Bạn đang xem bài viết 5 Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chiến Lược Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1. Sự cạnh tranh giữa các đối thủ
Tính chất và mức độ cạnh tranh được quyết định phần lớn là bởi đối thủ cạnh tranh trong ngành của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có sản phẩm, dịch vụ tốt hơn chắc chắn sẽ giành giật được lợi thế cao hơn, đồng thời phát triển thị phần hiện có với mức lợi nhuận cao nhất.
Một số những hình thức hay công cụ cạnh tranh phổ biến mà các đối thủ trong ngành hay sử dụng như: cạnh tranh giá cả, chất lượng sản phẩm. Thực tế cũng chỉ ra rằng, các đối thủ trong cùng một ngành luôn sử dụng những công cụ cạnh tranh tổng hợp, đó là sự kết hợp giữa cạnh tranh về giá cả, ưu điểm riêng khác biệt của sản phẩm, chiến lược bán hàng và tiếp cận khách hàng…
2. Nguy cơ đe doạ nhập ngành từ đối thủ
Hiểu rõ những đối thủ của mình đang làm gì, có điểm mạnh như thế nào luôn mang một ý nghĩa quan trọng cho chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với những đối thủ mạnh hơn, có khả năng chiếm lĩnh thị phần và mở rộng sản xuất. Những đối thủ lớn này chính là nguyên nhân lớn cho doanh nghiệp phải vạch ra những kế hoạch sẵn sàng ứng phó với thị trường cạnh tranh luôn trong tình trạng khốc liệt và thường xuyên thay đổi.
Để chiến lược cạnh tranh không rơi vào “bế tắc”, giúp doanh nghiệp hạn chế dduwwojc sự đe dọa của các đối thủ, doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến nhiệm vụ nâng cao các hàng rào bảo vệ hợp pháp, tập trung đặc biệt vào phát triển công nghệ phục vụ cho haotj động sản xuất, kinh doanh.
Xu hướng hội nhật kinh tế thế giới hiện nay, nhiều doanh nghiệp xuyên quốc gia, doanh nghiệp nước ngoài với tiềm lực kinh tế và công nghệ lớn mạnh đang trở thành đối thủ cực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước, nhất là những doanh nghiệp có khả năng tài chính hạn hẹp và ít có cơ hội cạnh tranh.
3. Khả năng thương lượng hay ép giá của người mua
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chỉ thực sự có ý nghĩa khi sản phẩm, dịch được khách hàng tiêu thụ và có lãi. Do đó, sự hài lòng, niềm tin của khách hàng khi sử dụng sản phẩm là điều vô cùng giá trị với doanh nghiệp. Và để có được sự tín nhiệm từ khách hàng, doanh nghiệp cần làm thật tốt quy trình nghiên cứu đối tượng khách hàng, thỏa mãn được nhu cầu và thói quen của họ khi tiêu dùng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Một thực tế khách quan chỉ ra rằng, người mua luôn có xu hướng muốn trả giá thấp hơn so với giá mà doanh nghiệp đưa ra, nhiều khi dẫn tới tình trạng ép giá, gây áp lực lớn đối với doanh nghiệp. Nếu vừa đảm bảo hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt, giá thành rẻ thì ít nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế cho nên, để hạn chế bớt sức ép về giá cả, thương lượng của khách hàng, doanh nghiệp nên phân loại khách hàng của mình tùy theo mức độ nhu cầu và thị hiếu của họ. Đây cũng là cơ sở nhằm định hướng cho các chiến lược kinh doanh, marketing, chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp trong các giai đoạn tiếp theo.
4. Khả năng thương lượng hay ép giá của người cung ứng
Nhà cung cấp hay những người cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản phẩm, dịch vụ luôn muốn thu về nhiều lợi nhuận cho mình, điều này kéo theo việc họ có thể quyết định tăng giá hay giảm chất lượng nguyên liệu mà doanh nghiệp đặt mua và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Mặt khác, doanh nghiệp luôn phải sẵn sàng ứng phó với sự cạnh tranh từ ngay trong chính nội bộ của mình: từ lực lượng lao động, những nhân sự có năng lực và trình độ cao luôn mong muốn được nhận nhiều quyền lợi trong tổ chức. Thách thức cho doanh nghiệp đó chính là chính sách nào giúp thu hút và giữa chân những nhân sự giỏi, những người là tiền đề quan trọng cho sự phát triển, thành công của doanh nghiệp.
5. Sự đe dọa từ các sản phẩm thay thế
Để sản phẩm, dịch vụ luôn được tối ưu về chất lượng, đem tới cho khách hàng những trải nghiệm tốt nhất có thể khi sử dụng,…doanh nghiệp cần có những sự đổi mới và tải tiến. Điều này có thể giúp cho doanh nghiệp chiếm ưu thế về chất lượng trên thị trường, tuy nhiên vẫn có những sự đe dọa nhất định từ các sản phẩm thay thế đó là giá thành phải cao hơn. Vì vậy, biện pháp để hạn chế điều này đó là doanh nghiệp cần cân nhắc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để giảm thiểu giá thành và đồng thời tăng cường những đặc tính nổi trội, chất lượng sản phẩm để thu hút khách hàng quan tâm.
Nâng Cao Lợi Thế Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Với 3 Chiến Lược Kinh Điển
Một doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh tốt phải nắm rõ được lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Vậy lợi thế cạnh tranh là gì ? Ảnh hưởng của nó đến hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay như thế nào ? Và làm thế nào để nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp ?
LỢI THẾ CẠNH TRANH LÀ GÌ ?
Lợi thế cạnh tranh là những gì làm cho doanh nghiệp nổi bật, trong khi các đối thủ cạnh tranh khác lại không làm được điều này. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ hoạt động tốt hơn so với những doanh nghiệp khác. Đây là yếu tố cần thiết phải có giúp công ty ngày thành công và tồn tại lâu dài, khác biệt so với đối thủ cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh tồn tại trong doanh nghiệp sẽ mang lại những lợi ích như lợi thế về chi phí, mang lại lợi ích vượt xa với các sản phẩm phẩm tranh tranh. Vây có thể thấy, yếu tố này giúp công ty cung cấp giá trị cao cho khách hàng. Từ đó, tạo ra lợi nhuận lớn hơn cho chính công ty.
Có thể thấy, công ty sử dụng nguồn lực và khả năng của nó sẽ tạo ra một lợi thế cạnh tranh và mang lại giá trị vượt trội. Với hai lợi thế chi phí và lợi thế khác biệt – đây là những ưu thế công ty vì nó mô tả vị trí đúng của công ty trong ngành cả về chi phí lẫn sự khác biệt.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH ?
Tập trung vào các nhân tố then chốt để giành thắng lợi
Để doanh nghiệp giành lợi thế cạnh tranh so với đối thủ thì trước hết doanh nghiệp phải tìm ra các lĩnh vực, nhân tố then chốt. Đây là các yếu tố đóng vai trò quyết định đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó giành lợi thế chiến lược hơn các đối thủ.
Dựa vào phát huy ưu thế tương đối
Chiến lược kinh doanh được dựa vào lợi thế so sánh tuyệt đối trong sản xuất và dịch vụ so với các đối thủ cạnh tranh. Nhờ đó, tìm ra sự khác biệt, điểm mạnh của mình để xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả. Với ưu thế về các mặt sau: Chủng loại, chất lượng, giá bán sản phẩm, kỹ thuật công nghệ, hệ thống tiêu thụ. Từ đó, doanh nghiệp xây dựng ưu thế so với đối thủ cách tranh.
Dựa trên yếu tố sáng tạo
Để kinh doanh đột phá, doanh nghiệp phải có các nhân tố đốt phá, sáng tạo trong công nghệ. Đồng thời, chấp nhận thách thức, rủi ro sẽ mang lại những thành công bất ngờ.
Dựa trên nền tảng khai thác khả năng của nhân tố bao quanh yếu tố then chốt
Để chiếm được lợi thế, doanh nghiệp cần lựa chọn các nhân tố then chốt nhằm cải tiến sản phẩm, dịch vụ tạo ra ưu thế với đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, để đạt được lợi thế đó, doanh nghiệp phải có chi phí cho một sản phẩm thấp hơn đối thủ. Làm thế nào, sản phẩm của mình khác biệt để có thể tính giá cao hơn ?
Bên cạnh đó, để khách hàng trả giá cao hơn sản phẩm của đối thủ thì chắc chắn sản phẩm của mình phải cạnh trạnh hơn trên một phương diện nào đó như: chất lượng, thời gian cung ứng, dịch vụ khi bán hàng, dịch vụ hỗ trợ…
Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải làm tốt trên cách phương diện: hiệu quả, chất lượng, đổi mới nhanh, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Đây là cách cơ bản cắt giảm chi phí và đa dạng hóa sản phẩm.
Có thể thấy, lợi thế cạnh tranh đóng một vai trò vô cùng quan trọng cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mới thành lập. Chính vì lẽ đó, doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ cũng như có kế hoạch rõ ràng trong việc hoạch định lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp mình.
3 CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH KINH ĐIỂN MÀ NHÀ QUẢN TRỊ NÀO CŨNG PHẢI BIẾT
Chiến lược cạnh tranh khác biệt hóa
Xác định một thuộc tính hoặc đặc tính làm cho sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn trở nên độc đáo là yếu tố lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp và là yếu tố thúc đẩy trong chiến lược khác biệt hóa.Nếu doanh nghiệp của bạn có thể phân biệt sản phẩm hoặc dịch vụ của mình trong suy nghĩ của người mua, doanh nghiệp có thể gặt hái những phần thưởng về doanh số cao hơn dựa trên giá trị cảm nhận mà doanh nghiệp của bạn cung cấp, vượt qua các đối thủ trên thị trường. Đây là một trong những chiến lược cạnh tranh có thể mang lại hiệu quả lâu dài cho doanh nghiệp. Từ sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp có thể xây dựng nên sự khác biệt cho thương hiệu, đặc trưng của công ty khiến khách hàng nhớ tới.Mặc dù vậy, doanh nghiệp luôn cần phải luôn cập nhật xu hướng ngành và nhu cầu của người tiêu dùng để duy trì sự khác biệt, tránh việc sản phẩm đã lỗi thời hoặc có sự sao chép từ đối thủ cạnh tranh.
Chiến lược cạnh tranh về giá
Chiến lược cạnh tranh về giá là chiến lược mà doanh nghiệp nhắm đến một phân khúc thị trường rất cụ thể và cung cấp cho thị trường mức giá thấp nhất có thể. Chiến lược cạnh tranh này giúp cho doanh nghiệp có được lợi nhuận cao từ việc có được chi phí thấp, giảm sự gia nhập từ các sản phẩm thay thế. Để đạt được điều này, doanh nghiệp cần có chi phí sản xuất thấp, bán được lượng hàng lớn, thị phần cao.
Ví dụ, một công ty bán đồ uống cung cấp năng lượng có thể nhắm mục tiêu đến một thành phố có nhiều người tập luyện các môn thể thao và bán những đồ uống đó với giá thấp hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh. Việc phân khúc thị trường này có nhiều khả năng mua nước tăng lực là yếu tố chính khiến công ty quyết định giảm giá sẽ là lợi thế.Tuy nhiên, sự thay đổi về mặt công nghệ nhanh chóng ngày nay có thể khiến việc cắt giảm chi phí không thể vững bền trong một thời gian dài, lạm dụng giá cả có thể khiến doanh nghiệp bị thua lỗ và thất bại vậy nên doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ trước khi lựa chọn chiến lược cạnh tranh này.
Chiến lược tập trung
Chiến lược tập trung nhắm đến một phân khúc thị trường rất cụ thể, mục tiêu và nhóm khách hàng mục tiêu thay vì tập trung vào nhiều nhóm đối tượng khách hàng. Giống như chiến lược cạnh tranh về giá, chiến lược tập trung vào sự khác biệt nhắm đến một phân khúc thị trường rất cụ thể, nhưng thay vì đưa ra mức giá thấp nhất cho người mua ở thị trường đó, một doanh nghiệp cung cấp một thứ độc đáo mà các đối thủ cạnh tranh không cung cấp. Điều này cũng giúp doanh nghiệp đạt được chi phí thấp nhưng lại mang được sự khác biệt cao tới khách hàng.
Ví dụ, một cửa hàng bán quần áo cho những người vóc dáng nhỏ, cao từ 1 mét rưỡi trở xuống sẽ theo đuổi chiến lược tập trung vào sự khác biệt bằng cách phục vụ cho một phân khúc rất hẹp thay vì phải sản xuất nhắm tới các khách hàng ở nhiều vóc dáng. Thay vì chi tiền vào việc may quần áo cho mọi người, cửa hàng sẽ có thể tập trung vào việc thiết kế quần áo chỉ phù hợp với người mua có vóc dáng nhỏ, điều này vừa tạo ra chiến thuật cạnh tranh khác biệt lại tối ưu hóa chi phí sản xuất.Điểm yếu của chiến lược cạnh tranh tập trung cũng chính là ở việc thu hẹp thị trường, các đối thủ khác có thể tìm kiếm và tập trung tốt hơn vào thị trường nhỏ bên trong của thị trường tập trung của doanh nghiệp.
Công ty Cổ Phần Phát Triển Open End
Địa chỉ: Tầng 14, tòa nhà HM Tower, 412 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh
SĐT: 0938 838 493
Email: info@openend.vn
Website: OpenEnd.vn
Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chức Năng Của Nhà Nước Đương Đại (Phần 2)
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯƠNG ĐẠI (Phần 2)
Nguyễn Thị Thu Na
Bản chất nhà nước quy định chức năng nhà nước, nhưng thức tế còn có những yếu tố khác tác động đến chức năng nhà nước. Những yếu tố làm cho chức năng của nhà nước đương đại trở nên đa dạng, phức tạp tạo ra những sắc thái riêng của mội nhà nước cụ thể là những yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan, yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại, yếu tố nội sinh, yếu tố ngoại sinh,..nhưng có những yếu tố diển hình tác động trực tiếp đến chức năng, để lại dấu ấn đậm nét trong các lĩnh vực hoạt động của các nhà nước.
2.1. Các yếu tố bên trong:
2.1.1 Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kinh tế trong xã hội – Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là công cụ lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế là những nhân tố ảnh không nhỏ đến chức năng nhà nước. Mỗi bước phát triển của đời sống kinh tế lại đặt ra yêu cầu mới có tính xác định cụ thể với bộ máy nhà nước. Từ đó, chức năng nhà nước cũng có sự biến đổi, đòi hỏi cần phải có nhận thức mới đầy đủ hơn về nó.
Ví dụ, ở Việt Nam, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ lao động ngày càng tăng, dẫn đến số lượng sản phẩm càng nhiều, nền kinh tế đi lên để phù hợp với lực lượng sản xuất, đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách, chủ trương, cơ chế mới để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng với giai đoạn hiện tại.
Chức năng kinh tế là một trong những chức năng quan trọng nhất của nhà nước và được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong tổ chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu vật chất của người dân, nhà nước và của toàn xã hội.
Tổ chức, điều tiết, quản lý kinh tế là nhiệm vụ xuyên suốt của nhà nước trong mọi thời kỳ phát triển của lịch sử. Dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau, như: bản chất nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, trình độ nhận thức… các hình thức, phương thức thực hiện, mục đích thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước có thể khác nhau. Nhưng, ngay từ khi ra đời cho đến nay, sự tham gia của nhà nước vào các hoạt động kinh tế luôn có tính tất yếu, khách quan. Không thể có một nhà nước tồn tại tách biệt khỏi điều kiện cơ sở vật chất của xã hội. Cũng không thể có một xã hội có sự quản lý của nhà nước mà nền kinh tế lại đặt ra ngoài hoạt động của nhà nước. Ngay từ những bộ cổ luật đầu tiên của thế giới nhân loại đã biết đến các hình thức hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất, những quy định về thừa kế, quyền sở hữu nô lệ, quyền sở hữu ruộng đất của chủ nô cũng như của các giai cấp thống trị trong việc bảo vệ tư liệu sản xuất, tài sản của mình. Còn ở các nhà nước hiện đại, không thể thiếu những quy định của pháp luật về thị trường tài chính, về tổ chức và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, về hoạt động thương mại, về đăng ký, thành lập doanh nghiệp…
Trong lịch sử cũng đã tồn tại quan điểm cho rằng, sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế là không cần thiết. Theo thuyết “Bàn tay vô hình”, sẽ tốt hơn nếu thị trường tự quyết định, tự điều chỉnh theo chính nhu cầu vốn có của nó mà không cần có sự can thiệp của nhà nước. Nhưng, thực tế lịch sử cho thấy, thiếu sự điều tiết của nhà nước nền kinh tế dễ bị tổn thương như thế nào. Nhưng ngay cả khi áp dụng lý thuyết này, nhà nước vẫn không đứng ngoài cuộc. Vai trò điều tiết của nhà nước lúc này là thông qua những quy định pháp lý về sự tự do hóa nền kinh tế, mở cửa thị trường, những quy định về các loại hình công ty, thương hội
2.1.2. Cơ cấu – phân tầng xã hội, mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội
Yếu tố này xuất phát từ sự ảnh hưởng của bản chất Nhà nước (tính xã hội) đến chức năng nhà nước và ảnh hưởng lớn đến chức năng Nhà nước. Cơ cấu phân tầng của xã hội càng phức tạp, tức xã hội càng nhiều giai cấp, thì nhà nước càng cần phát triển các chức năng để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội về kinh tế chính trị, xã hội…là cơ sở để nhà nước phát triển các chức năng của mình nhằm đảm bảo tính giai cấp và tính xã hội của Nhà nước.
Khi nghiên cứu nguồn gốc Nhà nước ta thấy rằng nhà nước xuất hiện do 2 nguyên nhân: nguyên nhân kinh tế (sự xuất hiện chế độ tư hữu) và nguyên nhân xã hội (sự xuất hiện của giai cấp và mâu thuẫn giai cấp). Căn cứ vào đó có thể thấy bản chất nhà nước được thể hiện ở hai mặt, đó là tính giai cấp của nhà nước và vai trò xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác đều thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và quyền lực tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, là cơ sở để bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế co ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả năng có thể bắt những người bị bóc lột phải phụ thuộc về mặt kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. VÌ vậy, cần phải có nhà nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Tuy nhiên, với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực công cộng nhằm duy trì trật tự và sự ổn định của xã hội, nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội của nó. Trong bất kỳ nhà nước nào, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước cũng phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải quyết những vấn đề mà đời sống xã hội đặt ra. Chẳng hạn: bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng và thực hiện hệ thống an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, chống thiên tai, dịch bệnh…
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
So với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp, nhà nước có một số đặc điểm riêng sau đây:
+ Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt không hòa nhập với dân cư
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng.
Khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực này, nhà nước hình thành một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục vụ ý chí của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực công cộng đặc biệt này đã tách khỏi xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc và chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Công cuộc đổi mới đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tạo ra những tiền đề và đòi hỏi đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Ví dụ, nhà nước chủ nô tồn tại hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ với mâu thuẫn giai cấp hết sức gay gắt nên một trong các chức năng nhà nước là duy trì sự thống của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ. Đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn sự bóc lột giữa các giai cấp. Chức năng nhà nước là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, thực hiện công bằng xã hội, giải quyết hài hòa các lợi ích giữa nhà nước, cá nhân và cộng đồng.
2.1.3. Trình độ và trách nhiệm của các nhà chính trị, bộ máy nhà nước
Trình độ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phán đoán và phương pháp giải quyết công việc. Trách nhiệm ảnh hưởng đến tính thần, ý thức làm việc,…của chủ thể. Trình độ và trách nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có trình độ giúp các nhà chính trị nhận thức và hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình. Ngược lại trách nhiệm giúp nâng cao tinh thần tự giác học tập, rèn luyện để phát triển trìnhđộ, qua đó thực hiện công việc đặt ra nhanh chóng và đạt hiệu quả cao hơn. Hiện nay trong bộ máy nước Việt Nam còn tồn tại một bộ phận cán bộ nhà nước có trình độ hiểu biết kém, vô trách nhiệm…đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, khả năng thực hiện chức năng của nhà nước.
Hoạt động của bộ máy công chức có ý nghĩa quyết định đến kết quả bộ máy nhà nước. Trong thời gian tiếp theo, cần tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với từng loại công chức giúp công chức có khả năng nắm vững các kiến thức chính trị, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, kiến thức hành chính, pháp luật, ngoại ngữ, tin học…đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
2.1.4. Lịch sử phát triển toàn dân tộc, truyền thống – văn hóa- tư tưởng
Mỗi nhà nước có một lịch sử ra đời và phát triển riêng dẫn đến việc có những chức năng khác nhau, phù hợp với nó. Ví dụ, ở kiểu Nhà nước chủ nô, đểbảo vệ quyền lợi về tư liệu sản xuất cũng như địa vị của chủ nô, ngăn cản sự nổi dậy của nô lệ …Nhà nước phải có chức năng trấn áp sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động bằng quân sự. Đến kiểu Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa ra đời, do thực hiện mục tiêu tất cả quyền lực thuộc về tay nhân dân, chức năng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và con người ra đời và được thể hiện trong Hiến pháp. Các yếu tố truyền thống – văn hóa – tư tưởng là nguồn gốc của một số chức năng nhà nước nhất định.
Ví dụ, ở Trung Quốc vua là thiên tử, có trách nhiệm “thế thiên hành đạo”, dân chúng luôn hết lòng phục vụ vua, coi vua là trung tâm. Điều này rất phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, dẫn đến việc duy trì sự thống trị về tư tưởng đối với quần chúng trở thành một chức năng của kiểu Nhà nước phong kiến, giúp Nhà nước quản lý và điều khiển quần chúng rất hiệu quả.
2.2. Yếu tố bên ngoài
Quyền con người, dân chủ hóa và toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhiều chức năng nhà nước.
Dựa trên việc thừa nhận quyền con người và xem xét nó trên mọi phương diện, các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế để đảm bảo cho người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất. Quá trình dân chủ hóa quốc gia diễn ra đòi hỏi các quốc gia phải có những chính sách, quy định đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa những người dân,phát huy quyền làm chủ của người dân… Trong thời đại ngày nay, khi toàn cầu hóa đã trở thành xu thế, sự hợp tác giữa các nước được thúc đẩy, các quá trình trao đổi, hợp tác kinh tế,tài chính,thương mại… giữa các quốc gia trở nên tích cực hơn,các nước chủ động và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền con người, dân chủ hóa và toàn cầu hóa góp phần đẩy mạnh sự thực hiện và phát triển toàn diện của các chức năng Nhà nước như: chính trị, kinh tế, đối ngoại…
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay, nước nào đứng ngoài xu thế này sẽ khó có thể phát triển được. Đối với những nước đang phát triển, nghèo nàn, lạc hậu thì hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một cơ hội tốt để thu hút nguồn vốn đầu tư, tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi trình độ quản lý hiện đại,… nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, Đảng ta chủ trương chủ động tham gia vào quá trình này.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay là hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn tới nhiều thành phần xã hội, tức cơ cấu giai tầng trong kinh tế thị trường sẽ đa dạng và phong phú hơn. Đa dạng về thành phần xã hội tất sẽ đa dạng về lợi ích và nhu cầu. Đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng và đa dạng của các thành phần trong xã hội thuộc về chức năng xã hội của nhà nước.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã nảy sinh những vấn đề xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải cấp bách giải quyết như: nạn thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho người sản xuất kinh doanh chân chính; các tệ nạn xã hội, tội phạm mang tính quốc tế gia tăng, ảnh hưởng môi trường xã hội; do điều kiện địa lý, các vùng sâu, vùng xa có nguy cơ tụt hậu vì không thu hút được đầu tư; do lợi nhuận chi phối nên những nhóm ngành nghề rất cần cho xã hội nhưng lợi nhuận thấp dễ bị bỏ rơi,v.v.. Những vấn đề đó đang đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội.
#1 Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Nội Dung Của Pháp Luật Việt Nam Hiện Nay
Trong sự phát triển tự nhiên của đời sống xã hội, bên cạnh những mối quan hệ cần thiết, có ích cho xã hội thì cũng luôn tồn tại những quan hệ không có ích, thậm chí có hai cho trật tự chung. Để duy trì ổn định, trật tự xã hội đòi hỏi các mối quan hệ trong xã hội phải được điều chỉnh, nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho các mối quan hệ có lợi cho cộng đồng được phát triển, ngăn chặn và xóa bỏ đi những mối quan hệ mà cộng đồng không mong muốn. Để làm được điều này thì cần có những công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ như: đạo đức, tín điều tôn giáo, pháp luật,… Ngày nay, pháp luật trở thành công cụ hàng đầu, quan trọng và có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, pháp luật cũng chịu ảnh hưởng của những yếu tố nhất định. Với đề tài ” Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung của Pháp luật Việt Nam hiện nay” tổng đài tư vấn pháp luật Luật Quang Huy chúng tôi sẽ tìm hiểu và giải quyết vấn đề như sau:
Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật hà Nội. Nxb. CAND, Hà Nội, 2013
Hiến pháp năm 2013
Định nghĩa pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, vì lợi ích của giai cấp thống trị và vì sự phát triển của toàn xã hội.
Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung của Pháp luật Việt Nam hiện nay
Điều kiện kinh tế, xã hội
Theo Mac: “Trong thời đại nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng các điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa ra lệnh cho các điều kiện kinh tế được, chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như về dân sự chỉ là cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của quan hệ kinh tế”, các chính sách và pháp luật của nhà nước , suy đến cùng chỉ là phản ánh nhu cầu thống trị về kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội. Pháp luật chủ nô ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở các quan hệ sản xuất chiếm hữu nô nệ mà trong đó, tư liệu sản xuất và cả người sản xuất đều thuộc sở hữu của chủ nô, do đó pháp luật chủ nô thể hiện ý chí của nhà nước chủ nô, là công cụ để chủ nô sử dụng để bảo vệ lợi ích củ chủ nô, chống lại nô lệ và những người lao động khác. Pháp luật phong kiến ra đời gắn liền với phương thức sản xuất phong kiến, với đặc trưng là sự chiếm hữu tư nhân của địa chủ về đất đai, do đó pháp luật phong kiến là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành nhằm hợp pháp hóa ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến, buộc các giai cấp khác làm theo. Đến khi pháp luật tư sản ra đời, do phương thức sản xuất có sự thay đổi: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường, vì vậy pháp luật phải thiết lập quyền tự do kinh doanh, tự do thương mại, hợp đồng, tự do cạnh tranh… Cũng như ba kiểu pháp luật trước, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng có nội dung do bản chất của quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa quy định. Được xây dựng và quy định bởi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đặc trưng bởi chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, do đó pháp luật xã hội chủ nghĩa có nội dung khác hoàn toàn với trước. Nội dung đó chủ yếu là những quy định đản bảo tính dân chủ, thể hiện ý chí nguyện 3 vọng của nhân dân, là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực của mình, là công cụ trong tay nhà nước xã hội chủ nghĩa để bảo vệ và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nên pháp luật của nước ta cũng phải phù hợp với nền kinh tế đó. Hiện nay, nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, thành phần kinh tế đa dạng, do đó hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng có nhiều sự thay đổi tích cực nhằm phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước như xác nhập hợp lí các thành phần kinh tế và các cơ chế quản lí kinh tế, các loại hình kinh doanh; tạo điều kiện phát triển đồng bộ, quản lí có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Đường lối chính sách của Đảng
Ví dụ: Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã ghi: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp; có văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Để thể chế hóa điều này, Hiến pháp năm 2013 của nước ta có những quy định rất rõ ràng về vai trò lãnh đạo của Đảng (Điều 4, Hiến pháp 2013), về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II, Hiến pháp 2013), kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục (Chương III, Hiến pháp 2013).
Các quan điểm, học thuyết, tư tưởng của các nhà khoa học
Hệ thống pháp luật của nước ta là do các nhà khoa học đầu ngành xây dựng nên, dó đó các học thuyết, quan điểm của các nhà khoa học có ảnh hưởng rất lớn đến nội dung của pháp luật Việt Nam hiện nay. Có thể kể đến những học thuyết, tư tưởng như:
Học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu với nội dung chính là phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh quyền: lập pháp giao cho Quốc hội, hành pháp giao cho Chính phủ (hoặc Nghị viện ở các nước tư bản), tư pháp giao cho tòa án.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng pháp luật xã hội chủ nghĩa, lấy dân làm gốc, quyền lực thuộc về nhân dân.
Đường lối, chính sách của Đảng mà kim chỉ nam là chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc áp dụng những học thuyết, tư tưởng này vào công việc xây dựng pháp luật của Việt Nam hiện nay luôn được thực hiện một cách linh hoạt, không áp đặt một cách máy móc. Ví dụ như với học thuyết tam quyền phân lập, nước ta đã kế thừa những hạt nhân hợp lí của học thuyết này vào việc xác lập chế độ chính trị: khoản 3, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Các phong tục, tập quán
Ngoài việc ban hành ra những luật mới, nhà nước còn thừa nhận những phong tục, tập quán có sẵn, phù hợp với ý chí của nhà nước thành pháp luật (tập quán pháp).
Phong tục tập quán là những gì đã quen thuộc, là những thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày, được mọi người công nhận và làm theo. Ở Việt Nam, các phong tục, tập quán được biểu hiện cụ thể ở từng nơi, tạo nên bản sắc rất riêng của từng vùng miền.
Với ưu điểm gần gũi với đời sồng cộng đồng , là những thói quen đã được hình thành từ lâu đời và được mọi người làm theo nên những phong tục tập quán được nâng lên thành pháp luật rất dễ đi vào đời sống, nhân dân cũng dễ dàng thực hiện hơn.
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay, có rất nhiều điều luật chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán như: Khoản 1 Điều 28 BLDS năm 2005, quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ”. Ngoài ra, vào dịp tết Nguyên Đán cổ truyền hoặc ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, học sinh, sinh viên, công chức nhà nước, công nhân… đều được nghỉ.
Các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết
Trong thời buổi hội nhập như hiện nay, không quốc gia nào có thể tồn tại một cách biệt lập, không có quan hệ với nước khác. Điều đó cũng có nghĩa là các quốc gia đó phải tham gia các công ước, điều ước quốc tế. Nước Việt Nam cũng như vậy, ngày nay, với chính sách mở cửa hội nhập, đất nước ta đã tham gia kí kết rất nhiều các công ước quốc tế.
Các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như: Công ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980), Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973 (20/1/1994). Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (25/7/1994). Có ảnh hưởng không nhỏ tới nội dung của pháp luật Việt Nam hiện nay, bởi các điều luật trong hệ thống pháp luật phải phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia kí kết.
Như vậy, có thể thấy nội dung của Pháp luật Việt Nam hiện nay chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Do đó khi xây dựng hệ thống pháp luật, chúng ta cần phải có cái nhìn thật toàn diện, tổng thể về các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung pháp luật, đồng thời phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong công tác nghiên cứu pháp luật, nắm bắt kịp thời sự vận động, phát triển của kinh tế xã hội để tiến hành sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Có như cậy thì pháp luật mới phát huy hết vai trò, tác dụng của mình, là động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống văn minh con người
Trân trọng./.
Cập nhật thông tin chi tiết về 5 Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chiến Lược Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!