Xu Hướng 12/2023 # 8 Đặc Điểm Của Môn Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết 8 Đặc Điểm Của Môn Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong nhà trường phổ thông, môn Vật lý giúp học sinh có được những tri thức phổ thông cốt lõi của Vật lý học và ứng dụng của chúng trong cuộc sống. Cụ thể, chương trình môn Vật lý được định hướng xây dựng với 8 đặc điểm cơ bản.

Tích hợp ở giai đoạn giáo dục cơ bản, phân hóa ở trung học phổ thông

Trong Chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục vật lý được phân bố ở cả ba cấp học với các mức độ khác nhau, thông qua các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (Trung học cơ sở); Vật lý (trung học phổ thông).

Ở trung học phổ thông, Vật lý là môn học thuộc nhóm môn Khoa học tự nhiên, được lựa chọn theo nguyện vọng của học sinh. Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp này, môn Vật lý giúp học sinh tiếp tục phát triển các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, củng cố các phẩm chất, kỹ năng cốt lõi, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học.

Cô giáo trẻ và những sáng tạo ấn tượng về môn Vật lý ở Hải Dương

Chú ý thích đáng đến việc phát triển năng lực thông qua thực hành

Bên cạnh việc sử dụng các mô hình vật lý và toán học, chương trình chú trọng thích đáng đến việc hình thành năng lực tìm tòi khám phá các thuộc tính của đối tượng vật lý thông qua các nội dung thí nghiệm, thực hành dưới các góc độ khác nhau.

Chương trình coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống; vừa bảo đảm phát triển năng lực trên nền tảng những năng lực chung và Năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể.

Đổi mới phương pháp giáo dục là yếu tố quyết định để phát triển năng lực học sinh

Các phương pháp giáo dục của môn Vật lý góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nhằm hình thành Năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ vật lý (Năng lực vật lý) cũng như góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực chung được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.

Đánh giá kết quả giáo dục là hoạt động xem xét, so sánh mức độ đạt được của mỗi học sinh theo yêu cầu cần đạt của môn học, tìm ra nguyên nhân, dự đoán năng lực phát triển còn tiềm ẩn ở học sinh. Đánh giá là một bộ phận hợp thành quan trọng của quá trình giáo dục. Nó cho phép thu thập các thông tin về chất lượng học tập của học sinh, nhằm tạo các cơ hội và thúc đẩy quá trình học tập của học sinh. Vì vậy, việc đánh giá kết quả giáo dục học sinh phải xuất phát từ mục tiêu giáo dục của môn học.

Có tính đến các đối tượng và khu vực khác nhau

Trong nội dung, hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá phát triển năng lực học sinh, chương trình tạo điều kiện để chú trọng tập trung đánh giá các thành phần của năng lực vật lý. Bên cạnh đánh giá kiến thức, coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng thực hành vật lý. Do hình thức trắc nghiệm khách quan không phù hợp cho đánh giá kỹ năng thực hành nên chương trình quan tâm hợp lý đến việc sử dụng cách đánh giá qua các sản phẩm thực hành của học sinh (ví dụ sản phẩm của các dự án học tập) cũng như các đánh giá mang tính tích hợp (ví dụ STEM).

Chương trình có cấu trúc nội dung cũng như yêu cầu cần đạt về cơ bản là giống nhau cho tất cả các vùng, miền. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện những kỹ năng cơ bản trong tìm tòi, khám phá đối tượng vật lý, giáo viên có thể chủ động tổ chức cho học sinh hoạt động trải nghiệm và thực hành một số nội dung mang sắc thái riêng của địa phương mình.

Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Môn Vật Lý

Lộ trình dạy môn Vật lí theo chương trình giáo dục phổ thông mới

Chương trình môn Vật lý mới ở phổ thông sẽ coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng thực hành. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lý mới nhất.

Môn Vật lý trong Chương trình GDPT mới 1. Điểm mới Chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lý

Tích hợp ở giai đoạn giáo dục cơ bản, phân hóa ở trung học phổ thông

Trong Chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục vật lý được phân bố ở cả ba cấp học với các mức độ khác nhau, thông qua các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (Trung học cơ sở); Vật lý (trung học phổ thông).

Ở trung học phổ thông, Vật lý là môn học thuộc nhóm môn Khoa học tự nhiên, được lựa chọn theo nguyện vọng của học sinh. Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp này, môn Vật lý giúp học sinh tiếp tục phát triển các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, củng cố các phẩm chất, kỹ năng cốt lõi, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học.

Chú ý thích đáng đến việc phát triển năng lực thông qua thực hành

Bên cạnh việc sử dụng các mô hình vật lý và toán học, chương trình chú trọng thích đáng đến việc hình thành năng lực tìm tòi khám phá các thuộc tính của đối tượng vật lý thông qua các nội dung thí nghiệm, thực hành dưới các góc độ khác nhau.

Chương trình coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống; vừa bảo đảm phát triển năng lực trên nền tảng những năng lực chung và Năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể.

Đổi mới phương pháp giáo dục là yếu tố quyết định để phát triển năng lực học sinh

Các phương pháp giáo dục của môn Vật lý góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nhằm hình thành Năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ vật lý (Năng lực vật lý) cũng như góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực chung được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.

Đánh giá kết quả giáo dục là hoạt động xem xét, so sánh mức độ đạt được của mỗi học sinh theo yêu cầu cần đạt của môn học, tìm ra nguyên nhân, dự đoán năng lực phát triển còn tiềm ẩn ở học sinh. Đánh giá là một bộ phận hợp thành quan trọng của quá trình giáo dục. Nó cho phép thu thập các thông tin về chất lượng học tập của học sinh, nhằm tạo các cơ hội và thúc đẩy quá trình học tập của học sinh. Vì vậy, việc đánh giá kết quả giáo dục học sinh phải xuất phát từ mục tiêu giáo dục của môn học.

Có tính đến các đối tượng và khu vực khác nhau

Trong nội dung, hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá phát triển năng lực học sinh, chương trình tạo điều kiện để chú trọng tập trung đánh giá các thành phần của năng lực vật lý. Bên cạnh đánh giá kiến thức, coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng thực hành vật lý. Do hình thức trắc nghiệm khách quan không phù hợp cho đánh giá kỹ năng thực hành nên chương trình quan tâm hợp lý đến việc sử dụng cách đánh giá qua các sản phẩm thực hành của học sinh (ví dụ sản phẩm của các dự án học tập) cũng như các đánh giá mang tính tích hợp (ví dụ STEM).

Chương trình có cấu trúc nội dung cũng như yêu cầu cần đạt về cơ bản là giống nhau cho tất cả các vùng, miền. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện những kỹ năng cơ bản trong tìm tòi, khám phá đối tượng vật lý, giáo viên có thể chủ động tổ chức cho học sinh hoạt động trải nghiệm và thực hành một số nội dung mang sắc thái riêng của địa phương mình.

CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MÔN VẬT LÍ

2. Nội dung Chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lý

MỤC LỤC

(Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2023/TT-BGDĐTngày 26 tháng 12 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)

I. ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC…………………………………………………………………………………………. 3

II. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH…………………………………………………………. 4

III. MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH …………………………………………………………………………….. 5

IV. YÊU CẦU CẦN ĐẠT…………………………………………………………………………………………….5

V. NỘI DUNG GIÁO DỤC ……………………………………………………………………………………….. 8

LỚP 10 …………………………………………………………………………………………………………………. 9

CÁC CHUYÊN ĐỀ LỚP 10……………………………………………………………………………………….15

LỚP 11 ………………………………………………………………………………………………………………….17

CÁC CHUYÊN ĐỀ LỚP 11……………………………………………………………………………………….22

LỚP 12 …………………………………………………………………………………………………………………24

CÁC CHUYÊN ĐỀ LỚP 12……………………………………………………………………………………….28

VI. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ……………………………………………………………………………….31

VII. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC…………………………………………………………………………33

Nội dung chương trình giáo dục phổ thông mới môn Vật lý I. ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC

VIII. GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH……………………………….34

Vật lí học là ngành khoa học nghiên cứu các dạng vận động đơn giản, tổng quát nhất của vật chất và tương tác giữa chúng.

Trong nhà trường phổ thông, giáo dục vật lí được thực hiện ở cả ba cấp học với các mức độ khác nhau.

Ở giai đoạn giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở), nội dung giáo dục vật lí được đề cập trong các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2, lớp 3); Khoa học (lớp 4, lớp 5); Khoa học tự nhiên (từ lớp 6 đến lớp 9).

Thí nghiệm, thực hành đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành khái niệm, quy luật, định luật vật lí. Vì vậy, Chương trình môn Vật lí chú trọng rèn luyện cho học sinh khả năng tìm hiểu các thuộc tính của đối tượng vật lí thông qua các nội dung thí nghiệm, thực hành dưới các góc độ khác nhau.

Chương trình môn Vật lí coi trọng việc rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống; vừa bảo đảm phát triển năng lực vật lí – biểu hiện của năng lực khoa học tự nhiên, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp của học sinh.

II. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH

Thông qua Chương trình môn Vật lí, học sinh hình thành và phát triển được thế giới quan khoa học; rèn luyện được sự tự tin, trung thực, khách quan; cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên; yêu thiên nhiên, tự hào về thiên nhiên của quê hương, đất nước; tôn trọng các quy luật của thiên nhiên, trân trọng, giữ gìn và bảo vệ thiên nhiên, ứng xử với thiên nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững; đồng thời hình thành và phát triển được các năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo.

Chương trình môn Vật lí quán triệt đầy đủ các quy định cơ bản được nêu trong Chương trình tổng thể, về quan điểm, mục tiêu, yêu cầu cần đạt, kế hoạch giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả, điều kiện thực hiện và phát triển chương trình; định hướng xây dựng chương trình các môn học và hoạt động giáo dục; đồng thời nhấn mạnh một số quan điểm sau:

1. Chương trình môn Vật lí một mặt kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành và mặt khác, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, đồng thời tiếp cận những thành tựu của khoa học giáo dục và khoa học vật lí phù hợp với trình độ nhận thức và tâm, sinh lí lứa tuổi của học sinh, có tính đến điều kiện kinh tế và xã hội Việt Nam.

III. MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH

4. Các phương pháp giáo dục của môn Vật lí góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nhằm hình thành, phát triển năng lực vật lí cũng như góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực chung được quy định trong Chương trình tổng thể.

1. Cùng với các môn học và hoạt động giáo dục khác, giúp học sinh hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được quy định trong Chương trình tổng thể.

2. Giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực vật lí, với các biểu hiện sau:

a) Có được những kiến thức, kĩ năng phổ thông cốt lõi về: mô hình hệ vật lí; năng lượng và sóng; lực và trường;

b) Vận dụng được một số kĩ năng tiến trình khoa học để khám phá, giải quyết vấn đề dưới góc độ vật lí;

c) Vận dụng được một số kiến thức, kĩ năng trong thực tiễn, ứng xử với thiên nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường;

IV. YÊU CẦU CẦN ĐẠT

d) Nhận biết được năng lực, sở trường của bản thân, định hướng được nghề nghiệp và có kế hoạch học tập, rèn luyện đáp ứng yêu cầu của định hướng nghề nghiệp.

1. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực chung

Môn Vật lí góp phần thực hiện các yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định trong Chương trình tổng thể.

2. Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù

Môn Vật lí hình thành và phát triển ở học sinh năng lực vật lí, với những biểu hiện cụ thể sau đây:

a) Nhận thức vật lí

– Nhận biết và nêu được các đối tượng, khái niệm, hiện tượng, quy luật, quá trình vật lí.

– Trình bày được các hiện tượng, quá trình vật lí; đặc điểm, vai trò của các hiện tượng, quá trình vật lí bằng các hình thức biểu đạt: nói, viết, đo, tính, vẽ, lập sơ đồ, biểu đồ.

– Tìm được từ khoá, sử dụng được thuật ngữ khoa học, kết nối được thông tin theo logic có ý nghĩa, lập được dàn ý khi đọc và trình bày các văn bản khoa học.

– So sánh, lựa chọn, phân loại, phân tích được các hiện tượng, quá trình vật lí theo các tiêu chí khác nhau.

– Giải thích được mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình.

– Nhận ra được một số ngành nghề phù hợp với thiên hướng của bản thân.

b) Tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ vật lí

Tìm hiểu được một số hiện tượng, quá trình vật lí đơn giản, gần gũi trong đời sống và trong thế giới tự nhiên theo tiến trình; sử dụng được các chứng cứ khoa học để kiểm tra các dự đoán, lí giải các chứng cứ, rút ra các kết luận; biểu hiện cụ thể là:

– Đưa ra phán đoán và xây dựng giả thuyết: Phân tích vấn đề để nêu được phán đoán; xây dựng và phát biểu được giả thuyết cần tìm hiểu.

– Lập kế hoạch thực hiện: Xây dựng được khung logic nội dung tìm hiểu; lựa chọn được phương pháp thích hợp (quan sát, thực nghiệm, điều tra, phỏng vấn, tra cứu tư liệu); lập được kế hoạch triển khai tìm hiểu.

– Thực hiện kế hoạch: Thu thập, lưu giữ được dữ liệu từ kết quả tổng quan, thực nghiệm, điều tra; đánh giá được kết quả dựa trên phân tích, xử lí các dữ liệu bằng các tham số thống kê đơn giản; so sánh được kết quả với giả thuyết; giải thích, rút ra được kết luận và điều chỉnh khi cần thiết.

– Ra quyết định và đề xuất ý kiến, giải pháp: Đưa ra được quyết định xử lí cho vấn đề đã tìm hiểu; đề xuất được ý kiến khuyến nghị vận dụng kết quả tìm hiểu, nghiên cứu, hoặc vấn đề nghiên cứu tiếp.

c) Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học

Vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học trong một số trường hợp đơn giản, bước đầu sử dụng toán học như một ngôn ngữ và công cụ để giải quyết được vấn đề; biểu hiện cụ thể là:

– Giải thích, chứng minh được một vấn đề thực tiễn.

– Đánh giá, phản biện được ảnh hưởng của một vấn đề thực tiễn.

– Thiết kế được mô hình, lập được kế hoạch, đề xuất và thực hiện được một số phương pháp hay biện pháp mới.

– Nêu được giải pháp và thực hiện được một số giải pháp để bảo vệ thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu; có hành vi, thái độ hợp lí nhằm phát triển bền vững.

2. Nội dung và yêu cầu cần đạt ở từng lớp LỚP 10

1. Nội dung khái quát

CÁC CHUYÊN ĐỀ LỚP 10

Sơ lược về sự phát triển của vật lí học

+ Nêu được sơ lược sự ra đời và những thành tựu ban đầu của vật lí thực nghiệm.

+ Nêu được sơ lược vai trò của cơ học Newton đối với sự phát triển của Vật lí học.

+ Liệt kê được một số nhánh nghiên cứu chính của vật lí cổ điển.

+ Nêu được sự khủng hoảng của vật lí cuối thế kỉ XIX, tiền đề cho sự ra đời của vật lí hiện đại.

+ Liệt kê được một số lĩnh vực chính của vật lí hiện đại.

Vật lí với giáo dục bảo vệ môi trường

+ Tác động của việc sử dụng năng lượng hiện nay đối với môi trường, kinh tế và khí hậu Việt Nam.

+ Sơ lược về các chất ô nhiễm trong nhiên liệu hoá thạch, mưa axit, năng lượng hạt nhân, sự suy giảm tầng ozon, sự biến đổi khí hậu.

+ Phân loại năng lượng hoá thạch và năng lượng tái tạo.

+ Vai trò của năng lượng tái tạo.

+ Một số công nghệ cơ bản để thu được năng lượng tái tạo.

LỚP 11

CÁC CHUYÊN ĐỀ LỚP 11

Chương Trình Môn Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Có Gì Mới?

Tích hợp ở giai đoạn giáo dục cơ bản, phân hóa ở THPT

Theo chúng tôi Nguyễn Văn Khánh, Chủ biên chương trình môn Vật lý, chương trình mônVật lý được phân bố ở cả ba cấp học với các mức độ khác nhau, thông qua các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (Trung học cơ sở); Vật lý (trung học phổ thông).

Các phương pháp giáo dục của môn Vật lý góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nhằm hình thành năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ vật lý (năng lực vật lý) cũng như góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực chung được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.

Chương trình coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống; vừa bảo đảm phát triển năng lực trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể.

Sách giáo khoa phải thể hiện được tinh thần đổi mới

Trong nội dung, hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá phát triển năng lực học sinh, chương trình tạo điều kiện để chú trọng tập trung đánh giá các thành phần của năng lực vật lý. Bên cạnh đánh giá kiến thức, coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm, các kỹ năng thực hành và năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn.

Do hình thức trắc nghiệm khách quan không phù hợp cho đánh giá kỹ năng thực hành nên chương trình quan tâm hợp lý đến việc sử dụng cách đánh giá qua các sản phẩm thực hành của học sinh (ví dụ sản phẩm của các dự án học tập) cũng như các đánh giá mang tính tích hợp (ví dụ STEM).

Chương trình có cấu trúc nội dung cũng như yêu cầu cần đạt về cơ bản là giống nhau cho tất cả các vùng, miền. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện những kỹ năng cơ bản trong tìm tòi, khám phá đối tượng vật lý, giáo viên có thể chủ động tổ chức cho học sinh hoạt động trải nghiệm và thực hành một số nội dung mang sắc thái riêng của địa phương mình.

Chương trình có định hướng phát triển năng lực và định hướng dạy học phân hóa. Do vậy, sách giáo khoa phải được biên soạn có cấu trúc thể hiện rõ yêu cầu cần đạt ở những mức độ khác nhau (theo thang nhận thức và mức độ kỹ năng) hướng tới phát triển phẩm chất và năng lực đã được đề cập trong chương trình và phải tạo cho người dạy thuận tiện trong việc tổ chức dạy học cho các đối tượng khác nhau.

Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới

ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC VẬT LÝ TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI

Thứ năm – 10/08/2023 01:09

 

 

 

Trong thời đại ngày nay, thế giới đang có sự biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Thành quả của các cuộc cách mạng công nghiệp, nhất là cuộc cách mạng lần thứ tư, đang mang lại những cơ hội phát triển nhanh chóng và cũng đặt ra những thách thức không nhỏ, nhất là đối với các nước còn chậm phát triển. Mặt khác, môi trường sống tự nhiên cũng như xã hội của con người đang biến đổi nhanh chóng.

logo HVL anh nen

Chúng ta đang chứng kiến những biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt; ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trầm trọng; chính trị, xã hội đang có nhiều biến động. Đứng trước những thách thức của thời đại, không có con đường phát triển nào tốt hơn là con đường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội để bảo đảm phát triển bền vững. Thách thức của thời đại buộc phải đổi mới giáo dục, đó là nhu cầu cấp thiết và là xu thế tất yếu toàn cầu. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới được quy định rõ trong Nghị quyết 88/2014/ QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của moi học sinh”. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, “chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp người học phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới” [2]. Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu tối thượng của giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng là phát triển năng lực của con người. Biểu hiện của năng lực là kỹ năng giải quyết một tình huống có ý nghĩa, chứ không phải ở việc tiếp thụ một lượng tri thức rời rạc. Để có thể “góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh” thì việc dạy học tích hợp là một cách thức rất hữu hiệu. Vì thế, tuân theo xu thế phát triển của giáo dục thế giới và điều kiện Việt Nam, bên cạnh việc sử dụng những cách thức giáo dục khác, chương trình giáo dục phổ thông mới đã có những bước đi ban đầu về dạy học tích hợp. Là một chương trình môn học của Chương trình giáo dục phổ thông, ^ chương trình môn Vật lý quán triệt đầy đủ quan điểm phát triển, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông dưới góc độ vật lý. Nội dung giáo dục vật lý được phân bố ở cả hai giai đoạn giáo dục, với các mức độ khác nhau. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản được thực hiện qua môn Tìm hiểu tự nhiên (cấp Tiểu học) và môn Khoa học tự nhiên (cấp Trung học cơ sở). Ở giai đoạn giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua môn Vật lý (cấp Trung học phổ thông). Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, thông qua môn Khoa học tự nhiên, giáo dục vật lý giúp học sinh hình thành một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên lý cơ bản của thế giới tự nhiên, góp phần vào việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh, làm nền tảng cho việc học tập ở các mức độ tiếp theo hoặc có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Ngoài việc góp phần cùng với các môn học khác để phát triển các năng lực chung, môn học này còn nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực chuyên môn: i) nhận thức kiến thức khoa học tự nhiên, ii) tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên, iii) vận dụng kiến thức khoa học tự nhiên vào thực tiễn, iv) ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc chú trọng xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực, chương trình môn học cũng tính đến điều kiện cơ sở trang thiết bị và đặc biệt là tính đặc thù của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở nên việc tích hợp được thực hiện sao cho các mạch nội dung được cấu trúc một cách khoa học, đồng thời đảm bảo thuận tiện cho việc tổ chức dạy học. Vì thế, chương trình đã được thiết kế để có thể soạn sách giáo khoa, hay bài giảng của giáo viên được thuận tiện cho mỗi phân môn Vật lý, Hóa học và Sinh học. Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, ở cả ba lớp: 10, 11 và 12, Vật lý là môn học độc lập, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Nội dung môn học được thiết kế thành các bài học và các chuyên đề để vừa bảo đảm phát triển tri thức và kỹ năng thực hành trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông góp phần giúp học sinh củng cố vững chắc các phẩm chất, kỹ năng phổ thông cốt lõi, hoàn thiện dần các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học. Trên cơ sở nội dung nền tảng đã trang bị cho học sinh trong giai đoạn giáo dục cơ bản, chương trình lựa chọn phát triển những vấn đề thiết thực nhất, mang tính ứng dụng cao đối với học sinh trong việc định hướng ngành nghề sau khi hoàn thành Trung học phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông một mặt kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành và mặt khác, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, đồng thời tiếp cận được với những thành tựu của khoa học giáo dục và khoa học Vật lý phù hợp với trình độ nhận thức và tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông gắn lý thuyết với thực hành, gắn nội dung môn học với thực tiễn nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Do những yêu cầu khách quan nói trên nên cấu trúc nội dung chương trình môn Vật lý có những thay đổi so với cấu trúc chương trình môn Vật lý hiện hành. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông chú trọng đến việc đổi mới phương pháp giáo dục, nhằm góp phần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh học môn Vật lý. Như chúng ta đã biết, mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đạt chuẩn của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, hoạt động quản lý và phát triển chương trình, nhằm bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định trong chương trình tổng thể và chương trình môn học. Phạm vi đánh giá bao gồm toàn bộ các môn học mà học sinh học. Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế. Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong nhóm, trong lớp. Việc đánh giá định kỳ do cơ sở giáo dục tổ chức. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục. Phương thức đánh giá bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình học sinh và xã hội. Ở Việt Nam, sự thành bại của một chương trình giáo dục phụ thuộc rất mạnh vào việc quan niệm và tổ chức các “kỳ thi”. Chính các “kỳ thi” hiểu không đúng đã góp phần làm méo mó các mục tiêu của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục ở nước ta. Nếu không trả lại đúng ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá thì các đổi mới trong giáo dục rất khó đạt được mục tiêu mong muốn.

 

Tác giả bài viết: PGS. TS Nguyễn Văn Khánh

Nguồn tin: Hội Vật Lý

Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới Môn Vật Lí Của Bộ Gd&Đt

Chương trình giáo dục phổ thông mới môn Vật lí

Vật lí học là ngành khoa học nghiên cứu các dạng vận động đơn giản, tổng quát nhất của vật chất và tương tác giữa chúng.

Trong nhà trường phổ thông, giáo dục vật lí được thực hiện ở cả ba cấp học với các mức độ khác nhau.

Ở giai đoạn giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở), nội dung giáo dục vật lí được đề cập trong các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2, lớp 3); Khoa học (lớp 4, lớp 5); Khoa học tự nhiên (từ lớp 6 đến lớp 9).

Chương trình môn Vật lí lựa chọn phát triển những vấn đề cốt lõi thiết thực nhất, đồng thời chú trọng đến các vấn đề mang tính ứng dụng cao là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật, khoa học và công nghệ.

Thí nghiệm, thực hành đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành khái niệm, quy luật, định luật vật lí. Vì vậy, Chương trình môn Vật lí chú trọng rèn luyện cho học sinh khả năng tìm hiểu các thuộc tính của đối tượng vật lí thông qua các nội dung thí nghiệm, thực hành dưới các góc độ khác nhau.

Chương trình môn Vật lí coi trọng việc rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống; vừa bảo đảm phát triển năng lực vật lí – biểu hiện của năng lực khoa học tự nhiên, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp của học sinh.

Cùng với các môn học và hoạt động giáo dục khác, giúp học sinh hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được quy định trong Chương trình tổng thể.Giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực vật lí, với các biểu hiện sau: III. MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH

1. 2. a) Có được những kiến thức, kĩ năng phổ thông cốt lõi về: mô hình hệ vật lí; năng lượng và sóng; lực và trường; b) Vận dụng được một số kĩ năng tiến trình khoa học để khám phá, giải quyết vấn đề dưới góc độ vật lí; c) Vận dụng được một số kiến thức, kĩ năng trong thực tiễn, ứng xử với thiên nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường; d) Nhận biết được năng lực, sở trường của bản thân, định hướng được nghề nghiệp và có kế hoạch học tập, rèn luyện đáp ứng yêu cầu của định hướng nghề nghiệp.

Giáo Dục Stem Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới

Theo chúng tôi Lê Huy Hoàng, thành viên Ban Phát triển CT GDPT Tổng thể, Chủ biên CT môn Công nghệ cho biết, ở cấp độ chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục STEM vừa mang nghĩa thúc đẩy giáo dục các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, vừa thể hiện phương pháp tiếp cận liên môn, phát triển năng lực và phẩm chất người học.

Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, giáo dục STEM đã được chú trọng thông qua các biểu hiện: Chương trình giáo dục phổ thông mới có đầy đủ các môn học STEM. Đó là các môn Toán học; Khoa học tự nhiên; Công nghệ; Tin học.

Vị trí, vai trò của giáo dục tin học và giáo dục công nghệ trong chương trình giáo dục phổ thông mới đã được nâng cao rõ rệt. Điều này không chỉ thể hiện rõ tư tưởng giáo dục STEM mà còn là sự điều chỉnh kịp thời của giáo dục phổ thông trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia giáo dục, nhà quản lí và các trường phổ thông.

Ngoài ra, các chuyên đề dạy học về giáo dục STEM ở lớp 11, 12 dự kiến là các hoạt động trải nghiệm dưới hình thức câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, trong đó có các hoạt động nghiên cứu STEM; Tính mở của chương trình cho phép một số nội dung giáo dục STEM có thể được xây dựng thông qua chương trình địa phương, kế hoạch giáo dục nhà trường; qua những chương trình, hoạt động STEM được triển khai, tổ chức thông qua hoạt động xã hội hóa giáo dục.

Tuy nhiên, để triển khai thực tiễn thì theo PGS. Hoàng cần các điều kiện về cơ sở vật chất như Phòng học bộ môn; hình thành hệ thống các không gian sáng chế (Makerspaces); Về con người: Phải được chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy công nghệ; Kết nối các nhà khoa học ở các trường Đại học, Cao đẳng với các hoạt động giáo dục STEM ở trường phổ thông.

Trao đổi thêm với các chuyên gia, GS. TSKH Đỗ Đức Thái, thành viên Ban Phát triển CT GDPT tổng thể, Chủ biên CT môn Toán cho biết, khi áp dụng STEM, chúng ta được nhiều thứ.

Thứ nhất, giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.

Thứ ba, giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết.

Các trường học mong muốn gì?

Là đơn vị đào tạo giáo viên, thầy Lê Xuân Quang, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng, con đường giáo dục STEM cho học sinh trong chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ có một số lưu ý. Cụ thể, giáo dục STEM thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cần hướng tới việc cung cấp cho học sinh các tình huống, bối cảnh đa dạng và phong phú đòi hỏi sự phát triển, vận dụng nhiều tri thức kĩ năng, cho phép học sinh tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề theo các cách khác nhau nhằm đạt được kết quả tốt hơn; cung cấp cho học sinh cơ hội sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.

GS. TSKH Đỗ Đức Thái tham gia trao đổi tại Hội thảo.

“Với nội dung, kết cấu của chương trình tổng thể có thể thấy giáo dục STEM sẽ có nhiều không gian, thời gian để triển khai. Về bản chất giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ là một cách tiếp cận liên ngành trong dạy học các môn Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán nhằm tạo cơ hội cho học sinh kết nối những kiến thức được học với những vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Giúp học sinh có thể đưa ra các giải pháp sáng tạo khi có cơ hội áp dụng những kiến thức được học, giúp học snih có những suy nghĩ rộng hơn về những tình huống hay vấn đề nhất định” thầy Quang cho hay.

Theo bà Phạm Thị Minh An, Hiệu trưởng Trường Olympia (Hà Nội), sau 2 năm câu lạc bộ STEM được triển khai tại trường đã mang lại nhiều kết quả tốt. Hoạt động hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học thu được thành quả đáng khích lệ. Năm học 2023-2023 có 10 đề tài tham gia vòng chung kết và tham gia trưng bày, báo cáo sản phẩm thuộc nhiều lĩnh vực STEM.

“Qua những năm đầu triển khai, đội ngũ giáo viên của trường đã tích lũy ít nhiều kinh nghiệm về dạy học theo định hướng STEM. Song song với đó, các giáo viên cũng rất tích cực chia sẻ kinh nghiệm và tập huấn lẫn nhau để nâng cao năng lực và nhân rộng các hoạt động này. Sự tham gia của học sinh trong các giờ học được tổ chức theo định hướng STEM cũng cho thấy sự hứng thú, tích cực và chủ động hơn. Nhờ đó hiệu quả học tập được nâng cao” bà An cho biết.

Ngoài ra, cần tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ từ các cấp lãnh đạo, trường đại học, Viện nghiên cứu, trung tâm giáo dục STEM….và các đơn vị bạn. Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học.

Đại diện Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định cũng đề nghị, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần hỗ trợ nguồn sách khoa học về STEM cho cả giáo viên và học sinh. Tăng cường đào tạo với chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm về STEM cho giáo viên. Có cơ chế ghi nhận cho giáo viên và học sinh có kĩ năng, kiến thức, đóng góp trong lĩnh vực…

Sau một ngày, Hội thảo đã lắng nghe nhiều ý kiến để tiếp tục hoàn thiện nội dung, hình thức của giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông mới.

Cập nhật thông tin chi tiết về 8 Đặc Điểm Của Môn Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!