi biết học sinh đi học không chuyên cần và có nguy cơ bỏ học thì bằng mọi cách phải vận động ngay các em đi học lại. Tuyệt đối không để tình trạng học sinh bỏ học lâu ngày rồi mới tìm hiểu nguyên nhân và vận động. Khi có được thông tin về học sinh nghỉ học, trước hết, giáo viên chủ nhiệm cần trực tiếp đến nhà em học sinh đó để tìm hiểu nguyên nhân, thuyết phục gia đình để vận động học sinh ra lớp. Đối với những học sinh đi học không chuyên cần, có nguy cơ bỏ học do do khả năng tiếp thu bài chậm, lớn tuổi hơn các bạn trong lớp nên ngại đi học. Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt vai trò là “người mẹ”, “người bạn” của các em, luôn gần gũi, động viên, khích lệ học sinh. Từ đó, giáo viên lựa chọn biện pháp phù hợp để giúp đỡ học sinh tiếp thu bài tốt hơn, vượt qua mặc cảm, tự tin đến lớp. Giáo viên có thể sử dụng một số biện pháp như phát động phong trào: “Đôi bạn cùng tiến”, “Bạn giúp bạn”,… để học sinh trong lớp giúp những bạn học còn chưa tốt vươn lên trong học tập. Thông qua đó, giúp các em xóa bỏ mặc cảm để tự tin đến lớp. Đối với những học sinh đi học không chuyên cần, có nguy cơ bỏ học do các nguyên nhân khác, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi với lãnh đạo nhà trường để tìm biện pháp hữu hiệu. Giáo viên chủ nhiệm cần tích cực phối hợp với gia đình, nhà trường, chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường để có biện pháp vận động học sinh ra lớp. Vai trò của giáo viên trong việc vận động học sinh rất quan trọng, là người “tiên phong” trực tiếp trong công tác vận động học sinh ra lớp, là nhân tố tạo nên sự thành công trong công tác duy trì sĩ.
Biện pháp 3: Làm tốt công tác phối hợp với gia đình học sinh, nhà trường, các tổ chức xã hội
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: ” Giáo dục các em là việc chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách, trước hết là phải làm gương cho các em hết mọi việc”. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục học sinh. Đối với gia đình học sinh, việc thường xuyên được nghe giáo viên chủ nhiệm trao đổi kết quả học tập và rèn luyện của con mình là cầu nối cần thiết để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động học sinh đi học, đảm bảo sĩ số lớp. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa Ban Đại diện cha mẹ học sinh, nhà trường, chính quyền thôn buôn, đặc biệt là những những người có uy tín ở địa phương có vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền vận động học sinh ra lớp.
Biện pháp 4: Nâng cao chất lượng giáo dục học sinh
Thực tế cho thấy rằng, học yếu là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh hay mặc cảm, dễ chán học và bỏ học. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng học tập ở học sinh. Để làm được điều này, giáo giáo viên không chỉ cần có chuyên môn tốt mà còn phải có sự kiên trì, hiểu tâm lý học sinh. Người giáo viên cần phải có cái tâm, có phương pháp dạy học phù hợp, các bài tập dành cho học sinh phải vừa sức, chú ý động viên là chính để các em dễ tiếp thu bài và không nảy sinh tâm lý “sợ học” dẫn đến chán học và bỏ học.
Muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh, trước hết giáo viên cần thực hiện tốt việc phân hóa đối tượng học sinh trong lớp, từ đó xây dựng kế hoạch, điều chỉnh phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Phát động các phong trào thi đua học tập.
Mặt khác, giáo viên cần có ý thức thường xuyên trau dồi kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. Tăng cường sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Tổ chức các tiết học vui tươi, nhẹ nhàng, hiệu quả, kích thích được sự khám phá, tìm tòi, tạo hứng thú cho các em trong học tập. Cần tránh sự căng thẳng, khô cứng trong các tiết học làm cho các em chán học dẫn tới bỏ học.
Chú trọng và quan tâm nhiều hơn đối tượng học sinh khó khăn về học, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, tạo được mối quan hệ tốt giữa thầy và trò để các em xem thầy cô giáo thực sự là chỗ dựa tinh thần, từ đó các em sẽ thích được đến trường để học tập cùng “người mẹ thứ hai” của mình.
Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn có tác động không nhỏ trong công tác duy trì sĩ số học sinh, đặc biệt là tỉ lệ chuyên cần trong các buổi học thứ hai. Thực tế cho thấy học sinh thường vắng học vào buổi học thứ hai (không phải buổi giáo viên chủ nhiệm dạy). Có thể vì do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên các em ở nhà phụ giúp gia đình tăng thêm thu nhập hay có thể do các em không thích môn học do giáo viên bộ môn dạy,… Vì vậy giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu nguyên nhân, phối hợp cùng giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em có kết quả học tập tốt hơn ở các môn học, từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn.
Môi trường học tập thân thiện phải đảm bảo một số điều kiện như: lớp học phải đẹp, sạch sẽ, thoáng đãng, ánh sáng đầy đủ, bàn ghế luôn được lau chùi và sắp xếp gọn gàng, xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, các thành viên trong lớp giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Để xây dựng đượ môi trường học tập thân thiện, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tham gia tích cực các hoạt động ở trường, lớp phù hợp với lứa tuổi của mình như: tham gia lao động, vệ sinh trường lớp; trang trí lớp học thân thiên; chăm sóc cây xanh trong khuôn viên trường; …
Thông qua các hoạt động đó, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cũng như các em thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, tạo dựng được khối đoàn kết, giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động giữa các học sinh trong lớp, trong trường. Đó cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng nhằm thu hút học sinh yêu thích đến trường.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở tiểu học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Tài Liệu Lý Thuyết Thi Giáo Viên Dạy Giỏi
Tổng hợp tài liệu ôn thi giáo viên dạy giỏi
Việc tổ chức thi giáo viên dạy giỏi là để tìm ra những giáo viên ưu tú cho ngành giáo dục, giúp nâng cao trình độ nghiệp vụ của giáo viên. Trong bài viết này VnDoc xin chia sẻ đến quý thầy cô bộ tài liệu lý thuyết ôn thi giáo viên dạy giỏi đã được ban biên tập VnDoc tổng hợp với đầy đủ các tài liệu lý thuyết giúp thầy cô trau dồi kiến thức tốt hơn.
Tài liệu thi giáo viên dạy giỏi
Phần 1. các văn bản quy phạm pháp luật thi giáo viên dạy giỏi1) Thông tư số 20/2023/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông;
2) Thông tư liên tịch số 21/2023/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 16/9/2023 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học công lập;
3) Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày 28/9/2023 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư quy định đánh giá học sinh tiểu học;
4) Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định về đạo đức nhà giáo
5) Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày 22/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Điều lệ trường tiểu học;
6) Nghị định số 138/2013/NĐ-CP ngày 22/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giáo dục;
Phần II. Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm thi giáo viên dạy giỏiB. Điều kiện để công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở là trong đợt xét thi đua người đó chỉ cần đạt danh hiệu Lao động tiên tiến.
C. Danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở được xét tặng cho cá nhân chỉ cần có sáng kiến cải tiến kĩ thuật hoặc đề tài nghiên cứu khoa học áp dụng ở quy mô toàn huyện trở lên.
D. Mỗi năm giáo viên được xếp loại thi đua vào cuối mỗi quý.
B. Khen thưởng, kỉ luật giáo viên.
C. Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ.
D. Tham gia đánh giá xếp loại các thành viên của tổ theo các quy định của Bộ GD&ĐT.
A. Bồi dưỡng phương pháp tự học (dạy cho HS cách học).
C. Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
D. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn (rèn luyện kĩ năng ứng xử với môi trường, biết cách giải quyết các vấn đề được đặt ra trong thực tiễn cuộc sống).
Câu 4. Phương tiện dạy học
A. phải luôn đặt trên bàn học sinh để học sinh tự tay sử dụng.
B. chỉ được sử dụng một lần trong một tiết dạy.
C. được nâng cao hiệu quả rất nhiều nếu nó xuất hiện đúng lúc nội dung và phương pháp dạy học cần đến nó.
D. được nâng cao hiệu quả rất nhiều nếu một phương tiện sử dụng nhiều lần trong một tiết học.
B. Môn học tự chọn có tổ chức kiểm tra đánh giá nhưng không tính điểm trung bình các môn học.
D. Chủ đề tự chọn có tổ chức kiểm tra đánh giá nhưng không tính điểm trung bình các môn học.
B. Điểm của bài kiểm tra 15 phút theo hình thức trắc nghiệm được làm tròn đến 0,5 điểm (ví dụ 7,25 làm tròn thành 7,5 điểm).
C. Điểm của bài kiểm tra 15 phút theo hình thức trắc nghiệm khách quan được lấy đến một chữ số thập phân sau khi đã làm tròn số (ví dụ 7,25 làm tròn thành 7,3 điểm).
D. Điểm của bài kiểm tra 1 tiết được lấy đến một chữ số thập phân sau khi đã làm tròn số (ví dụ 5,25 làm tròn thành 5,3 điểm).
Câu 7. Chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 28 /2009/TT-BGDĐT ngày 21 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo không áp dụng đối với giáo viên
A. giảng dạy theo chế độ thỉnh giảng tại các cơ sở giáo dục phổ thông.
B. trực tiếp giảng dạy tại các cơ sở giáo dục phổ thông.
C. làm công tác quản lí ở các trường tiểu học.
D. làm công tác quản lí ở các trường chuyên.
Câu 8. Thời gian làm việc của giáo viên trung học trong năm học là
A. 35 tuần. B.42 tuần. C. 37 tuần. D. 40 tuần.
Câu 9. Thời gian dành cho học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ đối với giáo viên trung học trong năm học là
A. 74 tiết.
B. 72 tiết.
C. 3 tuần.
D. 18 tiết.
Câu 10. Theo Thông tư 28/2009/TT-BGD&ĐT, thời gian nghỉ hằng năm của giáo viên gồm:
A. nghỉ hè, nghỉ tết âm lịch, nghỉ học kì và các ngày nghỉ khác.
B. nghỉ hè, nghỉ tết âm lịch và các ngày nghỉ khác.
C.nghỉ hè, nghỉ tết âm lịch, nghỉ ngày 01/01, 10/3 âm lịch, 30/4, 01/5, 02/9.
D. nghỉ hè, nghỉ tết âm lịch, nghỉ các ngày 01/01, 10/3 âm lịch, 30/4, 01/5, 02/9, 20/11.
………………………………………..
Để xem toàn bộ ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm cùng đáp án, mời các bạn sử dụng file tải về.
Phần III. Câu hỏi tự luận thi giáo viên dạy giỏiĐề số 1: GVCN lớp có mấy chức năng, là những chức năng nào? Nêu rõ chức năng quản lý giáo dục toàn diện học sinh và việc áp dụng kỹ năng này vào tình hình thực tế của lớp mình phụ trách.
Gợi ý hướng dẫn chấm
1. GVCN lớp có 4 chức năng: (2,0 điểm)
– GVCN lớp là người quản lý giáo dục toàn diện HS một lớp;
– GVCN là tổ chức tập thể HS hoạt động tự quản nhằm phát huy tiềm năng tích cực của mọi HS;
– GVCN là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường; là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục;
– GVCN là đánh giá khách quan kết quả rèn luyện của mỗi HS và phong trào chung của lớp.
b. GVCN lớp là người quản lý giáo dục toàn diện HS một lớp: (4,0 điểm)
– Quản lý giáo dục không chỉ nắm được những chỉ số quản lý hành chính như: tên, tuổi, số lượng, gia cảnh trình độ HS về học lực, và đạo đức … mà còn phải dự báo xu hướng phát triển nhân cách của HS trong lớp để có phương hướng tổ chức hoạt động giáo dục, dạy học phù hợp với điều kiện, khả năng của mỗi HS. (1,5 điểm)
– Muốn thực hiện chức năng quản lý giáo dục toàn diện, đòi hỏi GVCN phải có: (1,5 điểm)
+ Những tri thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học.
+ Các kĩ năng sư phạm như: Kĩ năng tiếp cận đối tượng HS; Kĩ năng nghiên cứu tâm lý lứa tuổi, xã hội; Kĩ năng đánh giá; Kĩ năng lập kế hoạch chủ nhiệm lớp.
+ Nhạy cảm sư phạm: để dự đoán đúng, chính xác sự phát triển nhân cách của HS; Định hướng giúp các em lường trước những khó khăn, thuận lợi, vạch ra những dự định để tự hoàn thiện về mọi mặt.
– Quản lý học tập và quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách có quan hệ hỗ trợ, tác động lẫn nhau: giáo dục đạo đức có tác động mạnh mẽ đến chất lượng học văn hóa nhất là trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế thị trường, KHKT… (1,0 điểm)
c. Liên hệ thực tế: (4,0 điểm)
Đưa ra được các hình thức, biện pháp, giải pháp cụ thể ứng với 3 nội dung của chức năng quản lý giáo dục toàn diện. ( mỗi nội dung đạt 1,0 điểm)
Đề số 2: Một trong những mục đích quan trọng khi ban hành quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học là “Giúp giáo viên tiểu học tự đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực nghề nghiệp. Từ đó xây dựng kế hoạch rèn luyện phẩm chất đạo đức và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ”.
Hãy nêu ý kiến của mình về mục đích trên và trình bày kế hoạch phấn đấu, rèn luyện để có thể đạt được những tiêu chuẩn nghề nghiệp của cấp tiểu học.
Gợi ý hướng dẫn chấm
1. Nêu được khái niệm chuẩn NNGVTH là gì? (1,0 đ)
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học là hệ thống các yêu cầu cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, kiến thức, kĩ năng sư phạm mà giáo viên tiểu học cần phải đạt được nhằm đáp ứng mục tiêu của giáo dục tiểu học.
2. Nêu được sự cần thiết của việc ban hành Chuẩn nghề nghiệp: (1,5 đ)
Do GV được đạo tạo không đồng bộ
Việc đổi mới nội dung, chương trình, PP giáo dục đòi hỏi người GVTH phải có những yêu cầu nhất định, đặc trưng thuộc mỗi lĩnh vực của Chuẩn đòi hỏi người giáo viên phải đạt được để đáp ứng mục tiêu của giáo dục tiểu học ở từng giai đoạn. Do vậy việc ban hành “Chuẩn nghề nghiệp GVTH” là rất cần thiết
3. Nêu được ý nghĩa của việc đánh giá Chuẩn NNGVTH ? (1,5 đ)
Nhờ có chuẩn, mỗi giáo viên tự đánh giá mình, từ đó tự đề ra kế hoạch rèn luyện phấn đấu, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực nghề nghiệp.
Với chuẩn nghề nghiệp giúp cho các cấp quản lý đánh giá, phân loại đội ngũ giáo viên tiểu học chính xác để phục vụ công tác quy hoạch, sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
4. Nêu được kế hoạch phấn đấu theo 3 lĩnh vực: phẩm chất, đạo đức, lối sống; kiến thức; kỹ năng: (6,0 đ)
– Nêu được kế hoạch phấn đấu theo mỗi lĩnh vực đạt 2,0 đ
– Yêu cầu: Mỗi lĩnh vực gồm đủ 5 yêu cầu và 4 tiêu chí (cần chú trọng đến biện pháp thực hiện).
Đề số 3: Ngành Giáo dục đã và đang quyết tâm không để tình trạng học sinh không đạt chuẩn lên lớp theo tinh thần cuộc vận động Hai không. Thầy (Cô) hãy nêu kế hoạch của bản thân để thực hiện có hiệu quả nội dung trên.
Gợi ý hướng dẫn chấm
Bài tự luận nêu được những nội dung trọng tâm sau:
1. Khái quát tình hình thực hiện: (2,0 đ)
2. Kế hoạch của bản thân: (7 điểm)
Nêu được những ý chính:
– Thực hiện nghiêm túc chương trình, quy chế chuyên môn; đảm bảo kế hoạch giáo dục của nhà trường, của tổ khối; không tuỳ tiện cắt xén chương trình,… (1,0 đ)
– Tập trung nâng cao chất lượng dạy và học; quyết tâm thực hiện việc dạy thật – học thật, vì đây là cái gốc của chống tiêu cực và thực hiện hiệu quả hoạt động đổi mới giáo dục. (1,0 đ)
– Công tác kiểm tra, đánh giá học sinh luôn hướng đến tính trung thực, “Học gì thi nấy”, cho điểm sát với kết quả của học sinh; tuyệt đối không để xảy ra hiện tượng nâng đỡ về điểm số, cấy điểm tuỳ tiện, làm sai lệch thực tế năng lực và chất lượng học tập; có nhiều biện pháp hữu hiệu, phù hợp trong kiểm tra, đánh giá, chống hành vi gian lận trong kiểm tra, thi cử, quay cóp,… (2,0 đ)
– Trên cơ sở xác định đúng thực chất năng lực học sinh, phát huy vai trò giáo viên chủ nhiệm trong lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu, kém. Thường xuyên quan tâm đối tượng học sinh cá biệt để có biện pháp giáo dục phù hợp. (1,0 đ)
– Có sự phối hợp đồng bộ với đồng nghiệp và các hoạt động giáo dục khác trong hoạt động giáo dục. Đặc biệt chú ý mối liên hệ giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng nhằm làm tốt công tác giáo dục toàn diện HS trong và ngoài nhà trường. (1,0 đ)
– Bản thân mỗi giáo viên phải có kế hoạch giáo dục (dạy học) ngay từ đầu năm học, luôn tự tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao trình độ nghiệp vụ, kiến thức và phẩm chất đạo đức, xứng đáng là tấm gương cho học sinh. (1,0 đ)
Hướng dẫn cho điểm:
– Nêu được những ý trên, đạt từ 8 – 9 điểm;
– Trình bày được kế hoạch với những ý như trên nhưng còn chung chung, chưa nêu được yêu cầu cần đạt: 6,5 – 7,5 điểm;
– Hiểu yêu cầu nhưng cách trình bày chưa rõ ràng, còn dàn trải, nặng về hình thức: 5 – 6,25 điểm;
– Trình bày kế hoạch bản thân không rõ ràng, chung chung, có sự lúng túng trong nhận thức, không hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của bản thân: dưới 5 điểm;
– 1 điểm dành cho chữ viết đẹp. Trường hợp viết sai nhiều lỗi chính tả, trừ 50 % trên tổng số điểm.
………………………………….
Để xem toàn bộ nội dung câu hỏi tự luận cùng gợi ý trả lời, mời các bạn sử dụng file tải về.
Giáo Trình Giáo Dục Học Mầm Non
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON (Dành cho hệ Cao đẳng Sư phạm Mầm non) Tác giả: Đinh Văn Vang
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC MẦM NON I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA GIÁO DỤC HỌC MẦM NON “Giáo dục học là khoa học về lí luận và thực tiễn nhằm nghiên cứu những vấn đề cơ bản như giáo dục, giáo dưỡng, dạy học…” Như vậy, có thể hiểu một cách khái lược nhất: Giáo dục học là khoa học về giáo dục con người. Giáo dục học mầm non là một bộ phận, một chuyên ngành của giáo dục học. Với tư cách là một khoa học, Giáo dục học mầm non có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu đặc trưng của nó. 1. Đối tượng của giáo dục học mầm non Con người là đối tượng của nhiều ngành khoa học (triết học, văn học, sử học, xã hội học, sinh lí học, tâm lí học…), trong đó, con người cũng chính là đối tượng của giáo dục. Giáo dục học mầm non nghiên cứu bản chất của quá trình hình thành nhân cách trẻ em. Trên cơ sở đó xác định mục đích, mục tiêu giáo dục, xây dựng nội dung, chỉ ra phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục thích hợp nhằm tổ chức tối ưu quá trình hình thành nhân cách trẻ em trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
lực – một yếu tố cực kì quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nói trên, giáo dục học mầm non phải dựa trên các thành tựu của khoa học hiện đại nghiên cứu về sự phát triển của trẻ em dưới 6 tuổi và liên kết phối hợp chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này. 3. Phương pháp nghiên cứu giáo dục học mầm non Khi nghiên cứu giáo dục học mầm non với tư cách là một chuyên ngành của giáo dục học, chúng ta cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục nói chung, nhưng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phải đặc biệt chú ý một số phương pháp sau: 3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận Các phương pháp ngiên cứu lí luận là những cách thức thu thập và xử lí thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản tài liệu đã có bằng các thao tác tư duy lôgic để rút ra kết luận khoa học hoặc xây dựng hệ thống lí thuyết cho vấn đề nghiên cứu mới. Những kết luận khoa học hoặc hệ thống lí thuyết mới thường được thể hiện ở một trong những hướng sau: – Khẳng định hay phủ định những luận điểm khoa học giáo dục mầm non đang được bàn luận hay tranh cãi. Phê phán những sai lầm, thiếu sót, hạn chế của hệ thống lí thuyết trước đây. – Kế thừa, phát triển những chân lí khách quan của những lí thuyết trước đây. Trong nghiên cứu khoa học nói chung, khoa học giáo dục mầm non nói riêng, nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận gồm một số phương pháp sau đây:
– Điều tra thăm dò (câu hỏi rộng và nông) nhằm thu thập tài liệu ở mức sơ bộ về đối tượng. – Điều tra đi sâu (câu hỏi hẹp và đi sâu) nhằm khai thác sâu sắc một vài khía cạnh nào đó của đối tượng nghiên cứu. – Điều tra bổ sung nhằm thu thập tài liệu bổ sung cho các phương pháp khác. Căn cứ vào mục đích, tính chất của việc điều tra, người ta có thể sử dụng nhiều dạng câu hỏi khác nhau: + Câu hỏi “đóng” là những câu hỏi có kèm theo phương án trả lời. Người được trưng cầu ý kiến có thể lựa chọn một hoặc vài ba phương án phù hợp với mình. + Câu hỏi “mở” là những câu hỏi không có phương án trả lời sẵn và người được trưng cầu ý kiến tự trả lời. Sử dụng phương pháp điều tra có thể trong một khoảng thời gian ngắn thu thập được ý kiến của nhiều người ở một phạm vi rộng, tuy nhiên, độ tin cậy của tài liệu thu được bị hạn chế, bởi vì nó phụ thuộc vào chủ quan của người trả lời. Để có tài liệu tương đối chính xác phải điều tra số lượng người đủ lớn. Các câu hỏi cần xây dựng theo một hệ thống, chúng ràng buộc lẫn nhau, kiểm tra lẫn nhau để có thể buộc người trả lời phải bộc lộ ý nghĩ thật của mình. 3.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là phương pháp đi từ thực tiễn giáo dục, dùng lí luận phân tích thực tiễn, từ phân tích thực tiễn mà rút ra lí luận. Trong khoa học giáo dục nói chung và giáo dục học mầm non nói riêng, tổng kết kinh nghiệm, tức là dùng cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, dùng tri thức về khoa học giáo dục mầm non và các khoa học khác để tìm hiểu, phân tích, đánh giá các kinh
nghiệm có tác dụng tích cực trong thực tiễn giáo dục, từ đó rút ra những bài học mang tính lí luận, lí luận đó được chỉ đạo trở lại thực tiễn giáo dục. Ví dụ: Kinh nghiệm phòng chống trẻ suy dinh dưỡng ở trường mầm non; kinh nghiệm huy động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo; kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ; kinh nghiệm quản lí của hiệu trưởng trường mầm non… Khi sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục cần đảm bảo một số yêu cầu sau: Phát hiện xác định đúng đối tượng nghiên cứu. Tức là kinh nghiệm có thật và đang tồn tại chứ không phải là những dự định sẽ làm hoặc đã làm nhưng chưa tới mức gọi là kinh nghiệm. Muốn vậy phải kiểm tra kĩ và đánh giá chính xác hiệu quả đã đạt được do kinh nghiệm mang lại. – Khi thu thập, xử lí các số liệu phải hết sức khách quan. Muốn vậy phải thu thập, xử lí thông tin từ nhiều nguồn và bằng nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp trò chuyện, phương pháp quan sát, phương pháp điều tra. Những lí luận tổng kết từ kinh nghiệm cần tiếp tục khẳng định và phát triển, đồng thời phải đem ứng dụng vào thực tế để “nhân” kinh nghiệm bằng cách chỉ đạo điểm hoặc thực nghiệm khoa học. 3.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động Nghiên cứu sản phẩm hoạt động là phương pháp tìm hiểu con người thông qua sản phẩm do họ tạo ra. Ví dụ: Nghiên cứu sản phẩm nặn, vẽ, xé, dán của trẻ mẫu giáo 5 tuổi để hiểu đặc điểm và khả năng sáng tạo của trẻ. Hoặc nghiên cứu sản phẩm của giáo viên mầm non để hiểu về chính họ. Khi nghiên cứu sản phẩm hoạt động cần nắm được đầy đủ điều kiện và quá trình hoạt động của con người đưa đến sản phẩm. Tức là chúng ta không chỉ tìm hiểu con người làm ra cái gì, mà quan trọng hơn là làm như thế nào?
Bởi vì các sản phẩm và năng lực của con người thường bộc lộ qua những điều kiện và quá trình làm ra sản phẩm. 3.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu một cách chủ động, có hệ thống một hiện tượng giáo dục nhằm xác định mối quan hệ giữa tác động giáo dục với hiện tượng giáo dục cần được nghiên cứu trong những điều kiện đã được khống chế. Nét đặc trưng của phương pháp thực nghiệm sư phạm là nhà nghiên cứu chủ động tạo ra điều kiện nghiên cứu và khi cần thiết có thể lặp lại nhiều lần điều kiện đó. Thường có hai loại thực nghiệm: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. – Thực nghiệm tự nhiên là những thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện bình thường của quá trình sư phạm. – Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là nhân thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện khống chế nhằm xác định mặt định tính, định lượng và bản chất của hiện tượng giáo dục. Phương pháp thực nghiệm cho phép người nghiên cứu tìm hiểu sâu bản chất của hiện tượng giáo dục để từ đó phát hiện ra cái mới, nhưng đây là phương pháp đòi hỏi sự chuẩn bị công phu cả về lí luận cũng như công việc và trang thiết bị kĩ thuật khi tiến hành thực nghiệm. Thực nghiệm sư phạm có thể được tiến hành theo các bước sau đây: Bước 1: Xác định được vấn đề thực nghiệm với mục đích rõ ràng. Bước 2: Nêu giả thuyết và xây dựng đề cương thực nghiệm. Bước 3: Tổ chức thực nghiệm Gồm các công việc: – Chọn mẫu thực nghiệm.
nhất và thứ hai, về sự phát triển của các cơ quan cảm giác và vận động, về nhu cầu của cơ thể v.v… Chẳng hạn, từ đặc điểm phát triển của trẻ em từ 0 – 6 tuổi mà chúng ta xây dựng chế độ sinh hoạt trong ngày của trẻ, chế độ dinh dưỡng, học tập, vận động một cách khoa học. Những thành tựu khoa học mới về sinh lí trẻ em làm thay đổi cả lí luận và thực tiễn giáo dục mầm non. 4.3. Với tâm lí học Tâm lí học trang bị cho giáo dục học cơ sở khoa học về việc xây dựng lí luận và tổ chức hoạt động thực tiễn giáo dục trẻ em theo các thời kì, với những đặc điểm phát triển tâm lí theo lứa tuổi. Hiểu một cách ngắn gọn thì tâm lí học là cơ sở khoa học của giáo dục học. Chỉ có hiểu biết tâm lí trẻ em mới có thể tổ chức khoa học quá trình giáo dục trẻ em và tránh được sự áp đặt đối với trẻ. 4.4. Với điều khiển học Điều khiển học là khoa học điều khiển tối ưu các hệ thống động phức tạp. Là khoa học nghiên cứu lôgic của những quá trình trong tự nhiên và xã hội, xác định những cái chung, quy định những điều kiện vận hành các quá trình đó. Dựa vào lí thuyết điều khiển học, chúng ta có thể điều khiển quá trình dạy học và giáo dục đạt hiệu quả tối ưu. 4.5. Với đạo đức học và mĩ học Đạo đức học, mĩ học giúp cho việc xây dựng cơ sở phương pháp luận và xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục đạo đức giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non. Tóm lại: Giáo dục học mầm non có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khoa học khác nhau và dựa trên các thành tựu nghiên cứu về con người của các ngành khoa học, giáo dục học mầm non để từng bước hoàn thiện lí luận khoa
học của mình và ngày càng đem đến hiệu quả cao cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC MẦM NON 1. Mục tiêu giáo dục mầm non Như chúng ta đã biết, mục đích giáo dục là mô hình nhân cách tổng thể đón trước sự phát triển của mỗi học sinh – mỗi người lao động tương lai của đất nước phải đạt được trong một giai đoạn lịch, sử cụ thể, ứng với một nền sản xuất nhất định. Mục đích giáo dục nói chung được thực hiện từng phần, từng mức độ ở từng lứa tuổi, từng cấp học qua từng giai đoạn phát triển nhất định của mỗi người. Mục đích giáo dục bộ phận được gọi là mục tiêu giáo dục, ví dụ: mục tiêu giáo dục mầm non, mục tiêu giáo dục tiểu học, mục tiêu giáo dục trung học, mục tiêu giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp – dạy nghề… Mục tiêu giáo dục mầm non thể hiện ở việc xác định mục tiêu chung và những yêu cầu chủ yếu đối với việc phát triển nhân cách mà trẻ em Việt Nam đến 6 tuổi (trước khi bước vào lớp Một) phải đạt được qua việc nhận sự giáo dục của gia đình và trường mầm non. 1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non Giáo dục mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi (Điều 21- Luật Giáo dục 2005). Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp Một (Điều 22- Luật Giáo dục 2005). Mục tiêu giáo dục mầm non được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn tuổi nhà trẻ và giai đoạn tuổi mẫu giáo. Mục tiêu của mỗi giai đoạn được xác định là cái đích mà cuối giai đoạn đó trẻ phải đạt được nhờ sự chăm sóc, giáo dục của người lớn. Những mục tiêu này được thể hiện trong Quyết định số:
5205/QĐ-BGD&ĐT ngày 19 tháng 9 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cụ thể là: 1.1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi nhà trẻ a) Phát triển thể chất Trẻ khoẻ mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm trong kênh A. – Thực hiện được các vận động cơ bản. – Thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường mầm non. – Có một số thói quen tự phục vụ trong ăn uống, vệ sinh cá nhân. b) Phát triển nhận thức – Thích tìm hiểu thế giới xung quanh. Có sự nhạy cảm của các giác quan: vị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác, thị giác. – Nhận biết được về bản thân, một số sự vật, hiện tượng quen thuộc gần gũi. – Có khả năng quan sát, chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy trực quan- hành động và tư duy trực quan- hình ảnh. c) Phát triển ngôn ngữ – Nghe, hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói của người khác. – Diễn đạt được các nhu cầu đơn giản bằng lời nói. – Có khả năng hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản. d) Phát triển tình cảm – xã hội – Mạnh dạn giao tiếp với những người gần gũi. – Biết được một số việc được phép làm và không được phép làm. Biết thể hiện cảm xúc trước cái đẹp. Thích múa, hát, đọc thơ, nghe kể chuyện, vẽ, nặn, lắp ghép, xếp hình…
– Thích tự làm một số công việc đơn giản. 1.1.2. Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi mẫu giáo a) Phát triển thể chất – Trẻ khoẻ mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm trong kênh A. – Thực hiện được các vận động cơ bản một cách vững vàng, đúng tư thế. – Có khả năng phối hợp các giác quan và vận động; vận động nhịp nhàng, biết định hướng trong không gian. – Thực hiện được một số vận động của đôi tay một cách khéo léo. Có một số thói quen, kỹ năng tốt về giữ gìn sức khoẻ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và biết cách đảm bảo sự an toàn. b) Phát triển nhận thức Ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi những sự vật hiện tượng xung quanh. – Có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý và ghi nhớ có chủ định. Nhận ra một số mối liên hệ đơn giản của các sự vật hiện tượng xung quanh. – Có một số hiểu biết ban đầu về bản thân, môi trường tự nhiên và xã hội. c) Phát triển ngôn ngữ – Nghe và hiểu được lời nói trong giao tiếp. – Có khả năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng để thể hiện ý muốn, cảm xúc của mình và của người khác. – Có một số biểu tượng về việc đọc và việc viết để vào học lớp Một. d) Phát triển tình cảm – xã hội
– Không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp chăm sóc – giáo dục nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ. – Thu hút ngày càng nhiều trẻ em trong độ tuổi vào các loại hình chăm sóc – giáo dục trẻ thích hợp, trong đó nòng cốt là các nhà trẻ, trường mầm non để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục mầm non mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành. – Kết hợp chặt chẽ với gia đình và các tổ chức xã hội trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ em.
III. BẬC HỌC MẦM NON TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN 1. Cơ Cấu hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam Theo Luật Giáo dục 2005, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay gồm bốn bậc giáo dục sau đây: Giáo dục mầm non: Thực hiện việc chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. Bậc học mầm non gồm các cơ sở sau: + Nhà trẻ, nhóm trẻ: Nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi. + Trường, lớp mẫu giáo: Nhận trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi. + Trường mầm non: là cơ sở kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. – Giáo dục phổ thông: Nhận giáo dục trẻ em từ 6 tuổi đến 18 tuổi. Giáo dục phổ thông được chia làm ba bậc nhỏ: + Giáo dục tiểu học: Được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp 5. Tuổi của học sinh lớp 1 là 6 tuổi. + Giáo dục trung học cơ sở: Thực hiện trong 4 năm, từ lớp 6 đến lớp 9. Học sinh vào lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là 10 tuổi. + Giáo dục trung học phổ thông: Thực hiện trong 3 năm, từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là 15 tuổi.
– Giáo dục nghề nghiệp: Nhận đào tạo công nhân và cán bộ thực hành cho các lĩnh vực kinh tế và văn hoá xã hội. Bậc giáo dục nghề nghiệp gồm hai loại trường: + Trường trung cấp chuyên nghiệp: Tiếp nhận học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông để đào tạo. Mục tiêu của trường trung cấp chuyên nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kĩ năng thực hành cơ bản một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc. + Trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, lớp dạy nghề, nhằm đào tạo nguồn nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo. – Giáo dục đại học: Tiếp nhận những học sinh khá, giỏi được sàng lọc qua các kì thi tuyển sinh để đào tạo thành những chuyên gia cho các lĩnh vực khoa học và nghiệp vụ, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục đại học gồm 4 trình độ đào tạo: + Trình độ cao đẳng đào từ 2 đến 3 năm học tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc có bằng tốt nghiệp trung cấp; từ 1,5 năm đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành. + Trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tất nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ 2,5 năm đến 4 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ 1,5 năm đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành. + Trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 1 đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học. + Trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ 2 đến 3 năm học đối với người có bằng thạc sĩ.
2. Hãy trình bày các phương pháp nghiên cứu của giáo dục học mầm non. 3. Phân tích khái niệm mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục mầm non. 4. Chứng minh rằng bậc học mầm non là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. BÀI TẬP THỰC HÀNH 1. Dựa vào xu thế phát triển của xã hội và thời đại rút ra nhận xét về chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam hiện hành. 2. Theo dõi, ghi chép, mô tả về quá trình hình thành và phát triển nhân cách của một trẻ em mà bạn gần gũi.
Chương 2. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON I. NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON 1. Cơ sở triết học Cũng như các lĩnh vực khoa học khác, triết học duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận của khoa học giáo dục nói chung và khoa học giáo dục mầm non nói riêng. Ở đây, triết học duy vật biện chứng cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định bản chất con người, nguồn gốc của ý thức và mối quan hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình khác, chỉ ra nguyên lí của sự phát triển nhân cách con người… Trên cơ sở này, các nhà giáo dục xây dựng mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục mầm non. Trước hết, về bản chất con người, các nhà triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, con người không phải do Thượng đế sinh ra mà con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của mỗi cá nhân riêng lẻ. Trong tính
Nhiệm Vụ Của Giáo Viên Mầm Non
Nhiệm vụ của giáo viên mầm non theo cơ sở pháp lý
Theo bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản hợp nhất điều lệ trường mâm non. Các thông tư liên tịch số 20/2023/TTLT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp và nhiệm của giáo viên mầm non như sau:
Điều 35 ( Luật lao động năm 2012 ) : Nhiệm vụ của giáo viên mầm non nêu rõ
Bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của trẻ trong thời gian trẻ ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.
Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non: Lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục
Xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ
Đánh giá và quản lý trẻ em
Chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
Tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn, của nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.
Trao dồi đạo đức giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo
Gương mẫu, thương yêu trẻ em, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em
Bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em
Đoàn kết, hỗ trợ đồng nghiệp
Tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ em cho phụ huynh học sinh. Chủ động phối hợp với gia đình để thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ.
Rèn luyện sức khỏe thường xuyên
Tự giác học hỏi bồi dưỡng đạo đức
Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em
thực hiện các nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật của ngành, các quy định của nhà trường, quyết định của hiệu trưởng.
Còn theo thông tư liên tịch số 20/2023/TTLT-BGDĐT-BNV nhiệm vụ giáo viên mầm non được quy định rõ như sau: Điều 4: Giáo viên mầm non hạng II – Mã số V.07.04 có nhiệm vụ:Ngoài những nhiệm vụ của giáo viên mầm non hạng III, giáo viên mầm non hạng II còn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tham gia biên tập hoặc biên soạn nôi dung tài liệu bồi dưỡng giáo viên mầm non cấp huyện trở lên
Tham gia bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên cấp trường
Tham gia ban giám khảo các hội thi, đánh giá sáng kiến cấp học mầm non của giáo viên cấp huyện trở lên
Tham gia đoàn đánh giá ngoài, thanh tra, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm từ cấp huyện trở lên.
Điều 5: Giáo viên mầm non hạng III – Mã số V.07.02.05. Nhiệm vụ của giáo viên mầm non:Ngoài những nhiệm vụ của giáo viên mầm non hạng IV. Giáo viên mầm non hạng III còn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa tại các lớp bồi dưỡng giáo viên mầm non cấp trường trở lên, hướng dẫn đồng nghiệp thực hiện chương trình và các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
Đề xuất các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn
Tham gia ban giam khảo các hội thi, đánh giá sáng kiến kinh nghiệm của cấp học mầm non cấp trường trở lên
Tham gia đoàn đánh giá ngoài, kiểm tra, thanh tra chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cấp trường trở lên, tham gia hướng dẫn tập sự sư phạm của sinh viên (nếu có).
Điều 6: Giáo viên mầm non hạng IV – Mã số V.07.02.06. Nhiệm vụ của giáo viên mầm non:
Bảo vệ an toàn tuyệt đối sức khỏe, tính mạng của trẻ trong thời gian trẻ ở lớp được phân công phụ trách.
Trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ và chịu trách nhiệm về chất lượng chăm sóc giáo dục nhóm, lớp trẻ được phân công
Rèn luyện sức khỏe, hoàn thành các chương trình bồi dưỡng, tự bồi dưỡng trau dồi đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. tham gia các hoạt động chuyên môn, bảo quản và sử dụng thiết bị giáo dục được giao.
Phôi hợp chặt chẽ với gia đình và cộng đồng trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các quy định của nhà trường, quyết định của hiệu trưởng.
Kết LuậnCập nhật thông tin chi tiết về Bài Thuyết Trình Thi Giáo Viên Giỏi Mầm Non trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!