Xu Hướng 12/2023 # Bài 5: Phát Triển Giáo Dục Và Đào Tạo, Khoa Học Và Công Nghệ,Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam; Quản Lý Tài Nguyên, Bảo Vệ Môi Trường. # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bài 5: Phát Triển Giáo Dục Và Đào Tạo, Khoa Học Và Công Nghệ,Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam; Quản Lý Tài Nguyên, Bảo Vệ Môi Trường. được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bài 5: Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Giáo dục và đào tạo là quá trình trao truyền và bồi dưỡng tri thức cho cánhân và cộng đồng của thế hệ trước cho các thế hệ sau, để từ đó họ có thể tiếp nhậnrèn luyện, hòa nhập và phát triển trong cộng đồng xã hội

Số kí hiệu Bài 5: Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa h

Ngày ban hành 02/01/2023

Thể loại

Lý luận chính trị

Lĩnh vực

Tài liệu bồi dưỡng

Cơ quan ban hành

Chính trị Quốc gia – Sự thật

Người ký

Nguyễn Văn A

 File đính kèm Các văn bản cùng thể loại “Lý luận chính trị”

Phát Triển Giáo Dục Và Đào Tạo, Khoa Học Và Công Nghệ, Xây Dựng Nền Văn Hóa Việt Nam Tiên Tiến, Đậm Đà Bản Sắc Dân Tộc

+ Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. + Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.III. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC.1. Vị trí, vai trò và thực trạng.@ Khái niệm văn hóa: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra để phục vụ cho nhu cầu của mình. @ Vị trí, vai trò của văn hóa: Hội nghị trung ương 5 khóa VIII xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”.– Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội: Văn hoá thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát triển và bản lĩnh của một dân tộc. Văn hoá có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hoá. Trong mỗi chính sách kinh tế – xã hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hoá. Văn hoá có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người – nguồn nhân lực quyết định sự phát triển xã hội. – Mặt khác, chúng ta cũng biết trong xã hội có 2 nền tảng:Nền tảng vật chất (kinh tế) Nền tảng tinh thần (văn hoá) – Văn hóa là động lực và mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội + Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố nội sinh. + Văn hóa là mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. @ Thực trạng phát triển văn hóa2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng văn hóa3. Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển lĩnh vực văn hóa Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước @ Thực trạng văn hóa (Về Tình hình 15 năm thực hiện NQTW 5 Khóa VIII, về văn hóa). 1. Tư duy về VH có bước phát triển; nhận thức về VH của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. 1)- Kết quả đạt được: (8) 2. Đời sống VH của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị VH truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực VH, đạo đức mới được hình thành. 3. Sản phẩm VH, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng. 4. Nhiều phong trào, hoạt động VH đạt kết quả cụ thể: truyền thống gia đình VH, dòng họ; . 5. Xã hội hóa VH được mở rộng, góp phần xây dựng các thiết chế VH. 6. Nhiều di sản VH vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tạp quán được nghiên cứu và phát triển. 7. Quản lý nhà nước về VH được tăng cường; đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ được tôn trọng. 8. Giao lưu và hợp tác quốc tế về VH có nhiều khởi sắc. 2)- Hạn chế: (12) 1. Thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kt, qp-an, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực VH chưa tương xứng; nhiều dự án phát triển kinh tế còn nặng về tìm lợi ích kinh tế, coi nhẹ nhân tố VH, con người và môi trường. 2. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội.  3. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. – Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo có biểu hiện sai lệch, hiện tượng lợi dụng ngoại cảm để trục lợi, các tệ nạn xã hội, tội phạm, . . . có chiều hướng gia tăng.  4. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái thuần phong mỹ tục; . . . (3)  5. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” nhiều nơi còn mang tính hình thức. 6. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. (3)  7. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. 8. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. 9. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ; thiếu sự nhạy bén chính trị, chỉ tập trung khai thác, phản ánh mặt tiêu cực của đời sống xã hội; thông tin không chính xác, thậm chí sai sự thật, giật gân, . . . 10. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. 11. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. 12. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý VH các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế, bất cập. 13. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm VH nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống VH của một bộ phận ND, nhất là lớp trẻ. 3)- Nguyên nhân của hạn chế: (5) 1. Nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. 2. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa NQ của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. 3. Quản lý NN về VH chậm đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. 4. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về VH để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. 5. Chưa quan tâm đúng mức công tác cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. II. Mục tiêu, quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN trong thời gian tới. * Về mục tiêu chung: xây dựng nền VH và con người VN phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của XH, là sức mạnh nội sin quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

* Về mục tiêu cụ thể (5). 1. Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị VH và con người VN, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm XH, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật.

– Đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. 2. Xây dựng môi trường VH lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Xây dựng VH trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. – Phát huy vai trò gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường VH, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người VN hoàn thiện nhân cách.

3. Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế VH đảm bảo xây dựng và phát triển VH, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 4. Xây dựng thị trường VH lành mạnh, đẩy mạng phát triển công nghiệp VH, tăng cường quảng bá VH VN. 5. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ VH giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội. II. Quan điểm (5): 1. VH là nền tảng tinh thần của XH, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. VH phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

2. Xây dựng nền VH VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc VN, với các đặc trưng dân dộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. 3. Phát triển VH vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển VH. Trong xây dựng VH, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

4. Xây dựng đồng bộ môi trường VH, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố VH và con người trong phát triển kinh tế. 5. Xây dựng và phát triển VH là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng. 6. Chủ động hội nhập quốc tế về VH, tiếp thu tinh hoa VH nhân loại.  5. Phát triển công nghiệp VH đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường VH. 4 4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa.  6 3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế.  3 2. Xây dựng môi trường VH lành mạnh. 5 III. Nhiệm vụ (6): 1. Xây dựng con người VN phát triển toàn diện.4

IV. Giải pháp (4): 1. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa. 2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. 3. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. 4. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực VH. HẾTCám ơn đã lắng nghe !

Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Bền Vững

Các đại biểu đều đánh giá cao những kết quả mà TP. Hồ Chí Minh đã đạt được trong thời gian qua, tuy nhiên, trong thời gian tới TP cần đẩy mạnh triển khai thực hiện NQ 33 hơn nữa để xứng tầm là một đô thị đặc biệt của cả nước

Đó là ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng trong buổi làm việc giữa Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy TP Hồ Chí Minh về thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết33) sáng ngày 20/4, tại TP Hồ Chí Minh.

Báo cáo tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Trần Vĩnh Tuyến cho biết, quán triệt quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, TP Hồ Chí Minh luôn xem trọng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, xác định rõ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết 33, nhận thức về vai trò của văn hóa trong đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc về trách nhiệm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân TP được nâng lên, thể hiện rõ trong nhận thức và hành động. Truyền thống yêu nước, cách mạng, năng động, sáng tạo của TP tiếp tục được bồi đắp, phát huy. Lòng nhân ái, tình yêu thương đồng bào, đồng chí được vun đắp và tiếp tục phát triển. Đức tính nghĩa tình từng bước trở thành nét văn hóa phổ biến, đặc trưng của người dân TP, thể hiện qua nhiều phong trào.

Bên cạnh đó, công tác xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa đạt kết quả quan trọng, đời sống văn hóa ở cơ sở được cải thiện, nâng cao. Các phong trào thi đua yêu nước với sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân đem lại hiệu quả thiết thực. Xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương tiêu biểu về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, người tốt việc tốt, góp phần xây dựng lối sống văn hóa trong mỗi cá nhân, gia đình.

Đồng chí Trần Lưu Quang, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh phát biểu tại buổi làm việc

Hoạt động văn học – nghệ thuật phong phú, sôi động, có nhiều sáng tạo. Đội ngũ văn nghệ sĩ của TP không ngừng phát triển. Hệ thống thiết chế văn hóa từng bước được củng cố. Hoạt động của hệ thống bảo tàng, thư viện, di tích, di sản văn hóa, các đoàn nghệ thuật, các trung tâm, nhà văn hóa… đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, đáp ứng tốt nhu cầu về đời sống tinh thần của người dân.

Đồng chí Trần Vĩnh Tuyến nhấn mạnh, bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 33 của TP cũng còn tồn tại một số hạn chế như: công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về văn hóa trong cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa thường xuyên; nhận thức về xây dựng và phát triển văn hóa, con người của một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa thật sâu sắc. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có một số lãnh đạo TP đã tác động tiêu cực ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và mặt trái của kinh tế thị trường dẫn tới nhiều hệ quả tiêu cực, lối sống thực dụng, văn hóa ngoại lai thiếu lành mạnh thâm nhập làm xói mòn, phai nhạt giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.

Đồng chí Trần Vĩnh Tuyến cũng thẳng thắn cho rằng, những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa chưa ngang tầm với vị trí, vai trò, khả năng và yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển TP.

Về phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới, TP sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế hiện nay, ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về văn hóa và đạo đức xã hội, góp phần kéo giảm phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa đúng thực chất. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa và phát triển con người.

TP sẽ chú trọng xây dựng văn hóa trên tất cả các lĩnh vực, tiếp tục củng cố, hình thành và phát triển những giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân TP mang tên Bác. Đẩy mạnh hơn nữa các phong trào thi đua yêu nước nhằm chăm lo nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; nâng chất lượng, chiều sâu của những phong trào có tính đặc trưng của TP và củng cố, phát triển đa dạng, sáng tạo mô hình mới.

Phát biểu tại buổi làm việc, các đại biểu đánh giá cao những kết quả mà TP Hồ Chí Minh đã đạt được khi triển khai thực hiện Nghị quyết 33. Đồng tình với báo cáo của TP, các đại biểu cho rằng, TP Hồ Chí Minh là một địa phương có vị trí, vai trò đặc biệt do đó trong xu hướng phát triển đặc biệt là hội nhập quốc tế sâu rộng, TP cần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đáp ứng yêu cầu chính trị và nhu cầu của người dân. TP cũng cần quan tâm rút ngắn khoảng cách về mức hưởng thụ văn hóa giữa người dân khu vực thành thị và khu vực nông thôn; cần đẩy mạnh triển khai Nghị quyết 33 gắn chặt với các Nghị quyết của Đảng, của TP.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP Hồ Chí Minh Trần Lưu Quang ghi nhận và tiếp thu ý kiến các đại biểu. Đồng chí Trần Lưu Quang cho rằng, vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa, con người luôn được TP quan tâm và đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Tuy nhiên, các kết quả đạt được chưa như kỳ vọng và yêu cầu thực tế. Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Thành ủy cũng chia sẻ về tình hình kinh tế – xã hội của TP hiện nay, trong đó có nhiều khó khăn mà TP đang phải đối mặt và đang xây dựng những giải pháp để giải quyết như ô nhiễm môi trường, quá tải bệnh viện, tệ nạn xã hội…Trong thời gian tới, cùng với nỗ lực của TP trong việc triển khai các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội, trong đó có việc tiếp tục đẩy mạnh triển khai Nghị quyết 33, TP mong muốn Trung ương tiếp tục quan tâm sâu sát hơn nữa, hỗ trợ TP trong quá trình triển khai các chương trình, nhiệm vụ.

Ghi nhận những kết quả mà TP. Hồ Chí Minh đã đạt được, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng cho rằng TP cần nỗ lực hơn nữa để xứng tầm với vị trí, vai trò của mình

Phát biểu kết luận buổi làm việc, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng ghi nhận và đánh giá cao kết quả thực hiện Nghị quyết 33 tại TP. Hồ Chí Minh. Đồng chí Võ Văn Thưởng nhấn mạnh, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng phát triển văn hóa, con người. Trong nhận thức của Đảng, đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế và chính trị. Từ Đại hội XII và các nghị quyết của Trung ương luôn coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng phát triển văn hóa, con người. Gần đây nhất trong hội nghị tổng kết kinh tế – xã hội năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2023, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đề ra yêu cầu phải cân bằng giữa vấn đề kinh tế – văn hóa, giữa văn hóa – con người và kinh tế, không chỉ tập trung cho kinh tế đồng thời nhấn mạnh rằng, kinh tế suy yếu một vài năm có thể sẽ phục hồi nhưng nếu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, văn hóa phải mất nhiều thời gian để phục hồi.

Đối với TP Hồ Chí Minh là một đô thị đặc biệt, là trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo, giao lưu và hội nhập quốc tế của vùng và cả nước, có vị trí chính trị quan trọng, có sự hội tụ và lan tỏa. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời gian vừa qua, Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng phát triển văn hóa, con người. TP đã ban hành chương trình kế hoạch, có nhiều giải pháp cụ thể, thực hiện đạt kết quả quan trọng và toàn diện.

Trong nhận thức, TP đã đặt văn hóa ngang bằng với kinh tế và chính trị, coi sự “văn minh, nghĩa tình” là những thành tố ngang bằng với phát triển kinh tế hiện đại, xây dựng TP “có chất lượng sống tốt”. TP có nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo, đầu tư đáng kể cho văn hóa, nghệ thuật; Công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa của TP phát triển mạnh mẽ; giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ, giao lưu quốc tế về văn hóa của TP bài bản và phong phú…

Tuy nhiên, đồng chí Võ Văn Thưởng cũng nhấn mạnh, so với vị trí và tiềm lực quan trọng của TP, với kỳ vọng của vùng và cả nước đối với TP thì còn nhiều vấn đề cần phải nỗ lực, cố gắng hơn. Việc đầu tư cho văn hóa còn chưa xứng tầm. TP là đô thị đặc biệt như thế, nhưng chưa có một “thánh đường” nghệ thuật nào, hệ thống bảo tàng, thư viện cũng chưa có thiết chế nào xứng tầm. Tác phẩm văn học nghệ thuật chưa phản ảnh được nhịp sống sôi động, mới mẻ của TP, chưa có những tác phẩm văn học nghệ thuật xứng tầm…

Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đặt vấn đề tại sao trước đây đời sống còn nhiều khó khăn, kinh tế chưa phát triển, chính sách còn gò bó nhưng vẫn có những tác phẩm văn học đột phá như thế, mà bây giờ lại thiếu?

Đồng chí Võ Văn Thưởng lắng nghe những chia sẻ của lãnh đạo TP bên lề buổi làm việc

TP luôn vì cả nước, mọi quyết sách, việc làm của TP luôn là tâm điểm của dư luận, thu hút sự quan tâm của cả nước, việc thực hiện tốt hay không tốt Nghị quyết 33 của TP nói riêng hay các nghị quyết của Đảng nói chung đều có ý nghĩa lớn, tác động đến việc thực hiện các nghị quyết của Đảng trên phạm vi cả nước. Do đó, đồng chí Võ Văn Thưởng đề nghị TP hệ thống lại cái gì đã làm tốt thì cần làm tốt hơn, chưa tốt thì làm cho tốt, cái gì đã nhận thức và có kế hoạch rồi thì cố gắng triển khai.

“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người luôn đòi hỏi cả việc xây và chống, trong đó xây là cơ bản, còn chống phải quyết liệt. TP cần nỗ lực hơn nữa để đạt được những kết quả tốt hơn, tương xứng với tiềm lực của mình và yêu cầu phát triển bền vững. TP phải là nơi đóng góp để hoàn thiện đường lối của Đảng, kinh nghiệm về thực hiện các mô hình hay nhân rộng cho cả nước”, đồng chí Võ Văn Thưởng nhấn mạnh./.

Phát Triển Giáo Dục Và Đào Tạo

PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO,KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ,XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ TIÊN TIẾN,ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC LÀM NỀN TẢNG TINH THẦN CỦA XÃ HỘI

I. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO:1. Vị trí, vai trò và thực trạng của giáo dục và đào tạo: a/ Vị trí, vai trò:

Giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế – xã hội.Giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững. Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.b/ Thực trạng của Giáo dục và đào tạo:Thành tựu: Sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn, trình độ dân trí được nâng lên: +Về phổ cập giáo dục + Về qui mô giáo dục + Về đổi mới giáo dục + Về đầu tư cho giáo dục + Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng.

– Tuy nhiên giáo dục và đào tạo cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục:

Giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triểnChất lưọng giáo dục còn nhiều yếu kémChưa cân đối Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cậpXã hội hóa chậm, thiếu đồng bộ2/ Tư tưởng chủ đạo phát triển giáo dục và đào tạo:Giữ vững mục tiêu đào tạo ra lớp người vừa hồng vừa chuyênThực sự coi gíao dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dânGắn phát triển giáo dục và đào tạo với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dụcĐa dạng hóa các loại hình giáo dục 3/ Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp:Đại hội X chủ trương: “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”.Mục tiêu cần đạt là: ” Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”.

Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp:Chuyển dần mô hình giáo dục sang giáo dục mở, mô hình xã hội học tậpĐổi mới mạnh mẽ gíao dục mầm non và giáo dục phổ thôngPhát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và trên đại họcĐảm bảo đủ số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên

Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục

Thực hiện xã hội hóa giáo dục

Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục.

Tăng cường hợp tác quốc tế

II . PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 1/Vị trí vai trò của khoa học công nghệ: Khoa học là gì? Khoa học là tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư duy thể hiện bằng những phát minh, dưới dạng lý thuyết, định lý, định luật, nguyên tắc.

Khoa học trả lời câu hỏi tại sao?Công nghệ là gì? Công nghệ là phương tiện và hệ thống phương tiện dùng để thực hiện trong qúa trình sản xuất nhằm biến đổi nguyên vật liệu, tài nguyên thành các sản phẩm và dịch vụ mong muốn

Công nghệ trả lời câu hỏi: Làm như thế nào? Khoa học công nghệ chiếm địa vị quyết định trong sự gia tăng gía trị sản phẩm

– Những tiến bộ của Khoa học và Công nghệ sau 20 năm đổi mới: + Nhận thức của xã hội về vai trò của Khoa học, Công nghệ với phát triển kinh tế- xã hội được nâng lên + Đội ngũ cán bộ Khoa học, Công nghệ được phát triển cả về số lượng và chất lượng + Khoa học và Công nghệ đã có bước phát triển + Khoa học xã hội và nhân văn có tiến bộ trong điều tra nghiên cứu góp phần vào hoạch định những chủ trương chính sách phát triển kinh tế- xã hội

+ Khoa học tự nhiên đã tăng cường điều tra nghiên cứu đánh gía tiềm năng thiên nhiên, phòng tránh thiên tai.

+ Ngân sách Nhà nước giành cho Khoa học và Công nghệ được tăng dần– Những hạn chế trong thời gian qua: + Các hoạt động Khoa học, Công nghệ chưa thật sự gắn kết hữu cơ với nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế- xã hội + Thị trường Khoa học , Công nghệ chậm được hình thành, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém + Cơ chế quản lý hoạt động khoa học chậm đổi mới + Đội ngũ cán bộ Khoa học và Công nghệ còn thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ.2/Quan điểm phát triển Khoa học và Công nghệ: – Cùng với giáo dục- đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế- xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH – Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh. – Phát triển khoa học, công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Phải dấy lên phong trào quần chúng tiến công mạnh mẽ vào khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào công nghiệp hóa- hiện đại hóa – Phát huy nội lực về khoa học, công nghệ kết hợp với tiếp thu những thành tựu về khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới – Phát triển khoa học và công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm phát triển kinh tế nhanh, bền vững3. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ: a. Mục tiêu: Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ.

b. Nhiệm vụ: – Phát triển khoa học xã hội: + Tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH

+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, dự báo tình hình về xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nuớc.Phát triển khoa học tự nhiên và công nghệ: + Tập trung nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng + Chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với công nghệ nội sinh; phát triển công nghệ cao: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. + Phát triển hệ thống thôn tin quốc gia về nguồn nhân lực và công nghệ.Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và khoa học công nghệ:

+ nhà nước đầu tư xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm. Đa dạng hoá các nguồn đầu tư và huy động các thành phần kinh tế tham gia hoạt động khoa học và công nghệ.

+ Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.

+ Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

III. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC LÀM NỀN TẢNG TINH THẦN CHO XÃ HỘI1/ Vị trí, vai trò của văn hóa:

– Khái niệm văn hoá?

Hội nghị trung ương 5 khóa VIII xác định: ” Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”– Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội:

+ Kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội

+ Văn hóa có chức năng định hình các gía trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi của con người. 2/ Quan điểm chỉ đạo xây dựng văn hóa: – Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. – Nền văn hóa chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc – Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong các dân tộc Việt Nam – Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

– Văn hóa là một măt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng 3/ Nhiệm vụ chủ yếu phát triển văn hóa trong thời gian tới: – Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội. – Xây dựng và hoàn thiện gía trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ CNH-HĐH. – Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hóa.

– Nhà nước tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. – Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, chủ động, khoa học

– Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ. – Tăng cường quản lý của Nhà nước về văn hóa, xây dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định, phù hợp với yêu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.

– Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.

Kết thúc bàiCÂU HỎI THẢO LUẬN 1/ Phân tích vị trí, vai trò, những tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ CNH- HĐH. 2/ Nhiệm vụ và các giải pháp phát triển khoa học và công nghệ trong thời gian tới. 3/ Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm tới.Chân thành cảm ơn các đồng chí đã lắng nghexin cảm ơn các đồng chí

Một Số Vấn Đề Mới Về Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam

Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Vĩnh Thắng

TCCSĐT- Nhận thức rõ tầm quan trọng, vai trò to lớn của văn hóa, con người trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước gần 30 năm qua, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển văn hóa, xây dựng “con người xã hội chủ nghĩa”.

Những thành quả to lớn của công cuộc xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. TrongTrong

Trên cơ sở tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Sự ra đời của Nghị quyết đã đáp ứng đòi hỏi bức thiết của yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong thời kỳ mới, khi mà tình hình thế giới và khu vực đang và sẽ có nhiều diễn biến mới. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khí Hải Dương – 981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đang đe dọa nghiêm trọng đến độc lập, chủ quyền quốc gia, hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội, bên cạnh kết quả, thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, làm xuất hiện những vấn đề phức tạp mới ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người, thì sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đã, đang và sẽ tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội. Quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế với sự du nhập của những văn hóa phẩm độc hại đang len lỏi, tác động vào đời sống văn hóa tinh thần của xã hội, làm suy giảm phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Sự chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình” để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong đang hằng ngày, hằng giờ tác động làm xói mòn những giá trị, những quan hệ văn hóa, đạo đức, lối sống tốt đẹp trong xã hội.

Trên cơ sở kế thừa những quan điểm, chủ trương, nội dung và giải pháp của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tổng kết lý luận và thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong những năm qua, nhất là từ việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người, Đảng ta đã có sự đổi mới trong tư duy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Những đổi mới tư duy lý luận, những vấn đề phát triển mới về xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI được thể hiện trên một số nội dung sau đây:

Trong bối cảnh hiện nay, khi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang diễn ra trong điều kiện mới, cùng với những thời cơ, thuận lợi, là những khó khăn, thách thức mới, cho nên hơn lúc nào hết, vấn đề phát triển bền vững đất nước được đặt ra với yêu cầu cao hơn. Chỉ có phát triển bền vững mới bảo đảm cho dân tộc ta, đất nước ta giữ được độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài, mới bảo đảm cho chúng ta đứng vững và tiếp tục phát triển. Vì vậy, không thể thiếu vai trò của văn hóa, của con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực tinh thần to lớn của sự phát triển bền vững. Thứ nhất, việc đặt tên của Nghị quyết “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam…” đã thể hiện sự phát triển mới về tư duy của Đảng ta khi khẳng định: Một mặt, vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa, con người đều phải được đặt ra, không chỉ có xây dựng, mà còn phải có phát triển, phát triển trên cơ sở đã xây dựng; ngược lại, không chỉ có phát triển, mà còn phải có cả xây dựng mới. Có nội dung phải bắt đầu xây dựng mới do yêu cầu mới của thực tiễn, mà trước đây chưa xây dựng được, có nội dung trước đây đã xây dựng nhưng trước sự đòi hỏi mới của thực tiễn phải có sự bổ sung, phát triển, hoàn thiện hơn. Mặt khác, xây dựng và phát triển văn hóa phải gắn chặt với vấn đề xây dựng và phát triển con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đặc biệt, Nghị quyết đã nhấn mạnh quan điểm phát triển con người, gắn phát triển văn hóa với sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa thì trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp. Ở đây xây dựng, phát triển văn hóa và con người luôn gắn kết chặt chẽ, tác động lẫn nhau, hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau nhằm đạt tới mục tiêu chung là văn hóa và con người đều được xây dựng, phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Thứ hai, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật Đảng ta đã khẳng định sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng về tư duy, nhận thức, về đời sống văn hóa, về những giá trị chuẩn mực văn hóa, các sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật… cũng như về các phong trào, hoạt động văn hóa, công tác quản lý, đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém về xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng con người, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội; về đời sống văn hóa tinh thần, nhất là vùng sâu, vùng xa; về cơ chế, chính sách, về quản lý văn hóa; về hệ thống thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác văn hóa. Nghị quyết cũng đã chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế, yếu kém, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến những nguyên nhân chủ quan từ nhận thức, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền; công tác quản lý nhà nước về văn hóa, việc đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, cũng như việc quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực…

Thứ ba, quán triệt sâu sắc yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013, các Nghị quyết, Kết luận của các hội nghị Trung ương khóa XI, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang và sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường.

mục tiêu chung, Nghị quyết đã nhấn mạnh đến vấn đề “Xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Tư tưởng xây dựng nền văn hóa và con người phải “thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”, coi đây là các đặc trưng của nền văn hóa mà chúng ta phải xây dựng và phát triển là một luận điểm mới. Đó là sự kế thừa tinh thần của Đề cương Văn hóa năm 1943 để bổ sung, phát triển, hoàn thiện, vừa đúng với quan điểm lý luận, vừa đáp ứng đúng yêu cầu mới của thực tiễn. Đồng thời, trong mục tiêu chung về xây dựng và phát triển văn hóa, Nghị quyết đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa, phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Sự phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh hiện nay không thể thiếu vai trò của văn hóa, thậm chí mất văn hóa là mất tất cả. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không thể thiếu sức mạnh của văn hóa nói chung, văn hóa quân sự Việt Nam nói riêng. Trong điều kiện một nước đất không rộng lắm, người không đông lắm, kinh tế, khoa học chưa phát triển mạnh, vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự chưa thật nhiều và hiện đại lại phải đương đầu với những thế lực xâm lược có kinh tế, khoa học, quân sự phát triển thì sức mạnh của văn hóa, của văn hóa quân sự có vai trò cực kỳ quan trọng.

các mục tiêu cụ thể, Nghị quyết đã giành vị trí và nội dung thỏa đáng cho vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa với những luận điểm mới về xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nhất là quan niệm “Xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế và trong gia đình” và “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”. Đây là những vấn đề khá mới mẻ trong tư duy mới về xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng ta. Quán triệt quan điểm gắn xây dựng và phát triển văn hóa với xây dựng và phát triển con người, Nghị quyết đã giành vị trí và dung lượng thỏa đáng cho vấn đề xây dựng và phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước với việc xác định “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”.

Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước là hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu, giá trị, chuẩn mực của văn hóa Việt Nam, của con người Việt Nam trong thời kỳ mới, khi mà chúng ta đang xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, mà nét nổi bật là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập quốc tế trong điều kiện khoa học và công nghệ đang có bước phát triển mới, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá nước ta bằng “diễn biến hòa bình” để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, nhất là trên lĩnh vực văn hóa, con người.

Thứ tư, nhằm thực hiện mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Nghị quyết đã chỉ ra năm quan điểm chỉ đạo. Trong đó có những nội dung đã thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng văn hóa, con người như: “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Đây là một luận điểm mới thể hiện Đảng ta đã rất coi trọng vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa. Thực tiễn công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là trong những cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định vai trò to lớn của sức mạnh văn hóa Việt Nam. Đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội thể hiện rõ quan điểm sức mạnh tổng hợp của đất nước phải là sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Theo đó, việc đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội không chỉ thể hiện trong nhận thức, quan điểm, tư tưởng, tình cảm… mà điều quan trọng hơn là phải được thể hiện trong tổ chức hoạt động thực tiễn xây dựng và phát triển bền vững đất nước.

Trong điều kiện hiện nay, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới thì vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện được đặt ra với yêu cầu mới cao hơn. Đó phải là những con người tiêu biểu về tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội với những nét biểu hiện mới. Chẳng hạn, yêu nước ngày nay là phải trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, kiên định và quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, khẳng định vai trò và sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Yêu nước ngày nay là phải quyết tâm xây dựng đất nước vững mạnh toàn diện, ngày càng phát triển bền vững, giữ vững độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài; đồng thời, phải góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Thứ năm, Nghị quyết đã đặt nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách lên hàng đầu. Có thế giới quan khoa học, hướng tới chân – thiện – mỹ. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường. Nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm con người. Nâng cao thể lực, tầm vóc, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống… Trong xác định nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, Đảng ta cũng nhấn mạnh “trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân”.

Việc xác định rõ và cụ thể nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước là sự thể hiện tư duy mới của Đảng ta khi đặt vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới với những đặc điểm mới đã, đang và sẽ chi phối, tác động đến văn hóa, con người, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kinh tế tri thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo quan niệm mới về phát triển bền vững đất nước.

Nghị quyết đã xác định rõ những giải pháp, biện pháp toàn diện, đồng bộ, cụ thể và có tính khả thi trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong điều kiện mới, từ những giải pháp, biện pháp về nhận thức, trách nhiệm của tổ chức, con người, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, xây dựng đội ngũ nòng cốt hoạt động trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người, đến cơ chế, chính sách, đầu tư nguồn lực cả nhân lực, vật lực cho hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước chỉ có thể đem lại những thành tựu to lớn khi chúng ta quan tâm sâu sắc, đầy đủ đến việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp cao cả xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ sáu, để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Nghị quyết đã chỉ ra những giải pháp mới về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa. Có thể thấy, trong Nghị quyết lần này Đảng ta hết sức coi trọng vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cho phù hợp với thời kỳ mới. Đặc biệt nhấn mạnh đến việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa và vai trò của chính những con người, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Việc ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay, thể hiện tư duy mới trong lãnh đạo văn hóa của Đảng ta, trên cơ sở kế thừa và phát triển tư duy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người được thể hiện trong các kỳ Đại hội Đảng, trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương các khóa trước, nhất là từ Đề cương Văn hóa năm 1943 và Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Việc tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc, đầy đủ, nhất là những vấn đề phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa, con ngườiViệt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trên cơ sở đó tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết, nhanh chóng đưa Nghị quyết vào cuộc sống, nhất định chúng ta sẽ thổi được một luồng gió mới vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.

Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Vĩnh Thắng

Những Giải Pháp Bước Đầu Trong Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam

Biểu diễn nghệ thuật tại Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2014.

Các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa đã đề xuất nhiều ý kiến thiết thực để thực hiện và đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, lối sống; về văn hóa chính trị – kinh tế, tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh và phát triển công nghiệp văn hóa, thực hiện hội nhập quốc tế.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa XI (Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI – Nghị quyết số 33 NQ/TW) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã được ban hành ngày 9-6-2014. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn chiến lược và bước phát triển quan trọng trong tư duy, lý luận của Ðảng ta về văn hóa; về vị trí, vai trò của văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng cùng quá trình toàn cầu hóa với nhiều biến động về kinh tế – chính trị thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Trong phát biểu đề dẫn hội thảo, Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hồ Anh Tuấn đã nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng mang tính chiến lược của Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI (Nghị quyết T.Ư 9); là sự tiếp nối, kế thừa Nghị quyết T.Ư 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” thời kỳ đổi mới, nhưng ở tầm cao hơn, mang lại những nhận thức mới về văn hóa, thể hiện quyết tâm của Ðảng ta trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Xây dựng hệ giá trị cốt lõi con người Việt Nam

Mục tiêu của Nghị quyết T.Ư 9 là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; đưa văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong đó, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là nhiệm vụ đầu tiên, được đặt ở vị trí quan trọng trong sáu nhiệm vụ của Nghị quyết nêu ra. Ðề cập về nhiệm vụ này, GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư khẳng định: Suy cho cùng, mọi hoạt động phát triển văn hóa cũng đều hướng đến xây dựng con người, bởi con người là chủ thể của sáng tạo, là tài nguyên, nguồn lực quan trọng nhất để phát triển quốc gia. Vì thế, cần tập trung xây dựng con người Việt Nam với việc cụ thể hóa những chuẩn mực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các chuẩn mực đó chính là “hệ giá trị con người”, là những giá trị cốt lõi mà con người cần hướng tới như Nghị quyết T.Ư 9 đã chỉ ra: có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật…, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo… Ðể làm được điều này, cần huy động được mọi nguồn lực từ gia đình, nhà trường và cộng đồng cũng như sự chung tay giúp sức của toàn xã hội. Từ góc nhìn mở rộng mang tính thực tiễn về xây dựng con người, chăm lo bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ, GS, TS Ðinh Xuân Dũng, Ủy viên Hội đồng Lý luận T.Ư cho rằng, việc lập kế hoạch và lộ trình để xây dựng và hoàn thiện hệ thống các hệ giá trị mới của con người Việt Nam là đòi hỏi rất cao và mới đối với văn hóa giai đoạn tới, bởi những năm qua, cuộc vận động xây dựng con người mới, tuy có bề rộng, nhưng chưa sâu, chưa bền vững, hiệu quả còn hạn chế và hình ảnh con người Việt Nam hiện đại còn mờ nhạt trong sáng tạo văn hóa, văn học – nghệ thuật. Do đó, cần tập trung cho việc cụ thể hóa hệ giá trị đó thành những mẫu hình, chuẩn mực phù hợp với từng giới, từng ngành, địa phương, đơn vị, kết hợp sâu sắc giữa giá trị truyền thống tốt đẹp và giá trị mới. Ðấu tranh kiên quyết chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giáo sư cũng đề nghị cần triển khai chương trình giáo dục văn hóa, giáo dục thẩm mỹ, nâng cao chất lượng giáo dục khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục đạo đức, lối sống trong nhà trường, từ phổ thông đến đại học, bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, thiếu niên; nhấn mạnh tới bốn giá trị lớn mà văn hóa phải chăm lo nuôi dưỡng cho thanh niên là: lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, vẻ đẹp đạo đức, bản lĩnh văn hóa. Ðể làm được điều này, cần phát huy vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ, những người hoạt động văn hóa. GS, TS Ðinh Xuân Dũng cũng thẳng thắn cảnh báo về tình trạng đường lối, chủ trương nghị quyết là đúng, nhưng tổ chức thực hiện kém, làm một cách hời hợt, hình thức, kết quả là chủ trương không đi vào được cuộc sống, vẫn nằm trên các trang giấy. Chính từ những lo ngại đó, GS, TS Ðinh Xuân Dũng đã đề nghị cần Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Ðảng về văn hóa thành pháp luật, chính sách của Nhà nước, bảo đảm quá trình chăm lo bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ, xây dựng con người phát triển một cách toàn diện.

Bổ sung vào quan điểm nêu trên, PGS, TS Từ Thị Loan, quyền Viện trưởng Văn hóa – Nghệ thuật quốc gia Việt Nam lưu ý: Cần nhanh chóng xác lập và hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Theo đó, kế thừa tất cả những gì tinh hoa trong cội nguồn văn hóa dân tộc, đồng thời bổ sung những giá trị mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hệ giá trị mới, định hướng giá trị của con người Việt Nam hiện nay cần được xây dựng và củng cố trong các mối quan hệ đa chiều: truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng, lý tưởng và hiện thực, dân tộc và quốc tế, địa phương và nhân loại…, kiên quyết khắc phục các thói hư, tật xấu và những mặt hạn chế của con người Việt Nam, ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Có như vậy, việc hiện thực hóa hệ giá trị đó trong thực tiễn mới có tính khả thi, hiệu quả và có sức sống.

Ðể tạo dựng các giá trị văn hóa tốt đẹp trong con người, cần xây dựng và củng cố một môi trường văn hóa lành mạnh. Theo TS Vũ Thị Phương Hậu, Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trong bối cảnh môi trường văn hóa Việt Nam còn nhiều tình trạng lai căng, ngoại lai, tệ nạn xã hội, tội phạm… có chiều hướng gia tăng, để làm trong sạch môi trường văn hóa, trước hết, cần tập trung xây dựng văn hóa gia đình và nâng cao nhận thức của xã hội, nhất là của lớp trẻ về gia đình, về văn hóa gia đình. Các lớp học tiền hôn nhân cần được tổ chức rộng khắp trên cả nước để trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết cho các bạn trẻ trước khi quyết định xây dựng tổ ấm cho mình. Bên cạnh đó, cần xây dựng và hình thành văn hóa công sở trong các cơ quan hành chính Nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi mà trong đó mọi thành viên đều có thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, gánh vác nhiệm vụ do Nhà nước và nhân dân giao phó, đồng thời đáp ứng nhu cầu của nhân dân và phục vụ xã hội được tốt hơn. Một biện pháp quan trọng là kiện toàn hệ thống thiết chế văn hóa để các chính sách, giá trị văn hóa đi vào cuộc sống. Ðồng thời, phát triển và quản lý tốt thị trường văn hóa phẩm, vừa đáp ứng được mọi nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp trong xã hội, vừa tạo ra những định hướng, tác động tích cực đối với công chúng. Bàn về giải pháp thể chế hóa các chính sách về văn hóa, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai TS Trần Hữu Sơn nhấn mạnh, phải đặc biệt chú ý đến việc xây dựng cơ chế đặc thù để phát triển văn hóa cho từng vùng, miền. Ông đã nêu lên thực tiễn hoạt động và phát triển văn hóa ở khu vực miền núi phía bắc về cơ chế vận hành của đời sống văn hóa dân gian, người dân không chỉ có nhu cầu hưởng thụ mà còn trực tiếp tham gia sáng tạo, phân phối các sản phẩm văn hóa… Từ thực tế này, cần quan tâm nghiên cứu cơ chế vận hành dân gian để đề xuất các chính sách hỗ trợ, tổ chức các hoạt động văn hóa ở miền núi một cách phù hợp.

Trong xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa, không thể không chú trọng đến giải pháp giáo dục, đào tạo, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu con người PGS, TS Mai Quỳnh Nam khẳng định: Bản chất của xây dựng con người là đào tạo con người, và bản chất của đào tạo con người là đào tạo học vấn. Do đó, cần nâng cao chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục, bên cạnh đó, cũng cần có cái nhìn thẳng thắn vào những hạn chế trong tư tưởng, tính cách của người Việt Nam, xác định những rào cản trong vấn đề xây dựng con người để tìm giải pháp khắc phục, thay đổi. Theo TSKH Phạm Ðỗ Nhật Tiến, Bộ Giáo dục và Ðào tạo, việc xây dựng quan hệ đối tác giáo dục – văn hóa là lời giải cơ bản cho bài toán xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Quan hệ này cần được thiết lập dựa trên thế mạnh của từng đối tác, cùng chia sẻ trách nhiệm và nguồn lực, nhằm đem lại kết quả đầu ra mong muốn trong xây dựng con người Việt Nam. Trưởng Ban Tuyên truyền – lý luận Báo Nhân Dân, nhà báo Nguyễn Hòa đã nêu bật văn hóa khoa học và giáo dục là tiền đề quan trọng để phát triển bền vững. Ðể định hướng cho văn hóa giáo dục trong một tương lai dài, cần chấn chỉnh lại các đơn vị kiến thức giảng dạy trong trường học các cấp. Cần thiết phải nhấn mạnh nội dung giáo dục truyền thống, giáo dục công dân, không để tình trạng những môn học này thuần túy thi lấy điểm mà thiếu tác động tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Trong giáo dục, sự chệch hướng rất dễ nảy sinh từ các vấn đề nêu trên và hậu quả sẽ hết sức tai hại khi thế hệ tương lai không được đào tạo một cách đúng đắn.

Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa

Ðể văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, nhất thiết phải xác định được vai trò của văn hóa trong tổ chức, hoạt động chính trị cũng như phát triển kinh tế – xã hội. GS, TS Hoàng Chí Bảo, Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh: Xây dựng văn hóa trong chính trị là đòi hỏi tất yếu, làm cho chính trị vì con người, vì dân phải là chính trị có văn hóa, chính trị trở thành văn hóa chính trị và sự trưởng thành của mỗi con người chính trị, mỗi tổ chức chính trị, mỗi hoạt động, hành vi chấp chính cũng như tham chính đều được đo lường, đánh giá bằng thước đo văn hóa. Muốn xây dựng văn hóa trong chính trị, phải chú trọng xây dựng con người, hoàn thiện nhân cách trong hoạt động chính trị, từ những công dân của nhà nước pháp quyền đến cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ chức vụ, được giao trọng trách ở các cấp, các ngành. Theo ông, văn hóa trong chính trị, nhất là trong Ðảng, Nhà nước phải biểu hiện thành văn hóa trong Ðảng – văn hóa lãnh đạo, cầm quyền và trở thành văn hóa trong Nhà nước – văn hóa quản lý và quản trị. Ðội ngũ cán bộ, đảng viên của Ðảng, đội ngũ công chức của Nhà nước, của chính quyền các cấp trong hệ thống công quyền được giáo dục và thực hành văn hóa trong chính trị phải tỏ ra là những chủ thể của văn hóa chính trị, tận tụy, trách nhiệm, gương mẫu trong công việc, trong quan hệ, trong ứng xử với dân theo yêu cầu trọng dân và trọng pháp. Bàn về giải pháp xây dựng văn hóa trong Ðảng, GS, TS, NGND Trần Văn Bính, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Trong tình hình hiện nay, để xây dựng văn hóa trong Ðảng, phải tập trung chống chủ nghĩa cá nhân. Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì mới xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân…

Xây dựng văn hóa trong Ðảng cũng là cách để nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Ðảng và cấp ủy các cấp đối với lĩnh vực văn hóa, mà giải pháp nòng cốt là tập trung xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa từ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến cán bộ làm công tác khoa học, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ… Theo Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật T.Ư PGS, TS Ðào Duy Quát, để thực hiện giải pháp cơ bản và quan trọng này, cần chú ý đến bốn nội dung: Thứ nhất, tập trung xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, trong đó coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; bố trí cán bộ làm công tác khoa học. Thứ hai, quan tâm xây dựng các trường văn hóa nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Thứ ba, đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Thứ tư, có chính sách phát hiện, bồi dưỡng sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Ðiều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc hội nhập văn hóa và tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hóa thế giới là xu hướng tất yếu của phát triển văn hóa. PGS, TS Phạm Duy Ðức, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, một trong những giải pháp quan trọng để chủ động hội nhập văn hóa là cần xây dựng môi trường đối ngoại văn hóa lành mạnh, nhất là xây dựng một số trung tâm văn hóa ở trong nước và nước ngoài có chức năng “môi giới”, lựa chọn, phiên dịch, giới thiệu những thành tựu văn hóa của thế giới vào Việt Nam và Việt Nam ra nước ngoài. Ðặc biệt chú ý tới vai trò của thông tin văn hóa đối ngoại trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trong các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, các trường đại học, các viện nghiên cứu.

Bàn về việc thúc đẩy thế chủ động trong hội nhập quốc tế về văn hóa, nhiều đại biểu tham dự Hội thảo đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của việc phát huy “sức mạnh mềm” của các giá trị văn hóa. TS Nguyễn Thị Thu Phương, Viện Nghiên cứu Trung Quốc (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã đưa ra khái niệm phổ biến và mang tính toàn vẹn mà thế giới đang công nhận như sau: “Sức mạnh mềm văn hóa là sức hấp dẫn, thu phục, khả năng ảnh hưởng, lôi cuốn của một quốc gia đối với các quốc gia khác bằng các giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng được thực hiện thông qua các phương thức mang tính phi cưỡng chế… nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế. Sức mạnh mềm văn hóa còn là khả năng một quốc gia chủ động tiếp nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài, đồng thời có sức chống đỡ, hóa giải được những tác động nguy hại, gây xói mòn các giá trị nền tảng và làm suy yếu bản sắc văn hóa, gây tổn hại chủ quyền văn hóa quốc gia”. Với nội hàm đó, theo Viện trưởng Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh TS Nguyễn Toàn Thắng, để gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, trước tiên cần tôn trọng luật pháp quốc tế, thực hiện đạo lý nhân loại, phát huy sức cảm hóa và sức hấp dẫn của CNXH. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phát triển truyền thông đại chúng, quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam trên toàn cầu; tập trung xây dựng “sức mạnh mềm” văn hóa trong cộng đồng dân cư, thường xuyên giáo dục nâng cao dân trí cộng đồng trên cơ sở coi trọng và phát huy vai trò của triết học mác-xít, khoa học xã hội.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài 5: Phát Triển Giáo Dục Và Đào Tạo, Khoa Học Và Công Nghệ,Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam; Quản Lý Tài Nguyên, Bảo Vệ Môi Trường. trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!